1- Tiểu-sử:
Thế danh: Nguyễn Hương Hiếu (bên nội đặt tên Hương, bên ngoại đặt tên Hiếu)
Thân phụ: Nguyễn Văn Niệm.
Thân Mẫu: Trần Thị Huệ
Ngày và nơi sanh: năm Đinh-Hợi (1886)
Rue Paulbert Dakao Sài-gòn.
Năm 7 tuổi: Học trường Bà Phước (Nhà Trắng ) Sài-gòn.
Năm 17 tuổi kết duyên cùng Ông Cao-Quỳnh-Cư (Sau là Thượng-Phẩm Đạo Cao-Đài) ở làng Hiệp-ninh Tây ninh.
Năm 1925 chung sống ở đường Bourdais số 184 Sài-gòn, hiện là đường Calmette
Năm 23 tuổi, sinh một trai là Cao-Quỳnh-An.
Năm 35 tuổi gặp thời kỳ Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ.
Bà là Nữ thơ ký đầu tiên về việc chép Thánh giáo Cao-Đài.
Đêm 24-12-1925 Đức AĂÂ chính thức cho biết Ngài là Giáo-Chủ Đại-Đạo, là Ngọc Hoàng Thượng-Đế giáo Đạo Nam phương, là Đấng Cao-Đài Tiên Ông.
Tháng 3 năm 1926 Đức Chí-Tôn giáng Cơ dạy may Thiên phục cho Chức-sắc Lưỡng đài.
Ngày 30-10-1926 Đức Chí-Tôn dạy phải về Chùa Gò-Kén Tây ninh theo về Đại-Đạo.
Ngày 14 tháng giêng Đinh-Mão (dl 15-02-1927) Đức Bà được thọ Thiên ân phẩm Giáo-Sư (Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm phò loan)
Ngày 23-03-1927 Hội-Thánh trả Chùa Từ-Lâm dời về Long thành.
Năm 1928, Đạo bị khảo đảo, Ông Bà cùng về Thảo xá Hiền Cung.
Tháng 3 năm 1929 Đức Thượng-Phẩm qui Tiên
Năm 1930 Bà bắt thăm hành Đạo tại Sa-đéc kiêm luôn Thủ Dầu một, trong ba năm (1930-1933).
1934: Hội-Thánh bổ cai quản Giáo nhi và Đồng nhi
1935 Thăng phẩm Phối sư hành Đạo tại Tòa-Thánh Cai quản nhà may Linh Đức tới năm 1941 bị đảo chánh.
1942 Bà xuống Sai-gòn hiệp với Chức sắc Nam Nữ lo cơ Phục quốc.
1946: Đạo phục hưng, Bà về Tòa Thánh cai quản ba Viện: Hòa, Lại, Lễ được thăng Chánh Phối Sư (21-9 Bính Tuất – 15-10-1946)
Ngày 24-10 Mậu-Thân (dl 13-12-1968) Bà vinh thăng Đầu-Sư Nữ phái.
Ngày 11-05 nhuần Tân Hợi (dl 02-7-1971) Bà đăng Tiên tại Tòa Thánh, hưởng thọ 85 tuổi.
2- BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP
(Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn-Hương-Hiếu,
đăng Tiên ngày 11 tháng 5 nhuần năm Tân Hợi (dl 3-7-1971)
do Ngài Hiến Pháp Trương-Hữu-Đức Quyền Chưởng-Quản HTĐ
đọc tại Đền Thánh vào lúc 9 giờ 26 phút ngày 14-5 nhuần-Tân Hợi.)
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Kính thưa Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng Đài và Phước-Thiện.
Kính thưa chư Chức sắc, Chức việc và toàn đạo Nam Nữ.
Kính thưa quí vị.
Đức Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn-Hương-Hiếu đã qui Thiên ngày 11 tháng 5 nhuần năm Tân-Hợi (dl 3-7-1971) hồi 14 giờ tại Nữ Đầu-Sư-Đường, Tòa-Thánh Tây-Ninh, hưởng thọ 85 tuổi. Sau một thời gian ngọa bịnh tại bệnh viện Đồn Đất (Grall) Sài-gòn.
Trước khi tuyên dương công nghiệp của Đức Bà, tôi xin trân trọng lược thuật Tiểu-sử của Đức Bà như sau: Bà Nguyễn Hương Hiếu sinh năm Đinh-Hợi (1886) tại đường Paulbert, Đa kao Sài-gòn.
Con của Cụ Nguyễn văn Niệm và Cụ Bà Trần thị Huệ (đều chết).
Khi mới sanh, Bà Nội muốn tỏ dấu một nhà đạo đức nên thể theo tên của cha là Niệm, đặt tên bà là Nguyễn thị Hương. Còn Bà Ngoại lại đặt tên là Hiếu. Muốn vừa lòng cả Nội Ngoại đôi bên, nên khi ở bên Nội thì gọi tên Hương, khi về bên Ngoại thì gọi tên là Hiếu.
