Thời-kỳ mới khai Đạo, Đức Chí-Tôn dùng Huyền diệu Cơ Bút để phong Thánh tức là phong tước phẩm các Chức-sắc cho có lớn nhỏ để phụng-sự cho nhơn-sanh. Song song còn lập Pháp-Chánh-Truyền và Thầy còn dạy chư Thánh hội nhau lập Tân-Luật. Khi đã đầy-đủ rồi thì Đức Chí-Tôn bế hết Cơ Bút. Trong quyển này sẽ khai triển tất cả những vấn-đề liên-quan đến việc Cơ Bút ấy.
Như vậy cái ơn ích của Cơ Bút rất lớn trong việc lập Đại-Đạo ngày nay. Vì Cơ Bút đã qua nhiều hình thức mà việc Xây bàn là một phương-pháp giản dị của buổi ban đầu
A- Thế giới đã biết Cơ Bút:
Thật ra vấn-đề thông công với huyền-linh qua nhiều hình thức: Xây bàn, phò Cơ, chấp Bút đã có tự lâu đời rồi và nhiều nước trên thế-giới cũng đã biết. Riêng Đạo Cao-Đài xử dụng một cách tuyệt đối ngay từ buổi ban đầu.
1- Ở Trung-Hoa từ đời Ngũ-Đế các bậc chơn tu đã biết phò Cơ, chấp Bút, thông-công với cõi vô hình.
2- Ở Việt-Nam, năm 1284, đời vua Trần-Nhân-Tôn các thân hào, nhân-sĩ biết dùng Cơ Bút thỉnh giáo cõi vô hình về việc trị nước nên mới được thạnh-trị.
Năm 1542, ông Phùng Khắc Khoan còn gọi là Trạng Bùng, nhờ Cơ Bút nên trở thành nhà tiên tri nổi danh.
3- Ở Hoa-Kỳ (New-York) năm 1848 nơi nhà của Meckman, đêm đêm xảy ra hiện tượng có tiếng gõ cửa, nhưng ra xem thì chẳng thấy ai. Rồi một cô bé Mess-Kate vỗ tay chơi bỗng nghe tiếng gõ cửa đáp lại, động tính hiếu kỳ cô vỗ tay ba tiếng, thì có đúng ba tiếng gõ cửa đáp lại. Bà Mẹ kinh ngạc bảo tiếp: Nếu linh hiển hãy gõ đúng tuổi của bé Mess-Kate. Lại có tiếng gõ cửa đáp lại đúng với số tuổi của bé.
Hiện tượng này được loan truyền ra, giới tu sĩ, giới trí thức cũng như giới bình-dân tấp nập đến để tìm hiểu. Kết quả họ chỉ có ngạc nhiên và kinh sợ chứ không giải thích được gì. Hội-đồng thành phố Rochester thành lập Hội-đồng điều tra, nghiên cứu, ba lần họp, có đến hàng trăm diễn giả thuyết trình, tranh luận sôi nổi, nhưng cũng không đưa đến một kết-luận nào. Kinh sợ trước những huyền-bí mà họ đã chứng kiến. Họ hồ đồ cho rằng gia đình của bé Mess-Kate là phù thuỷ, là hiện thân của ma quái. Kết quả là cha mẹ của bé Mess-Kate bị đập chết bằng gậy, chị em của bé Mess-Kate bị xé xác chết thê thảm.
Sau khi gia đình của bé Mess-Kate bị thảm sát, hiện tượng “gõ cửa” lại xảy ra nhiều hơn ở Hoa-kỳ.
Ông Lears-Post đề nghị với cõi vô hình căn cứ vào thứ tự của chữ vần trong bảng mẫu tự mà gõ: Gõ một tiếng là A, gõ hai tiếng là B, gõ ba tiếng là C… rồi ông ráp lại thành chữ, thành câu. Thế là ông đã tìm được phương pháp thông công với cõi vô hình. Nhờ phương pháp này, phong trào tìm hiểu cõi vô hình lan rộng khắp Hoa-Kỳ.
Luật sư J. Edmonds, Giáo-sư E.Mapes (Hàn-Lâm viện Hoa-Kỳ) Giáo sư Robert-Hare (Đại học Pensylvania) sau nhiều năm nghiên cứu việc thông công với cõi vô hình, đã nhiều lần thuyết trình và viết nhiều sách trình bày nghiên cứu, xác nhận có cõi vô hình và loài người cũng thông công được với cõi ấy.
4- Ở Pháp: Năm 1853, tại Jersey, văn-hào Victor Hugo và bạn hữu có tổ chức Xây bàn chơi để tiêu khiển.
Đêm 11-9-1853 việc Xây bàn được tổ chức, có mặt ông bà Victor Hugo, cậu Charle-Hugo, cậu Francois Hugo,
Cô Madelène-Hugo, Đại tá Le Flo, bà De Girardin, ông De Trévenue, ông Auguste Vaquerie. Đêm ấy vong linh Bà Charle-Vaquerie (con gái của văn hào Victor-Hugo) giáng bàn thăm hỏi cha mẹ và tiết lộ nhiều điều huyền bí ở cõi vô hình.
Đêm 13-9-1853, tiếp tục việc Xây bàn có vong linh xưng là “Bóng Hư-linh” giáng trần bảo Văn-hào Victor Hugo hãy đặt trọn đức tin vào Đức Thượng-Đế.
Tiếp tục Xây bàn, nhóm của văn hào Victor-Hugo đã thông-công được với: Các vì Giáo-chủ Socrate, Luther, Mahomet, Jésus-Christ, Moise, Chateaubriand, Dante, Racine, Lion d’Androclès.
