1- Huyền diệu của Cơ bút
Ngài Tiếp-Pháp là một trong những Đệ-tử đầu tiên phò cơ chấp bút, Ngài có nhận-định về vấn-đề Cơ bút:
“Đến đây, chúng tôi mới hiểu rằng phong trào Phò cơ, Chấp bút, xây bàn trước kia là tiên triệu (signes précurseurs) cho một nền Tân-Tôn-Giáo xuất hiện tại xứ Việt-Nam.
Sánh với các Tôn-giáo xưa thì Đạo Cao-Đài phát huy với một cách phi thường làm cho thế nhân khó nhận thức.
Vả lại, các Tôn-giáo thời xưa đều do một Đấng Đại hùng Đại-lực xả thân cầu Đạo, cho đến khi đắc thành Chánh quả đem sở đắc của mình mà dạy đời; nhơn đó, người đời tôn Đấng ấy là Giáo-Chủ của mình. Vậy Đạo tự nhiên mầu nhiệm nương chỗ hữu hình của vị Giáo-chủ mà biểu dương Chơn lý. Người thế, nhơn theo cái hệ thống “Từ hữu vi đến vô vi” ấy mà quan sát, nhận thức đạo mầu thì dễ-dàng hơn.
Nay thì ngược lại, nền Đại-Đạo lại do Đấng Giáo chủ Thiêng Liêng và dùng Huyền diệu Tiên-gia để lập Đạo, truyền giáo. Vậy Đạo tự nhiên nhiệm-mầu lại theo vô vi mà chuyển biến ra hữu hình. Cái hệ thống “Siêu ý thức'” này làm cho người thế gian khó nhận chơn. Đó là nguyên nhân ngờ vực của người đời, khi Đại-Đạo mới xuất thế.
Chúng tôi có theo học với Cơ bút từ buổi đầu, cho nên ngoài Đức-tin truyền thống, chúng tôi còn tin tưởng rằng:
Khi cầu Cơ thì có một Đấng Thiêng-liêng giáng điển, huy động Ngọc Cơ viết ra chữ. Vậy đủ chứng minh rằng: Trong cõi Hư-linh có các Đấng vô hình và như vậy thì nơi người ta cũng có Linh-hồn. Mà hễ trong cõi Hư linh có Thần-linh thì trong người ta có linh-hồn tức nhiên phải có một Đấng Cao cả hơn hết sanh hóa các Chơn linh ấy.
Chỗ nầy Bà-La-Môn-giáo nói rằng: Một Đại Chơn Hồn sanh hóa các Tiểu chơn hồn khác, tức Thượng-Đế sanh hóa muôn loài vạn vật.
Chúng tôi sùng bái Đức Thượng-Đế, bài Thánh ngôn dưới đây cũng minh xác điều ấy.
Thánh Ngôn :
“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới thì Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và Ngôi của Thầy là Thái-Cực.
Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ tượng biến Bát Quái; Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm gọi là Chúng sanh.
Các con đủ hiểu rằng:
Chi chi hữu sanh cũng do bởi Chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận.
Cái sống của cả chúng sanh Thầy phân phát khắp Càn Khôn thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hoá ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hoá.
Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hoá sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đoạ luân hồi mà ra đến đỗi ấy.
Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy.” (TNII/62)
Vậy Đức Thái-Cực Thánh-Hoàng là một nguồn sống tràn ngập cả Vũ trụ. Muôn loài vạn vật đều bẩm thọ một phần sống của cái nguồn vô biên bao la đó. Đạo học truyền thống của Nhơn-sanh xưng tụng Đức Ngài với nhiều danh hiệu: Brahma, Đức Chúa Trời, Thái Thượng Đạo Tổ, A-Di-Đà-Phật và còn nhiều nữa chúng tôi không biết hết. Mặc dầu, chúng tôi không trông thấy hình dung Đức Ngài, nhưng chúng tôi tin tưởng quả quyết rằng Đức Ngài là Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát tức là Đức Thầy của chúng ta vậy.
Bằng ấy vấn đề đủ thấy Cơ bút có huyền diệu thật.