Thân sinh quê quán tại Cần Thơ, thân mẫu ở miền Gia Định
Khi Bà vừa lên 7 tuổi, được thân mẫu cho vào học trường Bà Phước (Nhà Trắng) Sài gòn. Đến năm 17 tuổi, thân mẫu cho Bà học Nữ Công, đến năm 21 tuổi thì Bà sánh duyên cùng Ông Cao-Quỳnh-Cư ở làng Hiệp Ninh (Tây Ninh). Năm 23 tuổi, Bà hạ sanh được một trai, đặt tên là Cao Quỳnh An.
Phần Đạo: Đến năm Bà 38 tuổi, gặp thời kỳ Đức Chí Tôn đến khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Một sự ngẫu nhiên của cơ huyền bí mà trước kia 3 Ông: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, có tánh cách Xây bàn cầu vong linh để làm thi tiêu khiển, chẳng ngờ Đức Chí-Tôn giáng khai cơ mở Đạo tại tư gia của Bà trước tiên, ở đường Bourdais nhà số 134 Sài gòn (hiện giờ là đường Calmette). Năm 1925, mới khai Đạo chưa có Thánh Thất, nên các Đấng dạy tạm dùng nhà Bà để thờ Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu đặng có nơi cầu cơ dạy Đạo và dìu dắt nhơn sanh trong buổi đầu là năm 1925. Đến năm 1926 mới mở Đạo lần tới Tân-Kim, Tân-Định, Lộc-Giang, Thủ-Đức, trong buổi chưa có Ngọc cơ, còn xây bàn, các Đấng giáng dạy Đạo cho Đức Hộ-Pháp, Đức Thượng-Phẩm, Đức Thượng-Sanh thì bàn gõ từ chữ. Đức Thượng-Phẩm đọc chữ nào, Bà biên chữ nấy, rồi mới ghép lại cho thành văn. Vì thế mà lúc còn Xây bàn, các Đấng giáng cho một bài thi bát cú hay tứ tuyệt hoặc dạy một việc gì, khi chép xong rồi Bà mới ghép lại một bài
thật lâu lắm, mà mỗi đêm mỗi cầu. Buổi ấy, Bà làm Biên Tập Viên (Thơ ký) cho các Đấng, chép thi văn dạy Đạo rất cao kỳ mầu nhiệm, ban đêm làm Thơ ký chép Thánh giáo, ban ngày lo nấu ăn tiếp đãi khách thượng, trung, hạ lưu xa gần đến nhập môn.
Trong 2 năm: 1925, 1926, chưa có người để chép Thánh giáo, nên Bà được vừa làm Thơ ký cho các Đấng, vừa đón tiếp nhơn sanh từ tháng 6 năm Ất Sửu (1925) đến năm Bính-Dần (1926).
Hồi chưa có Tòa Thánh, còn trong buổi phôi thai, mỗi khi khai đàn thượng tượng (thờ Thầy) đều có Bà theo chép Thánh giáo đem về cho Đức Thượng-Phẩm. Nên có Thánh giáo Thầy kêu:
- Hiếu, viết rõ con.!
Buổi ấy, Bà quên gia đình và sản nghiệp, chỉ vui say theo đường Đạo do các Đấng thường giáng dạy. Đến tháng 3 năm Bính-Dần (1926) Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy Bà may Thiên phục cho Ông Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt, kế tiếp may Thiên phục cho Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài. Hiệp-Thiên-Đài từ Thập nhị Thời Quân, Cửu-Trùng-Đài từ phẩm Lễ Sanh trở lên. Bà nhớ lời Đức Chí-Tôn dạy:
- Hiếu ! Con lo may Thiên phục cho mấy anh con cho kịp ngày Đại Hội, là ngày Khai Đạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự) vào ngày 14 tháng 10 năm Bính Dần, dương lịch 18-11-1926).
Do đàn cơ ngày 24 tháng 10 năm Bính-Dần (1926), Đức Chí-Tôn giáng dạy Bà Hiếu phải dọn đồ về Tây Ninh để chung lo việc Đạo cùng Cư, Tắc. Phải chịu khổ cực cùng Thầy, vì việc đạo là trọng. Từ ấy, Bà nghe theo Thánh-giáo về hành đạo tại Tây-Ninh.
Ngày khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm ngày 14 tháng 10 năm Bính-Dần tại Chùa Từ-Lâm-Tự, Gò-Kén, Tây-Ninh. Cả thảy Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng Đài đều về Chùa Gò-Kén, Bà đồng đi một lượt để làm công quả, ban ngày lo tiếp đãi Chức-sắc, bổn đạo và quan khách ngoài đời, vì lúc sơ khai, không có công quả hiến thân, nên Bà lo đi chợ nấu nướng đãi ăn, 5 giờ chiều là lo viết sớ cho Nữ-phái Nhập môn, dạy 5 câu nguyện cho thuộc, đến giờ Tý tiến dẫn nhập môn vào hầu Đức Lý Giáo-Tông. Vì buổi khai đạo chưa có Đồng-nhi, Bà phải làm Đồng nhi đọc kinh cúng Tứ thời và đọc kinh mỗi khi cầu Cơ. Suốt 3 tháng, mỗi đêm đều như vậy. Bà còn may Thiên phục cho Chức sắc, Chức việc tại Chùa Gò Kén. Qua ngày 14 tháng Giêng Đinh Mão (dl 15-2-1927), Bà thọ phong Giáo-Sư Nữ-phái do đàn cơ Phong Thánh kỳ I.