Các vong-linh ẩn danh: Sứ giả Thượng-Đế, người trong cõi mộng, Bóng Hư linh, bóng dưới mồ, Thần chết...
Đêm 11-10-1853, nhận thấy những điều tiết lộ, những điều khuyên bảo, những giáo lý, những triết lý nhận được từ cõi vô hình nhờ việc Xây bàn rất ích lợi cho loài người nên văn hào Victor-Hugo hỏi vong linh đang giáng bàn:
- Những lời vàng tiếng ngọc mà tôi hân hạnh được đón nhận từ bấy lâu nay, thật đáng xem là một bản chơn truyền vô giá, chúng tôi có nên in thành sách để phổ biến cho mọi người cùng học hay chăng?
- Vong linh đáp: - Không! Vì chưa đến ngày giờ.
Văn hào Victor Hugo hỏi tiếp:
Đến bao giờ? Chúng tôi còn sống đến giờ đó không?
Vong linh đáp: Nếu không thấy nơi này thì sẽ được thấy ở nơi khác. Chừng đến ngày giờ sẽ có lịnh. Hiện tại có thể phổ biến hạn chế cho những người có đức tin.
Nhóm của văn-hào Victor-Hugo càng ngày càng đông, âm thầm tiếp tục thông công với cõi vô hình..
Những “Thánh giáo” nhận được trong những cuộc Xây bàn này về sau được ông Gustave-Simon in thành sách với tựa “Les Tables Tournantes de Jersey chez Victor-Hugo”.
Quyển “Thánh-ngôn” này được tái bản mấy mươi lần làm chấn động dư luận nước Pháp và cả thế giới.
Giáo sư Charles Richets (Đại học Sorbonne Ba-lê) sau nhiều năm nghiên cứu việc Xây bàn, phò Cơ, chấp Bút đã xuất bản quyển “Traité de Métaphysique” trình bày những kết quả về cuộc nghiên cứu của ông: khẳng định có cõi vô hình và loài người thông công được cõi vô hình ấy.
Sau năm 1914, Nữ Jeanne-d’Arc (Lục-Nương Diêu-Trì-Cung) giáng bút tại Algerie dạy rằng gần tới ngày thế gian có Đại chiến (tức trận Đại chiến 1914-1918) sẽ có ngôi ba của Đức Chúa Trời truyền Thần cho con người mà Cứu thế (chỉ Thần điển – Cơ bút) Thánh giáo này được đăng liên tục trong các số báo tháng 3,5,7 năm 1914 của hai tạp chí La Vie Nouvelle và La Revue Sprite ở Ba lê.
5- Ở Anh Quốc: nhà Bác học William-Crookes sau gần hai mươi năm nghiên cứu việc thông công với cõi vô hình, ông đã viết sách trình bày kết quả cuộc nghiên cứu của ông, ông đã trịnh trọng kết luận bài thuyết trình trước đại hội Thần linh học thế giới họp tại Luân Đôn bằng câu:
“Tôi không nói là những điều tôi đã nghe, những việc Tôi đã thấy, có lẽ có được, mà Tôi dám nói chắc rằng có hiển nhiên như vậy”.
Lời khẳng định này làm chấn động giới tu sĩ và giới trí thức khắp thế giới.
6- Ở Nhật: Phong trào tìm cõi vô hình bằng cách “Xây bàn” rất được thạnh hành. Ở Nhật,Đạo Omotoo cũng đã sử dụng “Cơ Bút” từ khoản năm 1894.
Qua những sự việc vừa trình bày trên đã cho thấy: việc Xây bàn, phò Cơ, chấp bút, thông công với cõi vô hình mà Đạo Cao-Đài đang xử dụng không phải do các bậc Chức sắc tiền bối bày ra mà do các Đấng tiền Hiền bày cho loài người từ xa xưa đến giờ được Thiêng-liêng trợ lực, nhưng phải đợi đến ngày giờ này là đúng thời điểm của Đức Chí-Tôn đến với nhân loại mà dân tộc Việt-Nam hân hạnh được đón nhận trước nhất.
B- Đạo Cao-Đài thành hình do Cơ Bút:
Việt-Nam, vào khoảng 1920 ở Saigon lúc bấy giờ, phần đông các vị có tâm hồn yêu nước, tham gia Thiên Địa Hội và phong trào Đông Du của hai cụ Phan Bội Châu và Cường Để. Sau khi cụ Phan bị bắt từ Trung Hoa đưa về nước, quản thúc ở Huế thì sự hoạt động các phong trào gặp bế tắc. Các nhà trí thức ái quốc mới dùng phương tiện “Xây bàn” tiếp xúc cùng các chơn linh làm nguồn an ủi, nên có những cuộc xướng hoạ thơ văn giữa hai giới vô hình và hữu hình.
“Vào năm 1925, một số người trí thức ở Sàigòn thường tụ họp để “Xây bàn”, một phương tiện tiếp xúc với thế giới vô hình phát xuất từ bên Âu Châu vào cuối thế kỷ thứ 19. Chẳng những Âu Châu biết thông công với cõi vô hình bằng phương pháp này, mà Trung Hoa đã biết sử dụng từ thuở xa xưa và hiện đại nhất là Phái Minh Đường, Minh Lý …”
Trong số các Đấng vô hình, có một Đấng xưng danh AĂÂ được các vị kính mến hơn hết. Nhân dịp đêm kỷ-niệm Chúa giáng sanh năm 1925, Đấng AĂÂ xưng danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
Đạo Cao-Đài xuất hiện từ đó.