Quả như lời xác nhận vào năm 1956 rằng:
“ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ do Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng Huyền-diệu Cơ bút khai sáng tại nước Việt-Nam từ năm Bính-Dần (1926) đến nay đã 30 năm, độ dân được một số thiện-nam tín-nữ hơn hai triệu người, Tổ Đình thờ Đức Chí-Tôn và Đền thờ Đức Phật-Mẫu lập thành tại Thánh-địa Tây-Ninh. Hội-Thánh hành-đạo dưới quyền Đức Tiên-Trưởng Lý Thái-Bạch kiêm Giáo-Tông về mặt vô-vi, còn về mặt hữu-vi thì dưới quyền Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt, nay đã qui thiên. Hiện giờ Đức Hộ-Pháp chấp-chưởng quyền tối cao trong cửa Đạo cho tới ngày có Giáo-Tông hữu-hình chánh-vị”.
2- Những cặp Cơ do Chí-Tôn chọn lựa:
Việc Cơ Bút trong nền Đạo lúc bấy giờ cũng vậy, đó là một sự huyền-vi, mầu nhiệm, đặc biêt không thể dùng một quyền lực nào hay một sự thúc đẩy của một ai mà được, chỉ do một sự ứng hợp với huyền linh mà thôi.
Đức Chí-Tôn khai Đạo buổi ban đầu đặc biệt chọn 4 cặp Cơ:
1/- Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc với Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư: cặp Cơ phong Thánh.
2/- Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu với Hiến Pháp Trương Hữu Đức: cặp Cơ về Chơn pháp.
3/- Khai Pháp Trần Duy Nghĩa với Tiếp Pháp Trương văn Tràng: cặp Cơ về Bí-pháp.
4/- Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang với Bảo-Văn Pháp quân Cao Quỳnh Diêu: cặp Cơ Phổ Độ.
Còn các vị Hiến-Đạo, Khai Đạo, Tiếp Đạo, Tiếp Thế tuỳ trường hợp sẽ nâng loan cho Cơ truyền giáo.
Thảng như hai vị đều là chi Thế cầm Cơ không lên, bằng Cơ có lên viết chữ cũng không được. Như trường hợp Bà Đoàn-Thị-Điểm giáng Cơ viết quyển “Nữ Trung Tùng Phận” với 1401 câu mà phải qua hai giai đoạn:
- Phần Thế đạo thì khoản 900 câu đầu là do Đức Hộ-Pháp nâng loan với Ngài Tiếp Thế. Lại khiến Ngài Tiếp Thế có việc phải đi.
- Phần Thiên Đạo còn lại do Đức Hộ-Pháp cùng phò-loan với Cao Tiếp Đạo từ Sai-gòn mới về Tòa-Thánh.
Như vậy là Thi-phẩm Nữ Trung Tùng Phận của Bà Đoàn giáng Cơ đã đủ ba chi: Pháp, Đạo, Thế phò loan, chứng tỏ rằng thi phẩm này đủ Tinh, Khí, Thần hợp nhứt.
Đức Lý Thái-Bạch là Giáo-Tông của nền Đại-Đạo. Ngài rất ân cần nhắc nhở về việc cơ Bút:
“Lão dặn thêm một lần này là: Không phải cả thảy mấy Em phò loan mà đặng Huyền diệu hết. Như kể ra thì có ba cặp mà thôi, còn các cặp khác phải cẩn thận cho lắm, vì Thần chúng nó không đủ trọn mà cầm tánh mạng nhơn sanh hay là Tà ma quỉ mị xung nhập, nghe à!"
Tuy có bốn nhưng chỉ có Ba cặp Cơ được chọn lựa:
- Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc: cặp Cơ phong Thánh.
- Ông Nguyễn-Trung-Hậu và Trương-Hữu-Đức: cặp Cơ Chơn pháp.
- Khai Pháp Trần Duy Nghĩa với Tiếp Pháp Trương văn Tràng: cặp Cơ về Bí-pháp.
3- Nhiệm vụ của Đức Hộ-Pháp và “cơ Đạo Pháp”:
“Điều cần biết là khi đến lập giáo, trước tiên Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh Truyền tức Hiến-Pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ rồi mới tạo Hội-Thánh lưỡng đài, nhứt thiết đều do Cơ phong Thánh”.
Cơ phong Thánh của Hiệp-Thiên-Đài do Đức Hộ-Pháp và Đức Cao Thượng-Phẩm phò loan là “Cơ Đạo Pháp” trong khi đó cũng có nhiều cặp Cơ Phổ độ, dạy Đạo của chư vị Thập-Nhị Thời-Quân.