Đến ngày 20 tháng 2 năm Đinh Mão (dl 23-3-1927), Hội-Thánh trả Chùa Gò Kén lại cho Ông Hòa Thượng Giác Hải, thỉnh cốt Đức Phật Thích Ca về đất mới mua là nơi Tòa-Thánh ngày nay. (Buổi ấy gọi là Chùa mới).
Chỗ nầy, trước kia là một khu rừng rậm, chưa có nhà ai cho lắm, chỉ là nơi rừng thiêng nước độc. Khi dọn về đất mới, Đức Hộ-Pháp, Đức Thượng-Phẩm và công quả phá rừng không có nhà ở, nên tạm dùng cái nhà bò ở để nấu ăn cho công quả phá rừng mỗi ngày, cho đến ngày cất Tòa Thánh tạm xong, mới có Chức sắc tựu về đông đảo, tiếp cất Hậu Điện, Đông Lang, Tây Lang, Trù phòng...
Bà chỉ dẫn cho Trù phòng lo đi chợ mua nấu cho công quả ăn.
Năm Mậu-Thìn (1928) tạo tác vừa xong, bỗng đâu bão tố bất ngờ, Đức Cao Thượng-Phẩm bị bạc đãi xô đuổi, Bà liền trở về Thảo-Xá Hiền-Cung. Trò đời gẫm lại buồn cười, nhưng xét lại, xưa nay bực Chí Thánh cũng không thoát khỏi tuồng đời khinh bạc.
Đầu năm Kỷ Tỵ (1929) Đức Cao Thượng-Phẩm qui Thiên vào lúc 10 giờ ban mai ngày mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929), Bà lo Tuần tự cho Đức Cao Thượng-Phẩm xong xuôi rồi, Bà trở lại Tòa Thánh tiếp tục làm công quả nữa.
Năm Canh Ngũ (1930) Bà vâng lịnh Đức Lý Giáo-Tông bắt thăm đi hành đạo giữa Bửu điện, Bà bắt trúng thăm đi hành đạo tỉnh Sa-Đéc, sau được lịnh Hội-Thánh cho kiêm luôn tỉnh Thủ-Dầu-Một. Hành đạo hai tỉnh được 3 năm (từ năm 1930 đến năm 1933), qua năm 1934 dạy Giáo Nhi một năm.
Năm Ất Hợi (1935) Bà được thăng phẩm Phối Sư, hành đạo tại Tòa Thánh chung với Chức sắc Nữ phái, vừa tiếp tân, vừa dạy may Thiên phục cho Chức sắc Nam Nữ tại Sở may Linh-Đức. Đến năm 1941, nền Đạo chinh nghiêng, bị nhà cầm quyền Pháp bắt Chức sắc Đại Thiên Phong đày ra hải ngoại. Tòa-Thánh và các Thánh Thất bị đóng cửa. Chức sắc phần nhiều tản lạc, Bà trở về Thảo Xá Hiền Cung.
Năm 1942, xuống Sài gòn hiệp tác Hãng Tàu để chung lo với anh em Chức sắc Nam Nữ về mặt Đạo. Năm 1946, nền Đạo phục hưng, Chức sắc Nam và Nữ tựu về Tòa Thánh. Hội-Thánh phân Cửu Viện Nam Nữ
Bà vâng Sắc Huấn số 30/SH ngày 21-9 Bính-Tuất (1946) lãnh chưởng quản 3 Viện: Hòa, Lại, Lễ Nữ phái (còn ở phẩm Phối-Sư) cho đến ngày 16-11 Canh-Dần (dl 22-12-1950).
Đến năm Mậu Thân (1968), Thánh Lịnh số 01/TL ngày 24-10 Mậu-Thân (dl 13-12-1968) thăng phẩm Đầu-Sư Chánh vị, Bà cầm quyền chưởng quản Cửu-Trùng-Đài Nữ phái cho đến ngày nay.
Kính thưa quí vị,
Trên đây là phần Tiểu sử của Đức Bà Hương Hiếu. Về phần biểu dương công nghiệp của Đức Bà, tôi trích lục sau đây Huấn từ của Đức Thượng-Sanh đọc tại Đền Thánh ngày 18 tháng 11 Mậu Thân (1968) nhơn cuộc Lễ Tấn Phong Đức Bà lên phẩm Nữ Đầu-Sư chánh vị. Thiết nghĩ bài nầy đầy đủ công nghiệp của Đức Bà, tôi có viết thêm cũng bằng thừa.
"Kính thưa Hội-Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Hội-Thánh Phước Thiện.
Kính thưa chư Chức sắc Lưỡng phái,
Hôm nay là ngày Lễ Tấn Phong Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu, thọ Thiên ân Đầu-Sư Chánh vị Nữ phái do Thánh giáo của Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm tại Cung Đạo đêm 20 tháng 10 Mậu Thân (dl 9-12-1968).