Cũng do Huyền-diệu này, Đức Cao-Đài đã thâu nhận người Môn đệ thứ nhất là Cụ Ngô Minh Chiêu và dạy cách thờ “Thiên Nhãn Thầy” hồi Cụ còn làm Tri phủ, chủ Quận Phú Quốc năm 1919.
Ở thế kỷ 20, nhân loại tranh đua về mặt văn minh vật chất, tinh thần Đạo giáo càng ngày càng lu mờ, mấy ai hướng về đạo đức tinh thần trong lúc mạnh được yếu thua, khôn còn dại mất. Việc khai Đạo Cao-Đài trong hoàn cảnh như thế làm cho các vị rất ngạc nhiên, ngoài trí phàm của mọi người. Cuối cùng, trước sự giảng dạy mạch lạc và qui củ cùng nhiều Huyền diệu hiển hách của Đức Thượng-Đế, chư vị chịu nhận làm Môn-đệ, thể Thiên hành Đạo và truyền bá Tân Tôn giáo.
Ngoài Đấng Cao-Đài, còn nhiều Đấng Thiêng liêng khác giáng cơ cho thi văn đượm mùi quốc sự, giục thúc tinh thần yêu nước của mọi người và tiên tri nước Việt-Nam ngày gần đây sẽ thoát ách lệ thuộc, nên ai ai cũng vui lòng hả dạ.
Đức Cao-Đài còn cho biết đây là Quốc Đạo, Ngài ban cho một dân tộc yếu hèn thường bị trị, nhưng tinh thần đạo đức súc tích dồi dào, thấm nhuần tinh ba của ba Tôn giáo lớn ở nước ngoài là: Thích, Lão, Nho.
Nay, Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đến khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại nước Việt-Nam với phương pháp tân kỳ là Huyền diệu Cơ Bút, một phương pháp phổ thông trong thế kỷ 20, có tánh cách khoa học huyền linh Thiên Nhân giao cảm chớ không phải dị đoan mê tín theo thuật chiêu hồn của đồng, cốt, bóng, chàng …
Trước ngày khai Đạo, do nơi Huyền diệu này đã có nhiều nước trên thế giới tiên tri về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài, điển hình một vài nơi như Đạo Minh Sư thời nhà Thanh bên Trung Hoa có truyền lại.
Đạo Omotoo bên Nhật, Cơ Bút mách bảo cho Tín đồ biết ở Việt-Nam vừa xuất hiện một nền Tôn giáo mặc áo trắng, thờ “Con Mắt trái” biểu hiện Thái dương hệ và dạy hãy sang Việt-Nam tìm liên lạc. Chư vị ấy đã đến tiếp xúc nhiều lần với Tòa-Thánh Tây-Ninh. Như vậy, Tôn giáo Cao-Đài không phải ngẫu nhiên xuất hiện, thoát thân trong mê tín dị đoan, hoặc người phàm bày vẽ, mà do Đức Thượng-Đế sáng lập với tôn chỉ “Diệt mê tín, thực hiện chân lý ”
C- Lời Tiên-tri về Đạo Cao-Đài xuất hiện:
Chỉ sau nhiều cuộc khảo cứu và sưu tầm về Thần linh học nơi Ông Thầy Trời đem truyền nền Đạo-lý mới mẻ này.
Ấy là Đức Thượng-Đế giáng dạy:
“Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần-linh-học là một nền Đạo tương lai sao? Thầy cũng đã nói trước khi đến khai Đạo đặng hội-hiệp các Tôn giáo làm một, thì Người đã sai các Đấng Thiêng-liêng cao trọng hạ trần mà bày ra các Hội giáo đạo-đức, đặng thức tỉnh nhơn sanh trước như là:
- Khảo cứu Thiên Đạo giáo (Société Théosophique)
- Khảo cứu Triết lý Phật Đạo (Société des Recherches Sur la philosophie Bouddhique)
- Thần kinh và Tâm lý triết học (Société psychique)
- Thần linh học (La spiritisme)..."
Ngày nay Đấng cao cả ấy tá danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, Chưởng giáo mối Đạo kỳ ba, cho nên khi giáng cơ dạy Đạo Đức Ngài xưng danh:
“Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo-Đạo Nam-Phương”.
Chính nền Tân Tôn-giáo này có tên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hay là “Đại-Ân-xá lần ba” đã có những bằng cớ chứng tỏ nền Đạo Cao-Đài do Đức Thượng-Đế dùng Huyền diệu Cơ Bút sáng lập tại miền Nam nước Việt.
Trước khi Đạo Cao-Đài xuất hiện như vậy mà đã có nhiều lời tiên tri tiếp theo đây làm cho lòng Tín-ngưỡng của nhơn sanh được sáng thêm và kiên-cố hơn:
1- Sách Phật Tông Nguyên Lý chép rằng:
Khi Đức Thích-Ca viên tịch, Đệ tử của Ngài là A NAN-ĐA rơi lụy mà hỏi rằng: Khi Tôn-Sư nhập Niết-Bàn rồi ai dạy bảo các con?
- Đức Phật đáp: “Ta chẳng phải vị Phật đầu tiên hay cuối cùng, ngày giờ đến, sẽ có một Đấng khác xuất hiện cứu đời, một Đấng Chí-Thánh, một Đấng Đại-giác cực kỳ cao thượng, một Đấng dẫn đạo vô song, một Đấng chủ tể Thánh, Thần và loài người. Đấng ấy sẽ truyền dạy các con một mối Đạo: Vinh-diệu buổi sơ khai, vinh-diệu buổi thạnh hành, vinh-diệu buổi kết cuộc. Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo đức hoàn toàn thuần khiết”.
