A- Hoài niệm: Ba vị Nữ Ðầu-Sư
Từ ngày Khai Ðạo năm 1926 đến năm 1975, Ðạo Cao Ðài có 3 vị Nữ Ðầu-Sư làm đầu Hội-Thánh Nữ-phái.
1- Nữ Ðầu-Sư Hương Thanh. Thế danh là Lâm Ngọc Thanh (1874-1937) Bà là vị Nữ Đầu-Sư đầu tiên của Ðạo Cao Ðài, nhưng là hàng truy phong, được Hội-Thánh đúc tượng nơi mặt tiền Đền-Thánh, phía bên Nữ phái. Bức tượng này được đặt trên lầu trống. Đối diện là lầu chuông là bức tượng của Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung.
2- Nữ Ðầu-Sư Hương Hiếu. Thế danh là Nguyễn Thị Hiếu (1887-1971) Bà cũng là bậc tiền bối, lập công ngay từ thuở khởi khai Đại-Đạo.
Bà được Thiên phong Chánh vị Nữ Ðầu-Sư ngày 24-10 Mậu-Thân (dl 13-12-1968).
3- Nữ Ðầu-Sư Hàm Phong Hương Lự. Thế danh Hồ Thị Lự (1878-1972) Bà đắc phong Nữ Ðầu-Sư Hàm phẩm trong một đàn cơ tại Cung Ðạo cùng một lượt với Bà Hương Hiếu ngày 24-10 Mậu-Thân (dl 13-12-1968). Chính Bà đã tạo nên những người con làm rường cột cho nền Đại-Đạo. Tức nhiên Bà là thân-mẫu của:
1- Ngài Cao-Đức Trọng. Tiếp-Đạo Hiệp-Thiên-Đài
2- Bà Cao Hương-Cường Nữ Giáo-Sư Cửu-Trùng-Đài
3- Ngài Cao-Hoài-Sang. Thượng-Sanh Hiệp-Thiên-Đài
B-Lập Pháp Chánh Truyền cho Nữ phái
Trước khi bàn đến việc lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ phái, nên nói qua lý-do vì sao Đức Chí-Tôn không lập mà để cho Đức Lý đứng ra lập?
(Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý Thái-Bạch)
Nữ-phái vốn của Lý Giáo-Tông lập thành.
Hộ-Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng Chánh-Phối-Sư HƯƠNG-THANH rằng: Muốn phế Nữ-phái, song con cũng đồng con, hễ bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ-phái buổi lập Pháp-Chánh-Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền-bí với Thầy cùng Ngọc-Hư-Cung nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam lòng để cho Đức Lý Giáo-Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật-lệ Thiên điều hay chăng? Hễ càng suy-nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày.
Xem lại Nữ-phái không biết trau-giồi trí thức đặng làm trách-nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu-lo hơn nữa!
Chính mình Cao Thượng-Phẩm mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha-thứ cho Nữ-phái nơi Ngọc-Hư, bằng chẳng thì đã bị phế; xin chư Đạo-Tỷ để dạ lo lấy phận mình.
Nữ phái phải tùng Đầu-Sư Nữ phái song Đầu-Sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-pháp.
PCT-“Hội-Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái: Nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp”
CG: Đức Giáo-Tông đến kêu Hội-Thánh Nam phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt của Nữ-phái Ngài đến ban đặng hành lễ theo đẳng cấp.
Cái tiếng “sắc tốt” không, dầu ai đọc đến cũng thầm hiểu nghĩa-lý sâu xa (1)
Giáo-Tông duy chỉ dặn xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài buộc phải có trật-tự cho lắm, vì vậy mà cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ phải phân biệt nhau, chẳng đặng chung hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.
Hộ-Pháp có hỏi Ngài về sự tôn-ti phẩm-trật, thì Ngài dạy rằng: Nam Nữ vốn đồng quyền. Còn hỏi về Lễ nghĩa giao-thiệp về phần đời, thì Ngài dạy: Giáo-Hữu Nam-phái cũng chịu dưới quyền Giáo-Sư Nữ-phái (2). Còn lễ thì khi vào Đại-Điện tỷ như Giáo-Sư Nam-phái gặp Phối-sư Nữ-phái thì Nam phải đảnh lễ Nữ trước, lớn nhỏ vẫn đồng, quyền hành tùy Chức sắc.