Nhưng:
“Đức Hộ-Pháp là một chơn linh siêu việt mới đủ năng lực xây dựng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, tạo tác Tổ Đình đồ sộ với nhiều sự nghiệp bất hủ không còn ai phủ nhận được.
Về việc Cơ bút trong Đạo, người đáng kể là bậc Sư Tổ”
Đây là lời nhận định của Ngài Hiến Pháp:
“Vì chỉ có Đức Ngài mới là người thay mặt cho Chí-Tôn làm Giáo chủ hữu hình nắm Cơ Đạo này mà thôi."
Đến cuối tháng 6 năm Đinh-Mão (1927) cơ Phổ-độ bị ngưng, chỉ còn Cơ dạy Đạo. Năm 1929, khi Đức Cao Thượng-Phẩm qui thiên thì gãy Cơ phong Thánh.
Mặc dầu Cơ phong Thánh không còn đủ về mặt hữu hình, nhưng được tồn tại trong thập niên 1930- 1940 và từ 1947-1955 khi Ngài Cao Tiếp-Đạo từ Kiêm-Biên về phò loan với Đức Hộ-Pháp, nhờ điển Đức Cao Thượng-Phẩm trợ lực. Do đó nhận thấy rằng từ trước đến sau Cơ Phong Thánh tiền định chỉ có Đức Hộ-Pháp và Đức Cao Thượng-Phẩm mà thôi.
Khi Đức Hộ-Pháp lưu vong nơi Miên-quốc, nhân nghe tin Chi phái sắp sửa về Tòa-Thánh, Đức Ngài có gởi Thánh Thơ số 12/HTĐ ngày 20-2 Mậu-Tuất (8-4-1958) cho các anh chị em trong Chính sách hoà-bình chung sống tại quốc nội như sau:
“Toàn Đạo có lẽ còn nhớ cây Cơ Phong Thánh của Hiệp-Thiên-Đài là cây Cơ Đạo Pháp hiệp một:
Đạo thì có Thượng-Phẩm.
Pháp thì có Hộ-Pháp.
Khi lập giáo vừa xong và tuyển phong Hội-Thánh rồi là cây Cơ phong Thánh ấy đã gãy khi Thượng-Phẩm đã qui vị. Còn cây Cơ Thế là cây Cơ Phổ-độ thì chúng ta không hiểu vì lẽ gì mà Đức Chí-Tôn đã cấm hẳn. Cơ Bút chỉ để dạy Đạo mà thôi, do nơi Thập-Nhị Thời-Quân phò loan chớ không ai khác hết, nên về Cơ Bút Bần-Đạo chỉ công nhận Cơ Bút Thập-Nhị Thời-Quân chớ chưa đặng lịnh phải công nhận cơ nào khác nữa. Nghĩa là: ngoài ra Cơ Thập-Nhị Thời-Quân giáo Đạo thì không còn Cơ Phổ Tế và cơ phong Thánh nữa…Phải chăng vì lẽ ấy mà khi lập giáo vừa xong thì Thượng-Phẩm đã qui vị và cơ Phổ Tế của chi Thế đã cấm hẳn, chỉ còn Cơ giáo Đạo của Thập-Nhị Thời-Quân. Như thế mà Đạo không tránh khỏi nạn của Quỉ quyền nhập nội như buổi khai Đạo tại Từ Lâm-Tự lúc trước, ấy là điều Đức Chí-Tôn đã tiên tri cho biết trước đó vậy.”
Một lần nữa, trong Thánh thơ số 26/bis/HTĐ/vp ngày 28-12 Mậu-Tuất (1958)
Đức Hộ-Pháp có dạy:
“Qua nói thật cho các Em biết, Cơ Bút của Đức Chí-Tôn đến lập Đạo nó có niêm luật vô hình của nó mà cả thảy con cái Đức Chí-Tôn không dễ gì hiểu thấu.
Qua nói: khi Đức Chí-Tôn đến lập Đạo tức là phải lập Hội-Thánh thì Cơ phong Thánh đã tiền định là Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp phò loan, còn Thượng-Sanh phò Cơ Phổ độ. Nhưng khi lập Đạo rồi thì cây Cơ Phổ Độ bị cấm. Mấy Em thấy đó thì biết rằng “Phò loan” chẳng phải ai cũng phò được.”