2- Đạo “MINH-SƯ” sáng lập từ đời nhà Thanh bên Tàu, truyền sang Bắc Việt, có hai câu sấm của các vị Tổ sư lưu lại, được nêu lên ở bìa Kinh điển của Đạo ấy. Hai câu nói tiên tri về Cao-Đài như sau:
CAO như Bắc khuyết nhơn chiêm ngưỡng,
ĐÀI tại Nam Phương Đạo thống truyền.
Nghĩa là Đạo cao như Bắc-khuyết, người ta trông lên mà chiêm-ngưỡng. Nền Đạo sẽ truyền bá khắp nơi không ngừng, mà nơi phát xuất ra mối Đạo là ở Nam phương (chỉ về miền Nam nước Việt-Nam).
Hai câu này cho biết Đạo Cao-Đài sẽ xuất hiện ở phương Nam mà Đức Cao-Đài làm chủ: Tức là Đấng Huyền-Khung Cao-Thượng-Đế Ngọc-Hoàng Đại-Thiên-Tôn, ngự tại phương Bắc gọi là Bắc Khuyết.
3- Quyển Thanh Tịnh Kinh của Đạo Giáo có câu:
"Thanh tịnh kim hữu di tích.
“Công viên quả mãn chỉ thọ đơn thơ.
“Thiên mạng phương khả truyền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ."
Nghĩa là: Kinh Thanh-Tịnh có dấu tích truyền lại rằng: Công đầy quả đủ sẽ thọ lãnh đơn thơ, tức là kinh dạy bí truyền, người có mạng Trời khá nên truyền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
4- Minh-Thánh-Kinh Linh Sám có câu:
“Mạng hữu Cao-Đài Minh Nguyệt chiếu”
Nghĩa là: tá-danh Cao-Đài, Đức Ngọc-Đế giáng trần khai Đạo sáng tỏ như trăng rằm.
5- Kinh tỉnh Thế Ngộ Chơn có đoạn:
Mạt hậu Càn Khôn đồng nhứt đái.
Thiên môn vạn giáo cộng qui căn.
Nghĩa là: Sau đời hạ ngươn mạt pháp, Trời đất đồng chung một dãy, ngàn môn, muôn giáo, đều trở về một gốc.
6- Lời tiên tri của Đạo Tam Thanh:
Vào thập ngũ thế kỷ bên Trung-Quốc có một vị Đạo sĩ tên là Ngô Chi Hạc (Ou-Tche-Ho) có lập lên phái Tam Thanh, chuyên thờ ba Đạo lớn tại Trung-Quốc là:
- Đức Thích-Ca (Phật giáo)
- Đức Lão-Tử (Đạo giáo)
- Đức Khổng-Tử (Nho giáo)
Đạo Tam Thanh là bước đầu tiên của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay vậy. Ở Trung-Quốc thì từ đời Tam-Quốc, Vương Bật cho rằng sách Lão-Tử và Chu-Dịch là một loại. Đến Nam Bắc triều các nhà Đạo học cho Lão học và Phật học vốn là một dòng. Rồi đến đời Tấn có sách “Du học thiên” xướng luận điệu “Nho Phật nhứt trí”.
Tiếp đến Vương-Thông đời Tùy, tuy là một nhà Nho thuần túy mà cũng cho Tam giáo là đồng nhất.
Đến đời Đường, thì tư tưởng ấy cũng phổ thông lắm. Lưu-Mật làm sách “Thích Đạo Nho bình tâm luận” cũng nói về Tam giáo đồng nguyên.
7- Lời tiên tri trong quyển Vạn pháp qui tông:
Kinh này được lưu truyền trong dân gian hơn mấy trăm năm nay, quyển Vạn pháp qui tông do các Đạo gia truyền lại có câu:
“Cao-Đài Tiên bút thi văn tự” chỉ rõ rằng Đạo Cao-Đài mai sau này có thơ văn của chư Tiên do Thần cơ diệu bút chép ra.
8- Lời tiên tri: Sám Trạng-Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm:
Trong quyển “Bạch Vân Am thi tập” hay là quyển sám của Trạng-Trình có đoạn nói như vầy:
Con mừng búng tít con quay,
Vù vù chong chóng gió lay trên Đài
Nhà Cha cửa đóng then gài,
Ầm ầm sóng dậy hỏi người Đông lân.
Nhiều người cho rằng hai câu thơ trên chỉ máy bay, bay liệng trên nóc nhà trong trận giặc vừa qua. Nhưng hai câu sau không rõ ý nghĩa ra làm sao! Sau khi ôn lại những việc đã xảy ra từ năm 1940 đến 1945 trong Đạo Cao-Đài thì chúng ta nhận thấy: Hai câu đều có thể ám chỉ chữ “Vạn”
nhưng vẽ ngược lại, cho nên nhà cầm quyền Pháp truyền lịnh gỡ chữ Vạn ấy xuống, niêm phong các Thánh-Thất, Tịnh-Thất thuộc Cao-Đài-giáo và cấm chư đạo hữu lui tới lễ bái ở các nơi ấy. Đồng thời các Chức sắc Thiên phong đều bị bắt đưa đi an trí nhiều nơi.
Việc nhà đương cuộc Pháp đóng cửa các Thánh-Thất, Tịnh-Thất hợp với câu “Nhà Cha cửa đóng then gài” là vì trong bài Kinh Ngọc-Hoàng xưng tụng công đức Cao-Đài có tặng cho Ngài danh hiệu là Đại-Từ-Phụ và các Thánh-Thất, Tịnh-Thất nơi thờ Ngài thật là nhà của Đấng Cha lành vậy.