PCT: Nữ-phái phải tùng Đầu-Sư Nữ-phái, song Đầu-Sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.
CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải tùng quyền Đầu-Sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.
Xem rõ lại, thì Pháp-Chánh-Truyền truất quyền Nữ phái không cho lên địa-vị Chưởng-Pháp và Giáo-Tông.
Hộ-Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy:
- Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ-phái không cho lên địa-vị Chưởng-Pháp và Giáo-Tông, thì con e mất lẽ công-bình chăng?
Thầy dạy: Thiên địa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả càn-khôn thế giới nhờ Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương-quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt, Âm khí lẫy-lừng, ấy là ngày càn khôn thế giới phải chịu trong hắc-ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ phái cầm quyền Giáo-Tông làm chủ nền Đạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Đạo ắt bị tiêu tàn ám-muội.”
Hộ-Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo-Tông Nữ-phái thì đã đành, song quyền Chưởng-pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.
Thầy dạy: Chưởng-Pháp cũng là Giáo-Tông, mà còn trọng-hệ hơn, là vì Người thay mặt cho Hộ-Pháp nơi Cửu-Trùng-Đài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa-vị Giáo-Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa-vị Hộ-Pháp con! Bởi chịu phận rủi sanh nên cam phận thiệt-thòi, lẽ Thiên-cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương-yêu binh-vực thay Thầy kẻo tội-nghiệp!” (PCT)
Chú thích
(1) Nếu Chư Hiền-hữu biết coi Nữ-phái như Em thơ dại, chỉ biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ dỗ như Lão vậy, mới đặng làm trai, con Thầy mà chớ!
(2) Phải vậy
1- QUYỀN HÀNH NỮ ĐẦU-SƯ
PCT: Nữ-phái phải tùng Đầu-Sư Nữ-phái, song Đầu-Sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.
Chú giải: Nữ Đầu-Sư quyền như Nam-phái, song điều đình bên Nữ-phái mà thôi, chẳng đặng xen lộn qua Nam, cũng như Nam chẳng đặng xen lộn qua Nữ.
Mỗi điều chi thuộc về Nữ-phái thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp chỉ do nơi Nữ-Đầu-Sư.
Hộ-Pháp có hỏi về cái Ngai của Nữ-Đầu-Sư, thì Thầy dạy:
“Tòa-Thánh day mặt ngay hướng Tây, tức là chánh cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là Cung Càn, bên tay mặt Thầy là Cung Khôn, đáng lẽ Thầy phải để bảy cái Ngai của phái Nam bên tay trái Thầy, tức bên cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn Đạo cho đủ Ngũ Chi, cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là cung Đoài, cho đủ số. Ấy vậy cái Ngai của Đầu-Sư Nữ phái phải để bên cung Khôn, tức là bên tay mặt Thầy.
Hộ-Pháp hỏi cái Ngai ấy ra sao? Thì Thầy dạy:
Giống y như cái Ngai của Quan Âm Bồ Tát, nghĩa là một cái Cẩm Đôn để trong vườn Trước Tử trên Nam Hải, dưới chơn đạp hai bông sen nở nhụy”.
PCT: “Đầu-Sư Nữ phái chịu công cử theo luật Hội-Thánh ban hành, theo luật Hội-Thánh phân xử đường Đời và đường Đạo”
Chú-giải: Đầu-Sư Nữ-phái phải tuân y Tân-Luật của Hội-Thánh về đường Đạo và đường Đời, phải chịu dưới quyền Hội-Thánh xử trị cũng như Nam-phái vậy, dầu cho sự công cử lên các phẩm vị cũng phải tùng y như luật Hội-Thánh ban hành; nhứt nhứt y quyền Nam-phái, không điều chi cải sửa, dầu cho sự hành chánh cũng vậy.
Quyền hành sự cũng về nơi Chánh Phối-sư. Đầu-Sư không đặng phép lấn quyền; hễ lấn quyền thì phạm Pháp Chánh-Truyền, cũng như Đầu-Sư Nam-phái vậy.
PCT: Đầu-Sư Nữ-phái mặc một bộ Đạo phục y như Đạo phục Đầu-Sư Nam phái, phải đội một Ni-Kim-Cô như các Vãi Chùa, toàn hàng trắng, áo chín dải có thêu bông sen. Trên Kim Cô có choàng từ đầu tới gót. Đội Mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngay đầu tóc có Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày vô ưu màu trắng, trên chót có đề chữ “HƯƠNG” nghe à!”.