Lễ lập thệ đã cử hành xong. Từ đây Chức sắc Nữ phái CTĐ đã có vị Đầu-Sư cầm quyền điều khiển dìu dắt trên đường Thánh đức để trau giồi đạo hạnh, lập chí vị tha cho xứng đáng là bậc Nữ Thánh nhơn trong cửa Đại Đạo.
Đức Lý Đại Tiên ban ân huệ cho Bà Nguyễn Hương Hiếu, thật là một sự thăng thưởng công minh và một khích lệ lớn lao cho toàn thể Nữ phái.
Trên đường lập vị, Bà Nguyễn Hương Hiếu là Chức sắc Nữ phái duy nhất đã đạt tới phẩm vị tối cao với một công nghiệp có thể nói là phi thường và một tinh thần phục vụ đáng kính phục.
Bà là một tín đồ Cao Đài trước khi Đạo Cao Đài chính thức ra đời, một Nữ Chức sắc đầu tiên đã có mặt trong đêm ba Ông: Cư, Tắc, Sang, họp nhau chơi Xây bàn và tiếp xúc được với các chơn linh cõi Vô hình, tức là đêm 7 tháng 6 năm Ất Sửu (dl 27-7-1925).
Từ đó về sau, đêm nào Bà cũng tiếp tay với ba vị kể trên để chép thi văn hoặc những câu đàm thoại của các chơn linh. Đến sau có các Đấng Thiêng liêng giáng cơ thì Bà lãnh phận sự Thơ ký chép Thánh ngôn và tiếp đãi quí khách trong hàng trí thức tới lui ngày càng nhiều để tìm Đạo hoặc chứng kiến sự mầu nhiệm của Cơ Bút.
Mỗi đêm Bà phải thức đặng hầu bút trong đàn cơ, xong rồi thì lo lắng bữa ăn giải lao cho ba vị chủ nhân và quí khách là những bạn thân đến hầu Đàn, không quản cực nhọc, không chút than phiền. Nhờ sự giúp sức về tinh thần của Bà mà cuộc chơi xây bàn của ba Ông: Cư, Tắc, Sang, đã đưa tới giai đoạn sáng lập nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hiện tại trong nước Việt-Nam.
Đức Thượng-Phẩm nhờ có người bạn đường đồng tâm nhứt trí như Bà mới phấn khởi bỏ cả công danh sự nghiệp lo lập công tạo thành nền tảng của Đạo lúc ban sơ. Sau ngày Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt gởi Tờ Khai Đạo cho quan Thống Đốc Nam Kỳ, số người Nhập môn ngày càng thêm đông, công việc của Bà càng thêm nặng nhọc. Mỗi đêm Bà phải ra công dạy mấy chục Đồng nhi đọc kinh cho đúng theo nhịp và vâng theo lịnh của Đức Chí Tôn, Bà lãnh may Thiên phục cho tất cả Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng cho kịp ngày Khai Đạo tại Chùa Gò Kén.
May Thiên phục cho Chức sắc do theo Thánh giáo chỉ dạy, chẳng phải là một việc dễ dàng mà ai cũng làm được, nhứt là lúc ban sơ không có một kiểu mẫu nào sẵn, nhưng nhờ Bà có khiếu thông minh, nhờ tài Nữ công tinh xảo nên áo mão của phẩm vị nào Bà cũng trù nghĩ may đúng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn.
Kế đó, vâng theo Thánh giáo đêm 24 tháng 9 Bính Dần (1926), Bà phế đời cùng Đức Cao Thượng-Phẩm về Chùa Từ Lâm Gò Kén, nhằm ngày Rằm tháng 10 Bính Dần, là ngày thiết lễ Khai Đạo và ở luôn nơi đó cho tới hơn 3 tháng sau, Bà cùng Đức Thượng-Phẩm lo dời Thánh Thất về đất mới làng Long Thành, Tây Ninh.
Bà góp sức chịu cực khổ lo việc Trù phòng nuôi công quả, tổng số hơn 300 người, do Đức Thượng-Phẩm điều khiển công cuộc phá rừng và lập Thánh Thất tạm nơi vùng đất mới, tức là vùng Nội Ô Thánh địa hiện tại. Đầu tiên, Bà Nguyễn Hương Hiếu thọ phong chức Giáo-Sư tại Từ Lâm Tự, Gò Kén, ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl 15-2-1927). Đó là đàn cơ thứ nhứt phong thưởng Nữ phái.
Qua năm Ất Hợi (1935), Bà được thăng phẩm Phối-Sư, và đến ngày 16-11-Canh Dần (1950), Bà được thăng phẩm Chánh Phối-Sư, chưởng quản Lại Viện, Lễ Viện và Hòa Viện Nữ phái.
Bà hành quyền Chánh Phối Sư trong 18 năm, cho tới ngày 20-10 Mậu-Thân (dl 9-12-1968), Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm ban ân huệ cho Bà lên Nữ Đầu-Sư chánh vị.