Việc này đã xảy ra từ năm 1940-1941 nghĩa là sau khi người Nhựt sang chiếm Đông-Dương. Người Nhựt đối với dân tộc Việt-Nam ta rõ-ràng là người láng giềng phía Đông. Bởi thế nên ứng với câu “Ầm ầm sóng dậy hỏi người Đông lân”.
9- Lời tiên tri trong sách Ấu học tầm nguyên:
Trong quyển Ấu học tầm nguyên có câu:
“Đầu thượng viết Cao-Đài” nghĩa là nơi trên đỉnh đầu của mọi người thì gọi là “Cao-Đài”.
Lại cũng trong Ấu học tầm nguyên có tiên tri về Tam-Kỳ Phổ-Độ như sau:
Thánh Thần Tiên Phật hi hữu chi nhơn,
Tam Kỳ Phổ Độ hi hữu chi sự
Phi hi hữu chi nhơn,
Yên năng hành hi hữu chi sự.
Nghĩa là: Thánh Thần Tiên Phật là bậc ít có. Cũng như Tam-Kỳ Phổ-Độ là một mối Đạo hiếm có vậy. Không phải là bậc ít có há làm được việc hiếm có hay sao?
Đoạn văn trên nói rằng: hạnh phúc cho người sanh ra đặng gặp một nền Đạo chánh, bởi hàng trăm năm, ngàn năm cũng chưa gặp được, có câu Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ trong Kinh Di-Lạc là ý-nghĩa ấy.
10- Lời tiên tri trong quyển “Giác Mê Ca”:
Quyển Giác Mê Ca mà tác giả là một Đạo gia có đoạn thi như vầy:
Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,
Muôn đời còn tử phủ nêu danh.
Ba ngàn công quả đặng viên thành,
Mới đặng Thiên thơ chiếu triệu.
Đoạn này báo cho biết trước rằng: Chỉ có người hữu duyên mới gặp được Tam-Kỳ Phổ-Độ, người theo Đạo này tu hành để trở về quê xưa vị cũ.
Đức Hộ-Pháp nói rõ hơn:
“Ngộ-nghĩnh cho chúng ta nên để ý là cái khéo lựa chọn và biết tìm đường và ngộ Đạo ấy.
…Cả con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu nơi Bát-Quái-Đài là hồn của Đạo tức nhiên là Tòa ngự của Đại-Từ-Phụ và là nơi Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-liêng ngự. Chư Thần Thánh Tiên Phật họ đã tìm, họ đã đoạt đặng một chỗ nơi đó đặng họ ngự. Không phải dễ gì trong kiếp sanh hữu duyên đoạt đặng như thế.”
Lại nữa ba ngàn công quả tức nhiên sách Trang-Tử có nói rằng:
- Chí nhân vô kỷ (0). Bậc chí nhân quên mình mà lo cho người.
- Thần nhân vô công (0) Bậc Thần không tính công.
- Thánh nhân vô danh (0) Bậc Thánh không ham danh.
Đạt được ba con số không như trên là đạt được 3.000 công quả. Tức là quên mình mà lo cho người, không ham công, chẳng mến danh.
Nghĩa là nếu đặt con số 3 trước ba con số không (000) ấy sẽ được con số là 3.000. Ấy là tượng trưng ba ngàn cống quả vậy.
11-Trong quyển Kinh “Tỉnh thế ngộ chơn”có ghi:
Đại Thiên tiên hóa hoằng chơn Đạo,
Trợ quốc cứu dân tích thiện luân.
Nam Hải Từ Hàng châu vận tế,
Tây Phương Tiếp Dẫn Phật đông lâm.
Thích nôm: Trước khi có cuộc biến đổi lớn (thay đổi trời đất) sẽ có một mối Đạo chơn thật ra giúp nước cứu dân, làm điều lành đáng khen. Biển Nam Hải có Phật Từ Hàng đi khắp nơi để cứu độ. Phương Tây có Phật Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đưa đến Đông Độ (xứ Phật).
Kinh Cao-Đài: Bài kinh cầu hồn khi hấp-hối có câu:
“Tây phương Tiếp Dẫn Đạo-nhơn,
“Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi-Âm”
Như vậy thì sự tổng hợp Tôn giáo, đã được quyết định từ lâu nơi cửa Thiêng liêng. Đúng là:
“Khai Đạo muôn năm trước định giờ”!
12- Lời tiên tri trong quyển “Vạn Diệu Thiên Thơ Cổ Bổn":
Trong quyển Vạn Diệu Thiên Thơ Cổ Bổn có bài thi:
Tam giáo kim tùng cổ hóa sanh,
Tiên Thiên phương hữu thị Tam Thanh.
Phật Pháp Nho hề qui nhứt bổn.
Tự nhiên Tà Đạo tổng tương tranh.
Vạn ức san hà giai hữu thử,
Tổng qui nhứt phái nhứt an thành.
Xà vỹ mã đầu khai Đại hội,
Tam kỳ hậu thế hiển phương danh.
Thích nghĩa: Ba giáo: Phật. Đạo. Nho nay theo xưa kia mà hóa sanh Đạo Tiên Thiên có đường hay, là Đạo Tam Thanh. Phật, Tiên, Nho đều là một gốc. Lẽ tất nhiên Đạo tà đều cùng tranh giành. Muôn ức cảnh sơn hà (muôn xứ, muôn nước) đều có như thế: đồng qui về một phái mới đặng yên ổn và nên việc. Cuối đầu rắn, đầu con ngựa thì khai Đại hội. Đời sau, Đạo Tam Kỳ sẽ được rạng-rỡ danh thơm.).