CG: Đầu-Sư Nữ-phái mặc một bộ Đạo phục toàn là hàng trắng có thêu bông sen, y như Đạo phục Đầu-Sư Nam phái, áo chín dải, đội một cái Ni-kim cô; nghĩa là cái Ni kim-Cô bằng hàng trắng, y như của các vãi chùa, có thêu bông sen, bao quanh đầu một cái Kim-Cô bằng vàng. Trên Ni-kim-cô ấy phải choàng một cái Mão Phương Thiên, nghĩa là: cái choàng bằng hàng cho thiêt mỏng, trên chót thêm một cái Mũ bằng vàng chụp trọn đầu tóc, chính giữa ngay trước mặt có chạm Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí. Cái choàng của Mão Phương Thiên phải cho thiệt dài, ba thước ba tấc ba phân, vì mỗi phen lên ngự trên Ngai; thì phải có hai vị Lễ Sanh Nữ-phái theo sau, nâng đỡ chẳng cho phết dưới đất, chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trên chót mũi giày có chữ “HƯƠNG” là Tịch Đạo.”
2- ĐỨC LÝ LẬP NỮ PHÁI
Đức Hộ-Pháp nói:
“Trong Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển có bốn câu thi của Ngài rất ngộ-nghĩnh ( là của Đức Lý giáng lập Nữ phái):
THI
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ “Tịch Hương”
久 死 今 朝 得 復 還
幸 逢 天 命 到 開 元
世 中 忌 死 何 知 死
死 者 何 存 主 藉 香
Đức Hộ-Pháp giải nghĩa:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn là cảnh trần Ta chết đã lâu mà hôm nay Ta được phục sanh lại trong Thánh-thể của Đức Chí-Tôn.
Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai nguơn là còn hạnh-phúc đặng Thiên-mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến?
Bần-Đạo đã thuyết: Cuối Hạ-nguơn Tam chuyển khởi Thượng-nguơn Tứ chuyển, Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ. Bần-Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi-hành được. Ngài đến đặng mở Thượng nguơn Tứ chuyển.
Thế trung kỵ tử hà tri tử? Thế-gian sợ chết mà không biết cái chết là gì! Chính Ngài hỏi rồi nói:
Tử giả hà tồn chủ tịch Huơng: Tịch Hương là tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ-phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế-gian này chi?
Đức Lý giáng nói:
… Thầy vì thấy nhiều người vắng mặt nên phải đợi đủ mới phong chức.
Lâm-Hương-Thanh, Hiền-muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm này. Thầy đến phong chức lập thành Nữ phái, nghe à! (TN/ 95)
* Ngày 11-12 Bính-Dần (Vendredi 14-1-1927)
Đức Lý giáng đàn nói với chư Nữ-chức chi Minh Đường rằng “Thầy dạy Lão phải lập phái Nữ cho thành tựu. Em gắng lo phổ-độ nhơn-sanh. Cửu nhị ức nguyên nhân hãy còn trong vòng hắc ám, chẳng lẽ em biết Đạo ngồi đó cho đành. Lão trông công em”
* Chùa Gò-kén, ngày 12 tháng giêng Đinh-Mão
3- Thầy phân-phiền với Bà Lâm Hương-Thanh về Nữ phái rằng:
“Thầy lập Đạo nơi cõi Nam này, là cốt để ban thưởng cho một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thịnh nộ của Thầy, Thầy lại tha-thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh-diệu.
Từ tạo thiên lập địa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 này đặng vậy, cốt để ban thưởng các con thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao!
Ôi! Mà hại thay! Thảm thay! Đau-đớn thay!
“Hòn ngọc” đẹp-đẽ quí báu dường này Thầy đến cho các con, các con lại học kiêu-căng, trề nhún, Thầy đã chán mắt thấy phái Nữ hành-đạo thế nào, biết bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận, muốn chẳng lập Nữ-phái mà làm gì. Nhưng trai gái cũng đồng con, Thầy không nỡ đành lòng từ bỏ, Thầy lại thương con (3) nên đã lắm phen lấy khảo trừ công cho con trở lại phẩm cũ, bởi một lời đã hứa với Quan-Âm, Thầy mới nhứt định dành phần công quả ấy cho con.
Con ôi! Thầy thấy con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm-lỡ lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm!