Một đời tận tụy vì Đạo, vì chúng sanh, hơn 43 năm công nghiệp chịu bao nhiêu gian lao khổ hạnh, chết về mặt đời, sống về mặt Đạo, trải qua nhiều cơn thử thách cay nghiệt, Bà phải nát gan bấn ruột, trong lúc người Bạn đường đã qui vị, đứa con trai độc nhất lại từ trần bên Pháp quốc, kế ít lâu Cụ thân mẫu của Bà lại từ giã cõi đời.
Bà chỉ còn một mảnh thân bơ vơ cô độc trong tình cảnh não nùng bi đát, để rồi khi nắng sớm mưa chiều, lúc canh tàn đêm lụn, Bà không thể ngăn được giọt thảm đầm đìa để khóc chồng, khóc con và khóc mẹ.
Đường tử biệt đã làm cho tan nát cảnh gia đình, tất cả hy vọng đều đổ vỡ thì người trong cuộc còn biết trông cậy vào đâu để sống còn trong những chuỗi ngày sầu thảm.
Nhưng may thay, nhờ Bà đã thâm nhiễm mùi Đạo, tự biết muôn sự ở đời đều là giả cuộc, kiếp phù sinh như cảnh hoa sớm nở tối tàn, nhứt là nhớ lời khuyên nhủ của các vị Tiên Nữ Diêu-Trì-Cung, nên Bà tự an ủi lấp thảm vùi sầu, khuây khỏa với tiếng kệ kinh, lấy chữ vị tha làm mục đích, tận tâm phục vụ, dắt dìu Nữ phái, quyết lòng hiến cả tâm hồn lẫn xác thân cho nền Đại Đạo.
Vì vậy, sự ban thưởng phẩm vị Nữ Đầu-Sư cho Bà Nguyễn Hương Hiếu thật là đúng chỗ và xứng đáng.
Kính thưa Hiền Tỷ Đầu-Sư,
Hiền Tỷ đã đạt đến cấp bậc tối cao của Nữ phái Cửu-Trùng-Đài, đó là một vinh hạnh siêu nhiên mà không có một vinh hạnh nào ở cõi trần nầy sánh bằng. Hiền Tỷ có quyền hưởng thụ và Hiền Tỷ nên vui mừng vì sự ban thưởng cho Hiền Tỷ là một ân huệ thiêng liêng để đền đáp lại 43 năm công nghiệp và một tấm lòng son sắt vì Đạo, thủy chung như nhứt.
Giờ đây đến lúc thi hành sứ mạng. Hễ phẩm vị càng cao thì trách nhiệm càng nặng, phận sự càng khó khăn. Nếu không lấy Đạo làm trọng, lấy đức làm căn bản, lấy lẽ công làm chuẩn thằng, lấy cương trực làm đường lối, thì không thể thực hành đúng đắn phận sự.
Phải sợ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu hơn sợ mích lòng người thì mới hẳn là vô tư, còn vị nể cá nhân hơn tôn trọng Luật Đạo thì chẳng phải là tư cách của người cầm quyền. Vì cán cân công bình một khi đã chênh lệch thì đạo đức không còn tồn tại mà việc làm chỉ là tác động quá tầm thường của kẻ phàm tục.
Hiền Tỷ đã có nhiều kinh nghiệm trong trách vụ điều khiển Nữ phái, tôi tin chắc là Hiền Tỷ có đủ sáng suốt nhận định để nâng cao đời sống tinh thần của Nữ phái và giúp nên cho Đạo trong sứ mạng cao trọng mà Đức Lý Đại Tiên đã giao cho Hiền Tỷ."
(Tới chỗ nầy là dứt phần trích trong Bài Huấn Từ của Đức Thượng-Sanh, tuyên dương công nghiệp Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu, trong buổi lễ Tấn Phong Nữ Đầu-Sư tại Tòa Thánh)
Kính thưa Quí vị,
Trước khi dứt lời, tôi xin thành tâm cầu nguyện Ơn Trên Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cùng các Đấng Thiêng liêng ban phước lành cho toàn thể Hội-Thánh, Chức sắc, Chức việc và toàn đạo Nam Nữ và xin chơn thành phân ưu cùng tang quyến.
Sau nữa, xin quí vị đồng cùng tôi dành đôi phút để tưởng niệm công đức của Đức Bà Nữ Đầu-Sư Hương Hiếu.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Hiến Pháp Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài
3- Bài Thài hiến lễ Bà Nữ Đầu-Sư Hương Hiếu:
Tu hành gắng chí lập dày công,
Đến buổi chung qui hưởng phước hồng.
Cửa Đạo gay go trường khổ hạnh,
Đường Tiên nhàn rỗi bước thong dong.
Lợi danh ví muốn cho đầy đủ,
Tội lỗi càng thêm nỗi chất chồng.
Cuộc thế chẳng qua trò mộng ảo,
Ngày về nhắm mắt nắm tay không.
Bài thi nầy, Bà Nữ Đầu-Sư viết ra lúc còn mạnh khỏe và đang ở phẩm Nữ Chánh Phối Sư và có đăng trong Quyển Đạo Sử I của Bà. Khi Bà đăng Tiên, Hội-Thánh lấy bài thi nầy là Bài Thài hiến lễ.