Như đã biết thời gian từ khởi khai Đại-Đạo đến khi có lịnh cấm Cơ Bút thì chỉ được có Ba cặp Cơ được chọn lựa mà quan trọng nhứt là hai ông: Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm.
4- Sự yếu trọng là Thượng-Phẩm nắm chi Đạo:
Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc là cặp Cơ phong Thánh, mà Đức Thượng-Phẩm nắm chi Đạo. Do đó sự yếu trọng của Đức Ngài được Ngài Hiến Pháp tuyên dương vào ngày 01-3 Quí Mão (1963) nhân Lễ vía Đức Cao Thượng-Phẩm:
“Toàn thể Đạo Cao-Đài đều rõ biết mối Đạo nầy do nơi nào mà xuất hiện?.
Nguyên buổi ban sơ vào năm Ất-Sửu (1925) ông Cao Quỳnh Cư (tức Thượng-Phẩm) đang làm một công chức của Chánh-Phủ Pháp thường tới lui chơi với ông Cao Hoài Sang (tức là Thượng-Sanh) và ông Phạm Công Tắc (tức là Hộ-Pháp) hai ông sau nầy cũng là công-chức. Trong năm ấy tại Thủ đô Sài-Gòn, việc Xây bàn rất thạnh hành.
Ông Cao Quỳnh Cư cũng vì sự háo kỳ, đề nghị cùng hai ông Bạn kia Xây bàn mời các vong-linh về hỏi việc và làm thi chơi. Ban đầu các vong-linh về làm thi họa vận, làm cho mấy ông thích chí, vì có nhiều bài thi xuất sắc và cảm kích lạ thường. Lần lần mấy ông được tiếp xúc với mấy vị cao nhân, rồi đến lượt Đức Chí-Tôn giáng dưới danh hiệu AĂÂ cố ý dìu độ mấy ông, nhứt là ông Cao Quỳnh Cư, vì cuộc Xây bàn tổ chức tại nhà ông nầy.
Theo lời Đức Hộ-Pháp, Đức Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn Chung Ly, một vị Đại-Tiên trong Bát-Tiên, lãnh sứ mạng của Chí-Tôn đến tạo dựng nền Tôn-Giáo tại thế nầy. Người cùng Đức Hộ-Pháp hợp thành cặp cơ Phong Thánh lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật để làm Hiến-Chương cho nền Quốc-Đạo.
Chúng ta phải nhìn nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người để Chấp Cơ cùng Đức Hộ-Pháp thì:
- Đâu có Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
- Đâu có Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ.
- Đâu có Hội Thánh và các Cơ Quan trong Đạo.
- Đâu có Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật.
- Đâu có Đại nghiệp hiện giờ cho Nhơn sanh thừa hưởng.
Đức Cao Thượng-Phẩm có tánh cao-thượng và cương-quyết, nên khi nhận chân được mối Đạo Trời thì Người nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng, phế đời hành Đạo liền, mặc dù lúc đó ông đang là một vị công chức.
Tuy Đạo khai ngày 14 tháng 10 Bính Dần (1926) mà thực sự Đức Cao Thượng-Phẩm đã ngộ Đạo từ năm Ất Sửu (1925) vì các Đấng đã mượn bàn tay Người mà mở Đạo bằng cách Xây bàn từ năm ấy.
Đức Cao Thượng-Phẩm về hành Đạo tại chùa Gò-Kén hơn ba tháng, từ 14-10 Bính-Dần (1926) đến 20-2 Đinh-Mão (23-3-1927) thì dời chùa về đất mới mua tại Tòa-Thánh hiện thời.
Lúc mới dời về đây, Chức-sắc chưa có mấy người thì việc phá rừng dọn đất, tạo tác và kiến trúc Đền-Thánh tạm, cùng các cơ sở khác đều do một tay Đức Cao Thượng-Phẩm chỉ huy xây dựng.
Sau 4 năm tận tụy với Đạo, Người bị một cơn khảo đảo rất lớn, làm cho hết sức buồn tủi, nếu không vì Thầy vì Đạo, thì có thể trở ra mặt thế mà chớ!.