Cơ tuần hoàn xoay chuyển nên được Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài cho nhơn sanh sùng bái và chính Ngài dạy phải thờ Thiên Nhãn là vậy. Là Tôn giáo Đại-Đồng.
13-Lời tiên tri rút trong Kinh Nhựt Tụng của phái tu thân tại Trung Việt:
Tại Trung Việt, 20 năm trước ngày khai Đạo là năm 1926 có một phái người tu theo lối cư sĩ lấy hiệu là phái Minh-Sư (khác với phái Minh-Sư bên Tàu) mỗi ngày đọc Kinh có thêm như vầy:
Con cầu Phật Tổ Như Lai,
Con cầu cho thấu Cao-Đài Tiên Ông.
Trước khi các Giáo sĩ Đạo Cao-Đài ra truyền Đạo tại Tam Quan (Trung Việt) thì mấy vị này sau khi nghe danh hiệu Đức Cao-Đài đều đến xin làm Đệ-Tử ngay.
14-Lời tiên tri lưu truyền tại Trung Việt đã lâu đời (trước năm Bính-Dần 1926).
Lời tiên tri ấy như vầy:
Canh Dần, Mậu Dần niên,
Kỷ Mão, Canh Thìn tiền.
Tự nhiên thiên phú tánh,
Cao-Đài tân chân truyền.
Thích nghĩa: Lời tiên tri này nói rõ từ năm và báo trước rằng: Trời sẽ khiến lòng người theo Đạo mới và là Đạo Cao-Đài sẽ đạt được chân truyền.
15- Lời tiên tri trong 2 bài thơ của Cụ Thủ Khoa Huân cho năm 1913
(13 năm trước ngày Khai Đạo):
THI
Dung tất Cao-Đài nhiệm khuất thân,
Tư triêm đào lý nhứt môn xuân.
Cánh tân bôi ức giang sơn cựu,
Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt tân.
Cửu thập thiều quang sơ bán lục,
Nhứt luân minh nguyệt vị tam phân.
Thừa nhàn hạc giá không trung vụ,
Mục đỗ Cao-Đài tráng chí thân.
Bài thơ diễn Nôm của Cụ Thủ Khoa Huân:
Co duỗi Cao-Đài khỏe tấm thân,
Dạo xem đào lý đượm màu Xuân.
Giang sơn chẳng khác ngàn năm cũ,
Ngày tháng chờ thay một chữ “TÂN”.
Chín chục thiều quang vừa nửa sáu,
Một vừng trăng rạng chửa ba phân.
Thừa nhàn cưỡi hạc không trung ruổi,
Chạm mắt Cao-Đài khỏe tấm thân.
Trong hai bài thơ có nhắc đến bốn lần danh từ CAO-ĐÀI. Thời buổi ấy các ông không rõ danh từ ấy có nghĩa gì.
Song các ông thuật đại cương rằng hai bài thơ ấy có nói về quốc vận một cách sâu xa.
Hai câu thi 5,6 có ý kỷ-niệm ngày 3 tháng 1 năm 1913, vì câu nào cũng ngụ ý số 3. Sau đàn Cơ ấy ông Lê Quang Hiển để hai bài thơ này lên tran thờ làm kỷ-niệm.
Mãi đến năm 1927 Tòa-Thánh Tây-Ninh phái người Chức sắc đến quận Cao-Lãnh truyền Đạo và hai chữ Cao-Đài đã được mọi người nói đến. Chừng ấy Ông Lê Quang Hiển mới nhớ đến bài thơ của Cụ Thủ-khoa Huân đã cho 13 năm trước và đem ra trình với chư Chức sắc nói trên.
16- Có câu: “Lục vạn dư niên Thiên khai Huỳnh Đạo”
Nghĩa là: đủ sáu muôn năm lẻ, Trời sẽ mở Đạo Huỳnh, tức là Đại-Đạo, cùng khắp năm Châu như trước đây. Đó là lời của Sử ghi chép còn lưu lại đến giờ này ứng vào lúc Huyền diệu Cơ bút thông công cùng thiêng liêng mà nhân loại đặng rõ biết Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ của chính Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế sáng lập.
Thế nên nay trước mặt tiền Đền-Thánh có đôi câu liễn:
Hiệp nhập Cao-Đài bá tánh thập phương qui Chánh quả.
Thiên khai Huỳnh Đạo Ngũ Chi Tam giáo hội Long Hoa.
17- Trường hợp khác:
“Khi khai Thánh giáo bên Thái Tây thì Chí-Tôn đã nói trước: còn nhiều chuồng chiên Người sẽ đến đem về làm một. Lời tuyên ngôn ấy nghĩa là còn nhiều Đạo đương nuôi nấng ung đúc tinh thần của con cái Chí-Tôn đặng chờ ngày Người đến hiệp chung lại Một, lời ấy ngày nay đã quả. Các chuồng chiên Thiêng liêng của Chí-Tôn là:
Phật Đạo thì có Bà-La-Môn (Brahmanisme), Thích ca Mouni (Caky-Mouni), Pythagore giáo.
Tiên Đạo thì là Lão-Tử-Giáo, Dương Châu, Mặc Địch, Vạn pháp, Bàn Môn cho tới thầy pháp, thầy phù, bóng, chàng, đồng cốt…
Thánh Đạo thì là Thiên-Chúa-giáo (Christianisme) Gia Tô (Catholicisme). Tin lành (Protestantisme), Hồi Hồi (Mahométantisme)
Thần Đạo Thì là Trung Huê phong Thần, Hy-lạp Phong Thần và Ai-Cập Phong thần (Mytologie Chinoise, Grecque et Égyptienne).