4- Nhận định về tài đức của Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương-Hiếu:
Đối với nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương-Hiếu là vị Đệ nhị Nữ-Đầu-Sư, sau Đệ nhứt Nữ Đầu-Sư là Bà Lâm-Hương-Thanh. Nhưng thực tế, thì Bà Nguyễn Hương-Hiếu là vị Nữ Đầu-Sư đầu tiên ngự nơi Nữ Đầu-Sư-Đường, trực tiếp Chưởng-quản Hội-Thánh Nữ-phái Cửu-Trùng-Đài, bởi vì Bà Lâm Hương Thanh khi qui vị vẫn còn ở phẩm Nữ Chánh-Phối-Sư, sau đó mới được truy thăng lên phẩm Nữ Đầu-Sư.
Vì vậy hình ảnh của Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu đã in sâu vào tâm khảm của nhiều thế hệ Chức sắc Nữ phái Cửu-Trùng-Đài.
Bà là Nữ Môn-đệ đầu tiên của Đức Chí-Tôn, là Thơ ký duy nhất của Đức Chí-Tôn và các Đấng trong thời gian ban sơ nền đạo, từng theo quí Ngài: Đức Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, chép Thánh ngôn Thánh giáo.
Bà và Đức Cao Thượng-Phẩm là hai người đầu tiên vâng lịnh Đức Chí-Tôn phế đời hành Đạo.
Cuộc đời của Bà, Tiểu sử của Bà gắn liền với 46 năm Lịch-sử của Đạo Cao-Đài kể từ năm 1925 đến năm 1971, tức là kể từ lúc nền Đạo còn tiềm ẩn, đến lúc sơ khai, rồi phát triển, rồi bị chinh nghiêng do những khủng bố của bạo quyền, đến lúc phát đạt vinh quang.
Bà là một Nữ Môn-đệ được Đức Chí-Tôn yêu ái nhứt. Bà có ghi lại nỗi lòng nhớ nhung khi vắng nghe những lời dạy của Đức Chí-Tôn như sau:
Ở nhà Đức Cao Thượng-Phẩm mỗi ngày đêm Đức Chí-Tôn giáng dạy Đạo. Lúc nọ, Thầy sai ba Ông đi trọn một tuần lễ, để Tôi ở nhà, nhớ Thầy, buồn quá! Tôi cúng thời chiều, ngước lên Thiên Bàn khóc mà nói rằng: Con biết Thầy có ngự nơi Thiên bàn, nhưng Thầy vắng một tuần rồi, con không được nghe lời Thầy dạy, con nhớ quá!
Chiều Chúa nhựt, ba Ông về, tôi liền thắp đèn nhang cầu Thầy.
Thầy giáng nói với tôi như vầy :
-“Hiếu muốn cầu Thầy hơn ai hết.
Trước vốn yêu,
Nay cũng yêu,
Con gái út,
Có bao nhiêu,
Khuyên con lòng vậy mãi,
Cái mến con thương Thầy đều.”
5- Lời Thầy dạy riêng Bà Hương-Hiếu:
Thảo Xá Hiền Cung
Ngày 22 tháng 10 Kỷ Tỵ (21-11-1929)
THẦY
Các con,
Diêu! Biểu mẹ con đứng dậy, Thầy lấy làm đau đớn, Thầy thấy con chịu khổ hạnh vì Thầy.
Hiếu! Con đã nhiều phen khóc lóc, Thầy thê thảm muôn phần, song thấy Thiên cơ đã định, ngày hội hiệp con mới hiểu đặng mà đem dạ thương Thầy. Con ôi! Cái tình thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng ra bao nã?
Thầy chỉ đợi các con mà các con chẳng nhớ đến, Thầy vì nóng lòng gặp nhau nên mỗi phen đặng thế Thầy tức cấp đem về, con đã rõ thấu cõi trần này biết bao khổ não đày đọa các con. Thầy đến rước các con cũng bởi thấy khổ mà cầm lòng không đặng.
Vậy con Hiếu! Con gắng suy nghĩ lời Thầy mà giải lòng phiền muộn, hầu lo thủ Hiếu cho tròn, phận Mẹ già ác xế đầu non, con nhớ đến chồng con lo báo bổ.
Diêu! Con lo giải khuây Mẹ con, chi chi cũng có Thầy giúp sức, con nên gần gũi với Em con cho thường, vì nó đã cầu nguyện Thầy như vậy.
Tắc cũng vậy nghe; đừng xao lãng tình đời mới ra người quán chúng, tập nhỏ nhẹ Chị em chìu bụng, nên lấy mình làm thế Ðạo anh, như gặp cơn đói khó rách lành, giữ trọn nghĩa để danh lưu hậu thế.
Diêu! Con đã đặng lời châu ngọc của Thầy gắng lo liệu với em giúp nó đặng hoàn toàn trách nhiệm.
Tắc! Con khá nhớ rằng: Ðạo đức Thầy dạy dỗ từ thử đủ sức phục người, con chỉ liệu phương hay mà định đoạt, Thầy chỉ cầu con để dạ thương yêu chúng nó kẻo tội nghiệp. Con cũng nên giảm bớt tánh cang cường, lấy lòng Từ bi mà dạy dỗ nghe con.Hiếu! Thằng An nó về Thầy không hay chi hết.