Đối với người hiểu Đạo, thì việc khảo-đảo thử thách là việc thường không chi lạ; các vì Giáo-Chủ xưa kia cũng không tránh khỏi sự thử thách. Hễ bị khảo nhiều thì công đức càng cao, nên ngày nay Đức Cao Thượng-Phẩm được toàn Đạo kính mến xưng tụng công đức và được hưởng ân huệ Đức Chí-Tôn rước về Thiêng-Liêng-vị để đem các Chơn hồn vào cửa Thiên như lời Thánh-giáo của Đức Chí-Tôn ngày 7-3 năm Kỷ Tỵ (1929) dạy rằng:
"Các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần đời, còn phần Đạo nơi cõi Thiêng Liêng cũng phải có đôi đứa con mới đặng cho".
Đó là bằng chứng cụ thể cho chúng ta thấy rằng: Nếu chúng ta hết lòng vì Đạo, thì phần thưởng Thiêng Liêng không mất, ấy là công bình Thiên Đạo vậy”.
Đức Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp là cặp Cơ phong Thánh. Đức Thượng-Phẩm qui Thiên là thiếu tay rường cột. Ngài đã nặng trách nhiệm về hữu hình mà phần Thiêng liêng không thể thiếu. Vì vậy lời Thầy như báo trước sự ra đi của Đức Thương-phẩm.
Nay nhân ngày kỷ-niệm Vía Đức Cao Thượng-Phẩm ngày 1 tháng 3 năm Canh Ngọ (1930) Đức Hộ-Pháp buồn cho cơ Thánh thiếu tay phò loan huyền-diệu.
Ngài nói:
“Ngộ-nghĩnh thay! Đức Chí-Tôn làm thế nào mà chư vị Đại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng đến đặng tạo dựng cái nền Tôn-Giáo của Ngài. Đức Hớn Chung-Ly tức nhiên cái ngươn linh của Đức Cao Thượng-Phẩm đó vậy.
Nên giờ phút nầy Bần-Đạo nhớ đến có mảy may ân hận cơ huyền-diệu của Ngài cầm trong tay tạo Đạo không còn nữa, thành thử không có cây cơ thứ nhì.
Nói thật ra, cái cơ phong Thánh, cơ lập Thánh, cơ truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ nầy thảng có cơ phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp-Đạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ phong Thánh hiển-nhiên giờ phút nầy không còn tồn tại, cái tiếc của Bần-Đạo hay chăng là điều đó”.
Quả thật, từ ngày khởi khai Đại-Đạo đến giờ thì ai ai cũng đều nhận thấy rằng tất cả những gì thuộc Đạo Cao-Đài đều thành hình do CƠ BÚT. Trước khi tìm hiểu về phương pháp Cầu Cơ chấp bút, ta nên biết:
5- Muốn thấu đáo diệu tánh Bút Cơ cần phải gia công tra cứu:
Ngài Hiến-Pháp và Bảo-Pháp là cặp cơ Chơn pháp của nền Đại-Đạo. Đây Ngài Hiến-Pháp nói:
“Theo kinh nghiệm từ cổ chí kim, những gì do con người tạo ra, phần nhiều vì thiếu đạo-đức mà thất bại, cho nên đạo lý, nhơn luân nên hư cũng do bản tâm đạo đức hay vô đạo của con người mà ra. Theo thế thường hễ có bạo ngược bất nhân thì dùng pháp luật mà chế ngự. Phương pháp ấy tuy cũng có phần hữu hiệu, nhưng chưa được chu đáo vì có nhiều tội ác mà pháp luật không truy cứu được bởi sự khuất lấp, hoặc vì những tội ác chưa thành yếu tố, nhưng sự nguy hại không phải nhỏ đối với nhân quần, xã hội.
Vì vậy mà những nhà đạo đức lấy làm thắc mắc, cố tìm phương pháp để thực hành đạo đức trong nhơn gian. Những vị Giáo chủ ra đời cũng vì lẽ đó. Các Đấng ấy đưa ra mỗi người một thuyết khác nhau, nhưng kỳ trung cũng đều là một lý thuyết cứu độ nhơn sanh bằng cách thực hành đạo đức, vì hễ đạo đức được truyền bá khắp nhơn gian thì những tội ác bạo ngược phải hết, hoặc giảm bớt lần lần.
Mỗi vị Giáo chủ đều chủ trương thờ một Đấng Chí-Tôn, Chủ tể Càn khôn vạn vật, đủ quyền năng thưởng phạt về mặt hữu hình, cốt yếu để cho nhơn loại biết kinh sợ mà sửa mình, tránh xa tội ác và làm việc lành. Thậm chí có người lập luận rằng: Nếu thật không có Thượng-Đế, ta cũng phải tạo ra một Đấng Thượng-Đế cho đời tôn sùng để lập một vị Minh chủ tôn nghiêm, làm cho tà gian khiếp sợ, dục vọng tiêu tan, hầu cải thiện đời sống của nhơn sanh.