Con coi đó mà coi, Thầy thương con là bao nhiêu, Thầy giữ Nữ-phái lại cũng vì con. Thầy kêu nó không đến, Thầy dạy nó không nghe, muốn phạt cho đáng kiếp mà bụng cũng chẳng đành. Con là Chị, Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ-Độ, chỉ vụ một chữ “Hoà”, con liệu đứa nên, dùng đẹp lòng con kêu tên cho Thầy phán-đoán.
Tr…! Con giúp em con!” (TNII/26)
4- THIÊN PHONG NỮ PHÁI
Cũng chính ngày này Thầy lập Thiên-phong cho Nữ-phái, Bà Lâm Ngọc Thanh được phong vào phẩm Phối-Sư, Thánh danh là Lâm Hương Thanh cùng với Bà Lê-thị-Ngân thường gọi là Cô Sáu (phái Minh-Tân) cũng đồng phẩm Phối-Sư, còn lại là 8 phẩm Giáo-Sư, 28 Giáo-Hữu, 33 Lễ-Sanh.
Những tên chư Chức sắc Thiên phong Nữ phái trên đây được đắc phong ngày 14 tháng giêng năm Đinh Mão (Dl 15 Février 1927)
Thầy kêu Bà Lâm Hương Thanh dạy rằng:
“Lâm-Thị Ái-nữ ! Con và Đạo-Minh lên chức Phối-Sư, con nói lại với Nữ Thánh rằng: Thầy ban ơn cho chúng nó. Cả Hội-Thánh Nam-phái tung hô mừng lớn lên rằng: “Vinh hạnh thay cho Nữ phái!”
5- Lý do Thầy buồn Nữ-phái:
Bà Nữ Đầu-Sư Hương-Hiếu là người có mặt ngay từ buổi mới khai Đạo, cùng là bậc tiền bối, nên Bà có dẫn giải lý do vì sao Thầy giận không muốn lập Nữ-phái:
“Hồi mở Đạo, chư vị Nữ-phái Sai-gòn chưa hiểu Đạo cho lắm, cũng vì bổn-phận tề gia nội trợ nên sự hành Đạo bê-trễ, vắng mặt mấy kỳ đàn nên bị Thầy quở. Bài Thánh-giáo trước đây, Đức Chí-Tôn nói với Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh. Do bài trường thiên của Đức Phật Bà cho biết về chơn-linh Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh:
Chơn-linh Bà Nữ Đầu-Sư là Long-Nữ hầu Phật Bà Quan-Âm Bồ-Tát. Lúc Bà Long-Nữ tình nguyện lãnh lịnh nơi Ngọc-Hư-Cung xuống thế độ Nữ-phái. Bà Long-Nữ hứa với Phật Bà nên Thầy nhứt định dành phần công-quả lại cho Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh.
Xin xem kỹ câu văn Thầy nói “Một phen lầm-lỡ lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm”
Nghĩa là Thầy định lập kỳ Phổ-Độ mười ngàn năm nay, không vì sự lỗi của Nữ-phái mà bỏ cho đành. Nhận xét lòng Bác-ái của Thầy vô tận, vô biên. Thầy quở mà Thầy thương, rồi lại ban thưởng nữa; nên Thầy kêu bà Nữ Đầu-Sư lập thông-qui kêu Nữ-phái cho Thầy chấm phong.
Nhờ Bà Nữ Đầu-Sư, tất cả Nữ-phái có hầu đàn đêm 14 tháng giêng năm Đinh-Mão (15 Février 1927) đặng thọ phẩm tước hết”. Như vậy Thiên-phong Chức-sắc Nữ phái vào ngày này.
Cả Hội-Thánh Nam phái tung hô mừng lớn rằng “Vinh-hạnh thay cho Nữ-phái!”
6- Xin giải Tịch Đạo Nữ-phái kế đây:
HƯƠNG TÂM nhứt phiến cận Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.(1)
Cũng như Tịch Đạo của Nam phái:
THANH ĐẠO tam khai thất ức niên,
Thọ như địa huyển thạnh hòa thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí.