Con ôi! Muốn đi thì đi, muốn về thì về Thầy không phương cản đặng, kệ kiếp nó. Thầy ban ơn cho các con.

Ngày 29-04-1928 (âl. 10-03-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy "Cuộc đời khó khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu. Hễ bài càng khó thi đậu càng cao.
Phò loan: Hộ-Pháp - Thượng-Phẩm
Tòa Thánh, năm Mậu Thìn (1928).
THẦY
Các con.
Cư, Hiếu! Thầy thấy hai vợ chồng con chịu nhiều điều sầu thảm, Thầy mừng, mà cái mừng ấy lại đổ ra chứa chan giọt lụy!
Ðường đời khúc mắc chông gai là lẽ Thiên cơ đã định vậy; cái nơi để cho cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến kiến công lập vị mình chẳng khác nào con buôn trong buổi chợ. Cả sức lực, cả trí não tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy nên mới mất chơn linh, thất ngôi diệt vị.
Bởi vậy cho nên nhiều bực Thánh, Thần, Tiên, Phật cam lòng thủ phận chẳng dám vọng cầu đem thân vào cảnh đọa, nhưng mà chẳng tái kiếp thì như nhu sĩ trốn thi, thế nào mong mỏi địa vị ra cao thượng.
Cuộc đời khó khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu. Hễ bài càng khó thì đậu càng cao, đậu cao mới ra có giá. Thầy tưởng như nơi thế gian nầy có đứa con nào Thầy cưng trọng hơn hết thì là các con, nhưng mà chẳng lẽ Thầy làm Giám-khảo lại cấp nấp bài thi lén cho mỗi đứa thì cái đậu của các con có ra chi.
Lại nữa, Thầy biết trước rằng: Không cần giúp các con cũng dư sức đậu đặng, thì dường ấy nếu Thầy giúp, tức hại thể diện các con, chớ không giờ phút nào Thầy xa các con.
Các con chịu khổ hạnh là Thầy muốn vậy.
Nhà nghèo hạnh tốt ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt; cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh; tâm thành là để giồi trau tánh tục; lòng đạo đức quí hơn là miếng đỉnh chung; tố bần hàn tùy mình mà hành Ðạo, thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con (Vì có người nghèo nên Thầy giáng cơ dạy). Thăng

Ngày 28-06-1928 (âl. 11-05-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy làm đườngcát trắng để ví với sự khổ hạnh của Bà
Phò loan: Hộ-Pháp - Thượng-Phẩm
Tòa Thánh, Le 28 Juin 1928 (Ngày 11 tháng 5 Mậu Thìn)
THẦY
Các con.
Hiếu! Con nghe Thầy nói chuyện làm đường cát trắng con.
Thầy đố con biết làm sao cho đường đen ra trắng... Cười
Nghe con, nè làm theo nghe.!
Ðổ đường đen vào một cái hủ thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hủ đường, còn một phần hủ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì là đường trở nên trắng; gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon rất đẹp đó con.
Cái khổ hạnh của con giống như đường đó con à. Con có biết Thầy khóc như con vậy chăng con?!
Nếu con không vậy làm sao đáng con cái của Thầy. Con chỉ nhớ rằng Thầy thương con là đủ. Ðặng thế gian yêu mến ắt Thầy phải ghét, mà Thầy ghét con thì còn chi con, con khá nhớ!
Thăng.
6- KHỔ TÂM HÀNH ÐẠO - Nhiều nỗi khổ tâm của Ðức Cao Thượng-Phẩm xin kể dưới đây
Xây Bàn (Sơ khởi)
Thời kỳ Trời đến cứu thế tại Nam phương (Ất Sửu 1925)
Ðức Cao Ðài giáng cơ dạy chúng tôi phế đời hành Ðạo. Hai tôi vâng lịnh liền để trọn Đức-tin nơi Ðức Cao Ðài. Chúng tôi hết lòng hết dạ chỉ để tâm tôn sùng Ðấng Thiêng Liêng là Ðức Chí-Tôn, nên hai tôi trọn vâng mạng lịnh phế đời hành Ðạo hồi năm 1926 (liền bỏ sở làm).
Khai Ðạo ngày 14 tháng 10 Bính-Dần (18-11-1926) mà chúng tôi hành Ðạo hồi năm Ất-Sửu (1925) nghĩa là Ðức Chí-Tôn khiến cho ba ông: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh ham mộ Xây bàn đặng các Ðấng đến mở Ðạo.
Ông Cao-Quỳnh-Cư và Nguyễn-Thị-Hiếu vâng lịnh Chí-Tôn phế đời hành Ðạo, bỏ sở làm và tém dẹp đồ đạc nhà cửa về một lượt với Chức Sắc cùng ngày 14-10-Bính Dần (1926).