Vậy, Đạo Cao-Đài ra đời rất là thích hợp.
Sự thật Đạo Cao-Đài phát sanh do sự “Xây bàn” trước, sau mới dùng đến cơ Bút để lập thành mối Đạo và truyền bá cho nhơn sanh, lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật để làm Hiến chế cho nền Đại-Đạo. Chức-sắc và đạo hữu chỉ do đó mà thi hành thì khỏi sai đường lạc lối.
Tôn chỉ và giáo lý của Đạo đã có Hiến chế nêu rõ, lại còn do nhiều bài Thánh giáo kèm thêm.
Ba nhà chí sĩ được Đức Chí-Tôn chọn lựa, được nhận xét về cá tánh của mỗi người trong ba ông, vì có liên hệ đến Cơ Bút.
- Thứ nhất là Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư
- Thứ nhì là Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc
- Thứ ba là Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang.
Luận về tâm lý, trong ba ông, mỗi người đều có đặc tính, mà ta cần biểu dương để xưng tụng công đức.
Nhận xét về Cơ bút thì trong năm khai Đạo, thấy có nhiều cặp phò Cơ đắc phong chánh thức trong hàng Thập-Nhị Thời-Quân. Nhưng sau lại chỉ còn có ba cặp được lịnh đi phổ độ và truyền Đạo mà thôi.
Nếu có người hỏi: Cơ Bút là tối trọng, mà nay Đạo Cao-Đài nói rằng Thượng-Đế giáng Cơ dạy Đạo mà lấy chi làm chắc? Không biết chừng Thánh Thần hoặc ma quỉ nhập Cơ, rồi mạo danh Thượng-Đế, chớ bực Chí-Tôn đâu khứng giáng chốn phàm trần nầy là nơi âm khí nặng nề ô trược!
Phải! Cơ Bút là việc tối trọng, cho nên muốn thấu đáo diệu tánh Bút Cơ cần phải gia công tra cứu, nhứt là năng hầu đàn, phải dò Thánh Ngôn từ đầu chí cuối rồi nghĩ suy, xét nét đến cùng. Tôi cũng nên phân cho biết rằng nhiều bài Thánh ngôn giáng Cơ đều dạy Đạo lý sâu xa huyền bí, ngoài Thượng-Đế thì không vị Thần, Thánh, Tiên, Phật nào dám lậu ra cho nhơn sanh biết được. Cơ bút là tối trọng, nếu không hiểu Đạo và ít năng hầu đàn thì không thể nào phân biệt giả chơn cho được. Điệu Bút Cơ như Âm nhạc, kẻ thuở nay không thông thạo, không thế nghe đờn mà biết dở hay. Tuy cũng nghe như mọi người, mà điệu cao thâm, giọng phù trầm, không phải nhà nghề không bao giờ thấu được. Điệu Cơ Bút như vàng như ngọc, chưa dùng đến chưa biết thử ra sao! Sách có câu: “Vị thường thức kim, yên năng thí kim”.
Thánh Thần Tiên Phật là bậc quả cao, đức trọng, lẽ đâu dám coi luật trời làm nhẹ mà mạo danh Ngài? Dẫu có giáng Cơ dạy Đạo thì cũng thọ mạng nơi Ngài, có vậy thì cũng xưng danh thiệt mà thôi, hà tất phải giả danh cho phạm đến Thiên điều? Còn nếu sợ rằng ma quỉ nhập Cơ rồi mạo danh Thượng-Đế thì lại càng sai lầm hơn nữa. Ma quỉ vẫn thuộc âm thần, trọng trược, lành ghét dữ ưa. Lẽ đâu chịu nhọc giáng Cơ dạy Đạo mà dìu dắt chúng sanh vào đường ngay nẻo phải, há không trái ngay sở thích của họ đi chăng? Mà nếu dạy Đạo thì ma quỉ biết chi mà dạy? Nói cùng mà nghe, bất luận vị khuất mặt nào, nếu giáng Cơ dạy điều đạo đức rồi thiên hạ nghe theo cho đời được thái bình dân gian an lạc, thì chúng ta cũng nên sùng bái vì khuất mặt ấy. Cái chánh, cái tà cũng dễ cho chúng ta phân biệt. Kìa như Đạo Gia-Tô, Đạo Lão, Đạo Thích, đều là Chánh giáo nên mới có muôn vạn người Tín-ngưỡng. Đạo Cao-Đài có hơn một năm mà đã có mấy muôn người sùng bái, đó là một bằng cớ hiển nhiên chứng chắc
là Chánh đạo. Lại nữa, về Thiên-Đạo thì chỉ có Ngọc-Hoàng Thượng-Đế lập ra mà thôi, không phải Ngài thì không ai lập được, mà lập được thì tức là Ngài vậy.