Nhơn Đạo thì là Socrate, Esobe, Platon…ở Hy-lạp, Khổng Phu Tử (Confucianisme), Mạnh-Tử (Mentius), Nhị Trình giáo…chung cộng cùng cả Hớn phong, Đường thi, Tấn Tục tại Trung-Huê từ trước.”
18- Kinh Phúc Âm:
Chúa Jésus Christ bảo: Nếu các con kính mến TA, các con hãy nhớ những lời TA dạy bảo: TA sẽ xin Cha Ta sai Đấng Cứu khổ giáng trần và ở luôn với các con đó là Thần Chơn-lý, mà hiện giờ các con chưa thể gặp đặng đó là ngôi ba, ngôi Thánh, Thần mà vì Ta, Cha Ta sẽ sai xuống thế. Đấng ấy sẽ dạy dỗ các con đủ điều mà Ta đã dạy các con rồi. Và Chúa cũng đã có giáng Cơ cho biết:
Vâng lịnh vua Cha xuống Thái ban,
Truyền ra Thánh giáo rất gian nan.
Ba mươi năm lẻ chưa toàn vẹn.
Ngàn chín năm dư thế muốn tàn.
Đức Chúa còn dạy các Môn Đồ của Ngài rằng:
* “Lòng các con đừng bối rối: Hãy tin nơi Đức Thượng-Đế, hãy tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy (Thượng-Đế) có nhiều chỗ ở. Giả sử không có như vậy, tất Thầy đã bảo các con rồi, vì Thầy đi sửa-soạn chỗ ở cho các con. Và khi Thầy đã đi sửa soạn cho các con Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó. Còn như chỗ Thầy đến bây giờ, các con đã biết đường rồi" (Gioan XVI).
* “Nếu các con yêu mến Thầy, các con phải giữ các giới răn Thầy. Phần Thầy, Thầy sẽ xin với Cha Thầy (Thượng-Đế) để Thầy sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ hay Đấng an ủi khác, Đấng ấy sẽ ở với các con liền mãi: Thần Chân lý này, thế gian không thể tiếp nhận được, vì thế gian không xem thấy Ngài và cũng không biết Ngài. Nhưng các con thì khác, các con đã biết Ngài rồi, vì Ngài từng ở cạnh các con và ở trong các con. Thầy sẽ không để các con mồ côi. Thầy sẽ trở lại cùng các con. Còn chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ chẳng xem thấy Thầy vì Thầy sẽ sống và cả các con cũng sẽ sống. Ngày ấy các con sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy (Thượng-Đế) và các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Ai biết giới răn của Thầy mà giữ các điều đó chính là người yêu mến của Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, người đó sẽ được Cha Thầy yêu và cả Thầy đây cũng yêu người ấy" (Gioan 1521.XVI).
* "Những kẻ nào không yêu mến Thầy nó sẽ chẳng giữ giới răn của Thầy. Mà lời các con nghe đây không phải bởi Thầy, song bởi Cha Thầy là Đấng sai Thầy, Thầy nói những điều này với các con, bao lâu Thầy còn ở với các con. Song Đấng phù trợ hay là Đấng an ủi mà Cha Thầy sẽ nhân Thầy sai đến với các con, sẽ dạy các con biết mọi điều, sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều mà Thầy đã từng dạy các con" (Gioan).
D- Tại sao mở Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn không giáng bằng xác thân, mà lại giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút?
1- Mục-đích của Đạo Cao-Đài là tận-độ chúng sanh, độ 92 ức nguyên-nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần.
2- Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng bằng xác thân mà chỉ giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút, là vì thời kỳ chuyển Đạo vô-vi hiệp Tam-thanh chấn-hưng Tam giáo Phục nhứt Ngũ chi nên Đức Chí-Tôn giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút mới qui đặng cả Đại-Đồng Tam giáo.
3- Đức Chí-Tôn làm Giáo-chủ Đại-Đạo là Đấng vô hình, dùng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT dạy Đạo thì dân tộc nào cũng có thể học trực tiếp với ông Thầy Trời được, nếu họ biết dùng phép “Thông-Thần-lực”. Thế là sự bất đồng ngôn ngữ chẳng còn là một sự thắc mắc nữa.”
Bởi:
Nhứt-kỳ và Nhị-kỳ Phổ-độ: Phật, Tiên, Thánh, giáng linh Tam-giáo; nhân buổi nhơn-loại chẳng hiệp đồng nên ba vị Giáo-chủ đã thọ sanh riêng địa-phận, nên hai kỳ khai Đạo vừa qua chỉ Phổ-độ trở về cựu vị có 8 ức nguyên nhân (Phật độ 6 ức, Tiên độ 2 ức).
Còn buổi Hạ-nguơn Tam-kỳ Phổ-độ là thời-kỳ ân xá tội-tình cho toàn cả chúng sanh, lại nhơn buổi văn minh, nhơn-loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức cho nên Đức Chí-Tôn dùng HUYỀN CƠ DIỆU BÚT, giáng cơ khai Đạo, chủ-nghĩa là tận độ 92 ức nguyên-nhân qui nguyên vị.
E- Thầy đến từ phương Tây và bày việc Cơ bút:
Nay là buổi Tam-kỳ Phổ-độ, Đức Chí-Tôn mở ra nền Đại-Đạo với mục đích “Phổ-độ chúng sanh”. Ngài lập ra Đền-Thánh là Tòa ngự của Đức Ngài là Bạch-Ngọc Kinh tại thế, tức nhiên phương hướng và mẫu mực đều do chính Thầy dẫn-giải bằng Huyền Diệu Cơ Bút.