Hành Ðạo tại chùa Gò Kén hơn 3 tháng, trả chùa Từ-Lâm-Tự Gò Kén, nhằm ngày 20-02-Ðinh Mão (23-03-1927). Dọn đồ dời chùa, thỉnh chư Phật về đất mới mua, hành Ðạo được 4 năm.... Bỗng đâu bão tố, đất bằng sóng dậy đưa tới làm khổ tâm chúng tôi hết sức buồn là không thể trở ra đời làm việc nữa, hổ thẹn với anh em làm việc trong sở, vì đã nhứt định phủi hết trần thế, công danh lợi lộc cũng chẳng màng, quyết chí tu hành để làm con tế vật cho Ðức Chí-Tôn sai khiến mà thôi.
Nghĩ lại hồi còn rừng rậm sầm uất không ai về, để Ðức Cao-Thượng-Phẩm chỉ dẫn người Miên phá rừng, đánh gốc, phá chồi, tạo tác Ðền-Thánh tạm, nào là Ðông Lang, Tây Lang, Hậu Ðiện, nhà Thiên Phong, nhà ngang dãy dọc, nhà Dưỡng Lão, nhà trường, nhà khách.... tạo đâu đó xong xuôi rồi Ðức Cao-Thượng-Phẩm bị một trận khảo đảo khá dữ dội là: Có một nhóm người thiếu thương yêu gieo ác cảm hội nhau dưới Thủ-Ðức, nước lã khuấy nên hồ, họ đồng lòng về Tòa-Thánh đuổi Ðức Cao Thượng-Phẩm kỳ 24 giờ ra khỏi Tòa-Thánh, nếu không thì cột trong rừng bắn.
Làm Ðạo lúc mới phôi thai rất khổ sở trăm bề, có kẻ nghịch rình mò âm mưu với nhau hợp lại xúi giục gây rối, làm loạn, họ đồng lòng với nhau đuổi hai vợ chồng Thầy Tư (tức Cư và Hiếu).
Buồn cười... tuồng đời lạnh nhạt, thôi, họ dữ quá! Chúng tôi về Thảo-Xá Hiền-Cung là nơi căn cội của Chí Tôn dạy cất trước, nên Thảo-Xá Hiền-Cung là gốc.
Thưa quý Ngài, hai tôi bị đại khảo, lớp thì bị người bạc đãi, xua đuổi, lớp bị húng hiếp đủ điều, lớp thì khổ tâm trong gia đình, trong một năm chết ba người yêu mến nhất của đời sống tôi: chồng mất tháng 3, con mất tháng 8, mẹ mất tháng 9 năm Kỷ Tỵ (1929).
Tôi bơ vơ có một mình, khóc thầm tủi lén, nước mắt không ráo, quên ăn bỏ ngủ. Than ôi! Trong lúc tôi lâm nguy nhờ có Anh Cả, Ðức Thượng-Ðầu-Sư và Chị Lớn Thượng vô ra khuyên lơn tôi. Anh Cả gởi thơ cho Nữ phái các làng kế cận hạt Tây- Ninh. Anh Cả dạy Nữ phái tới lui thường thường chuyện vãn với tôi đặng giải khuây trong cơn sầu não, thật không có bút mực nào cạn tỏ cho hết, nhiều nỗi đứt từ đoạn ruột (hồi năm 1929) thật là mạch sầu khó nỗi cản ngăn, tâm chí không toan dằn đặng lụy!!!
Thưa quý Ngài, bởi vì do theo luật của Tạo Hóa, hễ đàn bà liễu yếu đào thơ, phải nương dựa dưới bóng của ông chồng, chi chi cũng nhờ ông chồng, những khi đói rách, lành, muôn việc đều nhờ ông chồng mà thôi.
Trái lại trong gia đình chết hết, bỏ tôi ở lại có một mình, chỉ nương náu với mẹ già như trái muồi chín cây (Bà Nội An).
Tôi cũng phụng sự cho má tôi đến năm 1946 má tôi qui liễu.
7- Sách viết của Bà Hương-Hiếu:
Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu có biên soạn 2 Bộ sách: Nữ Trung Bá Hạnh và Đạo Sử.
- NỮ TRUNG BÁ HẠNH : cũng gống như sách Nữ Trung Tùng Phận của Tiên Nương Đoàn thị Điểm, dùng để giáo dục Nữ phái, nhưng Bà viết theo thể văn xuôi, dẫn giải và rập khuôn theo Nho giáo, nên có nhiều điểm còn khó khăn và cầu kỳ đối với phụ nữ thời Tam Kỳ Phổ Độ.
- ĐẠO SỬ: gồm 2 quyển I và II
Quyển I nói về thời kỳ Xây Bàn năm Ất Sửu 1925.
Quyển II nói về giai đoạn lịch sử từ 1926 đến 1929.
Hai quyển Sử nầy rất quí báu, và rất được người sau tin cậy, vì nó rất chơn thật, ghi lại rất chính xác ngày tháng năm của các sự kiện quan trọng xảy ra buổi đầu tiên, khởi sự Đức Chí Tôn xây dựng nền Đại Đạo.
 |
Tháp Bà Nữ Đầu-Sư Hương-Hiếu |

►Xem tiếp CHƯƠNG 04 >>>>>