Nếu lại nói rằng có lẽ đâu Thượng-Đế khứng xuống chốn phàm trần ô trược? Đâu phải rằng Thượng-Đế như người phàm vậy, nên muốn giáng Cơ nơi đâu phải đích thân đến đó.Thượng-Đế vẫn biến hoá vô cùng, muốn giáng Cơ nơi đâu Ngài chỉ dùng điển quang truyền tín mà thôi, có đâu xuống phàm mà phòng lo âm khí nặng nề ô trược.”
(Nguyễn Trung Hậu- Luận Đạo Vấn Đáp / 98)
6- Thầy dùng Lương sanh để cứu vớt quần sanh:
“Những Lương-sanh ấy phải thế nào hội-hiệp lại nhau làm một mà làm ra một xác thân phàm của Thầy thì Thầy mới có hình thể trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy, hầu tránh cho khỏi phải hạ trần như mấy kỳ trước vậy.
Thầy mới dùng Huyền-diệu Cơ Bút dạy-dỗ mỗi người đặng tỏ ra rõ-ràng có quả nhiên Thầy trước mắt, để Đức-tin vào lòng mỗi Lương-sanh ấy rằng Thầy thật là Chí-Tôn, Chúa-Tể Càn-Khôn thế giới, cầm Cân công-bình Thiêng-liêng thưởng phạt, quyết đoán rằng chính mình Thầy đủ quyền bảo hộ con cái của Thầy, dầu đương sanh tiền hay buổi chung qui cũng có Thầy trước mắt, công thưởng tội trừng, tu thì thành, dữ thì đọa, chỉ rõ Niết-Bàn Địa-ngục đôi đàng, đặng dẫn bước đường đời không lầm lạc. Hứa rằng: lập ngôi nơi Bạch-Ngọc-Kinh, khai đường vào Cực-Lạc Thế-Giới và đóng chặt cửa Phong-Đô đặng độ tận chúng sanh, vớt 92 ức Nguyên nhân trở về cựu vị”.
Hội-Thánh ba Đài:
Ngày nay Đức Chí-Tôn giáng trần lập Đạo. Ông Thầy của chúng ta là ông Thầy Trời, giáng trần bằng Huyền Diệu thiêng liêng Cơ Bút. Ngài không có hình thể mà làm cho chúng ta biết, không có tiếng nói mà chúng ta nghe: Hội đủ Tinh – Khí – Thần hiệp nhứt:
Bởi hình thể của Ngài là Hội-Thánh làm Thánh Thể cho Ngài, tức nhiên ba Đài:
- Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài tượng trưng xác thân.
- Hội Thánh Hiệp-Thiên-Đài tượng trưng trí não.
- Bát-Quái-Đài tượng trưng linh hồn
Trong cửa Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn mở Đạo chỉ dụng Cơ bút mà lập thành từ Thể-pháp cho đến Bí-pháp, tức nhiên Đức Ngài chỉ dùng ngọn Linh bút mà khai thông tất cả mọi vấn đề như:
- Đức Chí-Tôn dùng Huyền diệu Cơ Bút giáng điển linh quang tiếp xúc với nhân loại ký Đệ Tam Thiên nhơn Hoà ước mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để dìu-dẫn nhơn sanh lập đời Minh Đức, Tân dân, huynh đệ Đại-Đồng, Hoà bình thế giới, xây hạnh phúc cho nhân loại với hai điều kiện là BÁC ÁI và CÔNG BÌNH để bước qua Thượng ngươn Tứ chuyển.