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.(2)
Đương đời này của Đức Lý Giáo-Tông, thì Nam lấy chữ “THANH” Nữ lấy chữ “HƯƠNG” làm Tịch, tức là cả Đạo-hữu và từ Tín đồ chí Thiên phong đều trong đời Đức Lý Giáo-Tông hành chánh đứng vào tịch Thanh Hương. Qua đời Giáo-Tông khác thì Nam sẽ lấy chữ “ĐẠO” Nữ lấy chữ “TÂM”, như vậy nối truyền hoài cho hết Tịch Đạo thì Thầy sẽ giáng Cơ cho Tịch Đạo khác nữa. Lớn nhỏ, sau trước nhờ chữ Tịch Đạo ấy mà phân biệt.
Có kẻ hỏi: Thí dụ như đời Giáo-Tông, thì Tịch Đạo của chư Đạo hữu Nam Nữ đời trước, dầu Chức sắc hay Tín đồ cũng vậy, có phải buộc thay đổi Tịch Đạo không? Ta nói: Không! Vì chính mình Giáo-Tông kế vị cũng phải giữ Tịch Đạo trước, kỳ dư những Tín-đồ của đời Ngài độ rỗi tức là chi tộc của Ngài mới đặng thay đổi mà thôi, còn những Chức sắc cùng là Tín đồ của Giáo-Tông đời trước còn sót lại thì thuộc về chi tộc của Giáo-Tông ấy không đặng phép thay đổi Tịch.
Tỷ như có Tân Giáo-Tông sẽ lên kế vị cho Lý Giáo-Tông thì cả Tín đồ Nam Nữ mới nhập môn đều phải lấy Tịch “ĐẠO TÂM” dầu trong hàng Tín đồ ấy sẽ có một Chơn linh xứng đáng địa vị Chánh-Phối-sư mà Thầy giáng Cơ phong chức đi nữa, thì cũng chịu Tịch Đạo-Tâm như các Tín đồ khác, chớ Chức sắc và Tín đồ trong đời Lý Giáo-Tông còn lại thì giữ Tịch “Thanh Hương” mà thôi, không đặng thay đổi.”
Trên đây là lời dạy trong Pháp Chánh truyền.
Từ đây sắp xuống là lời bàn của Soạn giả:
7- Giải nghĩa Tịch Đạo
Giải nghĩa hai bài thi trên:
(1) Hương Tâm nhứt phiến cận Càn khôn:
- Là một tấm lòng biết gìn giữ cho thơm tho mới được gần với trời đất. -Đức sáng của người tu hành chơn chánh sẽ được độ dẫn hồn, không bị cô đơn. -Người nào biết tưởng đến hằng niệm danh Quan Thế Âm Bồ-Tát sẽ được bảo trọng tánh mạng. -Phái Nữ được hưởng sự vĩnh cữu, trường tồn hàng ngàn năm..
(2) THANH ĐẠO tam khai thất ức niên
-Gọi Thanh Đạo tức là Đạo Tiên, mở lần thứ ba này có một diễn trình (700.000) bảy trăm ngàn năm. -Sống lâu như đất, phát đạt như trời. -Không hư hoại mà chịu trở về sanh khí loài người tự lập.-Một cái Đàn xưa hàng mười ngàn năm để Phật độ dẫn người có duyên.
Tịch Đạo là gì?
Tịch là sổ bộ. Tịch Đạo là sổ bộ Đạo Nam Nữ ghi tên theo mỗi thời Giáo-Tông.
* Ví như thời Giáo-Tông đầu tiên là của Đức Lý Giáo-Tông thì Tịch Đạo là “Thanh Hương” 青 香
Nếu là Chức sắc Nam phái từ hàng Lễ Sanh trở lên thì lấy Thánh danh có kèm theo chữ “Thanh”.
Thí-dụ: ông Nguyễn-văn-A đắc phong Lễ Sanh được chấm phái Thượng, Thánh danh sẽ là: THƯỢNG A THANH (có nghĩa là chữ sắc phái đứng trước, kế là tên, sau hết là chữ Tịch Đạo “THANH”)
Về Nữ phái thì chữ Tịch Đạo đứng trước tên.
Thí dụ: Bà Lâm-Ngọc-Thanh. Phẩm Đầu-Sư, thì Thánh danh sẽ là Nữ Đầu-Sư HƯƠNG THANH hoặc nếu có nhiều người trùng tên thì đặt chữ họ trước hết, gọi Bà là LÂM HƯƠNG-THANH.
* Nếu qua một thời Giáo-Tông khác thì đổi Tịch là ĐẠO TÂM, tức nhiên Nam thì lấy chữ “Đạo”, Nữ thì lấy chữ “TÂM” đặt vào các vị trí cũng như tịch Thanh Hương vậy.