Ngày nay Thầy đến từ hướng Tây thuộc vùng Tây-Ninh Thánh-địa, cũng như Phật đến từ Tây-Thiên-Trúc, người tu tìm đến cảnh Tây phương Cực lạc với cả một Huyền-diệu Thiêng liêng như lời Thầy dạy:
“Tòa-Thánh day mặt ngay hướng Tây, tức là chánh cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là cung Càn, tay mặt Thầy là Cung Khôn, đáng lẽ Thầy phải để bảy cái Ngai của phái Nam bên tay trái Thầy, tức bên Cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn Đạo cho đủ Ngũ Chi, cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là Cung Đoài cho đủ số. Ấy vậy cái Ngai của Đầu-sư Nữ phái phải để bên Cung Khôn, tức là bên tay mặt Thầy.
Hộ-Pháp hỏi cái Ngai ấy ra sao? Thì Thầy dạy:
Giống y như cái Ngai của Quan-Thế-Âm Bồ-Tát, nghĩa là một cái Cẩm-Đôn để trong vườn Trước-Tử trên Nam-Hải, dưới chân đạp hai bông sen nở nhuỵ”
Như vậy là Đền-Thánh kết tụ các phương hướng trên để thành hình một Bát-Quái Đồ thiên, nhưng Bát-Quái này chỉ duy nhứt Đạo Cao-Đài mới có, phối hợp bởi Bát quái Tiên Thiên và Hậu Thiên trước đây. Đặc biệt là chiều quay nghịch với kim đồng hồ. Đó là con đường trở về với Thượng-Đế mà Đạo Cao-Đài hân hạnh được gọi Ngài là Đức Chí-Tôn, Đại-Từ-Phụ trong ngươn hội này mà thôi.
Kinh rằng:
“Tiên Thiên, Hậu Thiên. Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
“Kim ngưỡng cổ ngưỡng. Phổ tế tổng pháp tông.”
(Xem thêm Dịch-Lý Cao-Đài có giải rõ Bát-quái)
Như vậy:
“Mọi việc trong vũ-trụ khi phát-huy đều cũng do một duyên cớ tế nhị, nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng nằm trong công lệ ấy. Đây là nền Đại-Đạo, tuy rất cao thâm mầu-nhiệm do Đức Cao-Đài Thượng-Đế đến để cứu rỗi cả chúng sanh; nhưng việc khởi đoan cũng chỉ do Huyền-diệu Cơ bút làm phương-tiện thông-công, một sự kiện đã có tự ngàn xưa, nhưng qua nhiều giai-đoạn khác nhau tuỳ theo trình-độ tiến-hoá của nhơn-sanh; phải qua hai thời-kỳ:
1- Đại-Đạo ra đời tức là mở đường xuất Thánh.
2- Thượng-Đế âm-thầm chọn lựa và huấn-luyện Đồng-tử từ thuở xa xưa, nay đến ngày giờ Ngài qui tụ lại.
Ban sơ Đức Chí-Tôn dùng Huyền-diệu Cơ Bút thâu phục các Chức Sắc thượng cấp Hiệp-Thiên-Đài, tức là những chơn-linh cao trọng đã đến trước; Ngài dùng những vị này trong việc phò loan để lập thành Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Đức Thượng-Sanh là một trong số những bậc đầu công của nền Đại-Đạo, Ngài có để lời xác nhận cho quyển “ĐẠO-SỬ” xây bàn của Bà Hương-Hiếu là đúng sự thật.
Quyển Đạo-sử Xây bàn Bà Hương Hiếu nói:
Nhận xét muôn việc chi cũng có Thiên thơ định giờ nên các chơn linh mới dám tình nguyện lãnh lịnh hạ thế cứu đời lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ân xá lần ba này.
Thời kỳ gặp Đạo: Năm mà Đức Cao Thượng-Phẩm 37 tuổi (1925) nhằm thời kỳ Đức Thượng-Đế mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ dùng huyền diệu bố trí cho ba ông là Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh ham mộ Xây bàn mỗi đêm, đêm nào ba ông cũng họp lại với nhau để Xây bàn. Ba ông thành tâm khẩn cầu hơi lâu thì quả thật hiển linh, có các Đấng giáng bàn cho văn thi và nhiều bài Thánh giáo triết lý cao siêu, nhiệm mầu, cũng nhờ phép linh có các Đấng mà ba ông đêm nào cũng thích Xây bàn cầu các Đấng học hỏi Thiên cơ.
Xây bàn là vô cùng hiển linh, gây cảm tình cùng ba ông: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh. Các Đấng đến lập phương thế thông công cõi vô hình với hữu hình đặng mở cơ tận độ 92 ức nguyên nhân đang trầm luân nơi khổ hải này.
Đây là một bài Cơ làm theo lối khoán thủ của Đức “Ngọc-Hoàng Giáng thế Giáo-Đạo Nam-phương”
NGỌC ẩn Thạch-Kỳ Ngọc tự cao,
HOÀNG Thiên bất phụ chí anh hào.
GIÁNG ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
THẾ tạo lương phương thế cộng giao.
GIÁO hóa nhơn sanh cầu triết lý,
ĐẠO truyền thiên-hạ ái đồng-bào.
NAM nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
PHƯƠNG tiện tu tâm kế diệt lao.

►Xem tiếp CHƯƠNG II: >>>>>