- Thời kỳ các Đấng thiêng liêng còn ở cõi vô hình thì dùng Huyền diệu Cơ bút thay thế cho Đức Chí-Tôn giáng dạy và dìu dẫn nhơn sanh. Các Chơn linh khác giáng trần thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn lập thành Hội Thánh tức là Thánh Thể để phổ độ chúng sanh, gieo truyền Chánh giáo nên gọi là thời-kỳ các Đấng Thánh Thần (Règne du Saint Esprit).
- Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế này đặng chỉnh đốn đạo-đức tinh thần từ thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ Bút. Ngài đến không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem bí mật huyền vi tạo đoan giáo hoá con cái của Ngài.
- Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, Ngài không giáng thân như các lần trước, mà giáng linh bằng Huyền Diệu Cơ Bút. Vì lẽ đó Ngài phải lập Hội-Thánh để làm Thánh Thể của Ngài.
Tức nhiên những cơ quan này đủ khả năng để giáo hoá nhơn sanh đồng thời cũng để bảo thủ chơn truyền của nền Đại-Đạo.
Một lần nữa Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Nếu Tôi không lầm Cơ Bút đã cho Tôi biết các Bạn Hiệp-Thiên-Đài do nơi đâu sản xuất? – Do để giữ quyền Thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời-Quân, Thập nhị Địa chi tức là cảnh Thiêng liêng vô hình của chúng ta”.
“Ngày nay từ Âu sang Á làn sóng văn minh tràn ngập khắp nơi, vật chất lấn át tinh thần, khiến cho nền luân lý cổ truyền cõi Á-Đông phải luân lạc bởi Hạ ngươn hầu mãn nên Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế dùng Huyền diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ với Tôn chỉ Qui nguyên Tam giáo Phục Nhứt Ngũ chi.
- Lấy Nho-Tông Chuyển thế
- Lấy sự Thương-yêu làm phương-pháp thực hành Chánh Đạo. Đức Chí-Tôn quyết cứu vớt những kẻ hữu căn thoát vòng khổ hải, tránh đoạ luân hồi hầu vui hưởng môt hạnh phúc vĩnh cữu.
7- Đức Hộ-Pháp giải về sự chơn giả của Cơ Bút
“Chư Đạo hữu đã may duyên gần đặng hình bóng của Chí-Tôn, cậy Bút Thánh Cơ thần giáo hoá, dùng ngọn Cơ Bút làm phương thân mật, lại cũng là một máy linh nhiệm-mầu, trí lự của con người chẳng dễ chi cạn hiểu:
Ma ma, Phật Phật, quỉ quỉ, Trời Trời, lẽ chánh lý tà khó bề quyết định. Nhiều kẻ gọi là Ma, chúng ta cho là Phật, chúng cho rằng quỉ, mình gọi là Trời. Hỏi cho đến tận nơi thì chưa có một người trưng bằng cớ.
Chí-Tôn lại nhiều phen để lời căn dặn rằng: chúng ta phải để tâm dè-dặt, cẩn thận giữ đức tin, lấy trí lực tinh thần biệt phân chơn giả. Thầy lại nói rõ rằng phải có một phần của kẻ phò loan, Thầy mới gầy trọn phương mầu Cơ Bút:
Phải Chí-Tôn hay là đồng?
Phải Phật hay là đồng?
Phải quỉ hay là đồng?
Phải ma hay là đồng?
Hư hư, thiệt thiệt, giả giả, chơn chơn, không phương phân biệt, vì phần nhiều chư Đạo hữu chưa hiểu thấu chơn truyền cùng diệu pháp khó bề truyền dạy, thế nào thử đặng cơ Bút, tránh sao khỏi những điều giả trá.
Rất đỗi là ngày khai Đạo quỉ còn dám nhập đàn, huống lựa là Cơ Bút luyện nghinh ngang mà không làm đường dẫn quỉ.
Vì cớ mà Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài và Hộ-Pháp là những vị Thầy đến cậy phò loan đặng cho người lập Đạo đã chịu lắm nhục nhã hàm oan cũng vì Cơ Bút.
Ấy vậy, cái đức tin của anh em ở nơi Cơ Bút cũng chưa đủ giá trị cùng đời, nên Hộ-Pháp dặn một lời xin gắng lấy cái quảng đại của Trời mà độ chúng.”
(ĐHP:13-7 Nhâm Thân-1932)

|
Đền-Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh là nơi chứa đầy Bí-pháp |

►Xem tiếp CHƯƠNG V: >>>>>