* Ý-nghĩa hai chữ THANH HƯƠNG:
Hai chữ Thanh Hương này phát xuất từ đôi câu đối:
- THANH sử ký danh lưu vạn đại
- HƯƠNG hoa truy sùng bái thiên thu
Có nghĩa là:
- Bộ Thanh sử ghi tên người trong sạch, tên tuổi còn lưu lại muôn đời.
- Đền hương lửa còn truyền nối, thờ lạy người danh tiếng ngàn năm.
Nghĩa riêng từ chữ:
THANH 青 là màu xanh tươi, tượng sức sống vươn lên, chỉ sự thanh khiết, trong sạch.
HƯƠNG 香 là mùi thơm tho.
Chiết tự hai chữ Thanh Hương:
THANH 青 chiết tự: trên là Chủ 主 dưới là Nguyệt 月
HƯƠNG 香 chiết tự: trên là Hoà 禾 dưới là Nhựt 日
Nếu lấy hai chữ của phần trên đọc là Chủ Hoà 主 禾
Nếu lấy hai chữ dưới hiệp lại thành ra chữ Minh 明 có nghĩa là ghép hai chữ Nhựt Nguyệt lại là chữ Minh.
Thánh ý Thầy muốn rằng trong thời buổi ban sơ này toàn Đạo Nam Nữ phải biết trên HÒA dưới HIỆP.
Chữ Thanh 清 cũng viết có ba chấm thủy nghĩa là trong sạch. Ba chấm thủy tượng trưng Tinh Khí Thần.
Bài thơ chiết tự chữ THANH HƯƠNG:
Dụng tiếng Thanh Hương Tịch-Đạo nhà,
Giáo-Tông đổi mới Đạo Tâm ra.
Phân THANH 清 xuất ngoại Tinh Thần Khí,
Hòa hiệp Âm Dương diệu pháp mà!
Hương sắc Nữ gìn nêu giá ngọc.
Chiết Thanh hạ nhựt thượng vi Hòa
Chủ Hòa mục đích Cao-Đài dựng,
Nhựt Nguyệt, Minh tâm hiệp nhứt tòa.
Nguyên Thủy
Trong Thánh-Ngôn Thầy thường căn dặn:
“Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Ðạo Thầy”
Hoặc trong Pháp-Chánh-Truyền cũng dạy:
“Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi Hạ ngươn Tam Kỳ Phổ Độ này duy lấy một chữ HÒA làm Tôn chỉ.
Có HÒA mới có HIỆP, có Hiệp mới có Thương, mà sự Thương yêu là chìa khóa mở cửa Tam Thập Lục Thiên, Cực-Lạc thế giới và Bạch-Ngọc-Kinh y như lời Đức Chí-Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là phải Từ bi, Bác-ái mới đắc Đạo vô vi, phải HÒA HIỆP mới có cơ qui nhứt.
Chí-Tôn đã định khai Đạo đặng thị chứng cho các Tôn giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ tuyệt hại tranh đấu thù hiềm, làm cho Thế giới Hòa bình, thoát cơ tự diệt. Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới toan thành lập. Chí-Tôn định thành Hội-Thánh, đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùy theo phép Tạo hóa cá nhân mà gầy nên ảnh tượng”
Tịch Đạo kế tiếp là ĐẠO TÂM.
Nói rõ ra Tịch-Đạo Thanh-Hương là lo về phương diện hữu hình, như tạo tác các cơ sở, lập nên Thánh Thất làm nhà chung cho nhân sanh đến chiêm bái, học hỏi Đạo lý. Thời gian này người Tín hữu lập công bằng công quả ngoại, như xây dựng, tao tác, giữ gìn cơ sở, cúng kiến
Nay qua Tịch ĐẠO TÂM thì lo về phần tâm linh tức nhiên phải thấu đạt chơn lý chánh truyền, là phải học hỏi, nghiên cứu, sửa tánh trau thân, làm công quả nội.
Hỏi vậy Tịch Đạo tâm đã đến chưa?
Hãy nhìn đôi liễn đối đặt trước Báo-Ân-Từ sẽ thấy:
- BÁT phẩm chơn hồn tạo Thế giới hóa chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO.
- QUÁI hào Bác ái định Càn Khôn phân đẳng pháp nhứt Thần phi tướng trị kỳ TÂM.
Hai chữ đầu khởi bằng chữ BÁT-QUÁI
Hai chữ cuối kết thúc bằng chữ ĐẠO TÂM
Lại nữa đây là câu đối dài nhứt trong số các câu đối trong cửa Đạo ngày nay. Có 17 chữ ứng vào Quẻ Thiên Sơn Độn. Độn nghĩa là lui đi, tức nhiên thời Thanh Hương đã qua đi, thời của ĐẠO TÂM đã tới là vậy.
Đạo Tâm là gì?
Đức Hộ-Pháp dạy:
“Chiếu theo ý-nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối với Đức Chí-linh cùng Càn khôn vũ trụ
Loài người bao giờ cũng chủ TÂM tìm tòi, kiếm cái nguyên do lai lịch của mình hầu định phận đối cùng tạo đoan vạn vật. Muốn biết mình, con người phải lột cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế gọi là chúng sanh đặng so sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri năng giác của chúng sanh, mới tìm đặng tâm tánh của mình là báu. Thấu đáo đặng tâm linh mới biết thiên lương do chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là nhiệm vụ huyền bí, tả không cùng, hiểu không tột, chẳng biết lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO 道 Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM 心 làm mục đích. Các Thánh nhơn xưa thường đem cái triết-lý Đạo Tâm hiệp làm môi giới, nên dầu cho các vị Giáo-chủ tuy mỗi Đấng đều có tư tưởng đặc sắc, nên triết lý cao thấp không chừng nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn cội.
Nếu luận hai chữ CHỦ TÂM thì ta cũng thấy rõ rằng: Một vấn đề thuyết không cùng, biện không tận, vì nó quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do Chí linh là Trời mà sản xuất. Hễ càn khôn vũ trụ này vĩ đại bao nhiêu và cơ bí mât tạo đoan bao nhiêu, thì nhơn tâm đều hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu cho kiến thức đặng, hay là còn ẩn vi mầu nhiệm mà lương tâm của con người đã hưởng ứng, đều cho mọi trí não, mọi tinh thần tự hiểu rằng: Sự thấu đáo chữ ĐẠO vô cùng, vô tận, muôn phần loài người chưa định đặng một, vì vậy các nhà triết học đạo đức tinh thần cho nhơn tâm tức thiện tâm cũng đặng.
Tâm ấy là gì? Ấy cũng là một định từ để chỉ cái hình bóng trí thức tinh thần, Đạo gọi là nhứt điểm linh quang chiếu giám.
Đức Chúa Jésus khi thọ pháp Giải oan nơi Jourdain thì điểm linh quang ấy giáng như hình khối lửa.
Đức Lão-Tử khi thiền định tại Thơ viện nhà Châu, thì điểm linh quang ấy giáng như hình sấm sét.
Đức Khổng-Phu-Tử khi vấn đáp với Thần Đồng Hạng Thác thì điểm linh quang ấy giáng như hình sợ sệt.
Như Abraham và Moise thấy Đức Chúa Trời trong đạo hào quang sáng suốt.
Như Đức Lão-Tử, Ngươn Thỉ Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo chủ thấy Hồng-Quân Lão-Tổ trong năm sắc tường vân.
Như Phục Hi đã thấy Long mã hóa Hà đồ” (ĐHP: 15-7 Ất-Sửu – 1937)
Chiết tự hai chữ ĐẠO TÂM xin đọc qua Quyển “Chữ Hán chiết tự “cùng Soạn giả)

Diêu Trì Kim Mẫu đến dạy:
MẸ mừng đặng thấy các con hội hiệp với nhau. Vậy các con hãy nắm tay nhau cho chặt chẽ, đi cho vững.
MẸ ban ơn cho cả Nam Nữ. MẸ thăng.
THI
Lượng sóng đời kia khó định chừng,
Vườn Xuân khô lá khó trông Xuân.
Hiên mai gió tạt nghiêng rèm hạnh,
Giậu tối trăng soi đổ bợn trần.
Tiếng hạc kêu vui xa thẳm thẳm,
Hơi quyên chào thảm lóng gần gần.
Chờ xem thế cuộc tùy duyên phận,
Đừng tính đeo mang gánh nợ trần.
Diêu Trì Kim Mẫu

►Xem tiếp CHƯƠNG 02 >>>>>