Sớm sống khỏi gia đình, năm 12 tuổi đến nhà Đốc Phủ Sủng (Mỹ Tho) để xin học nội trú tại Trung học Mỹ Tho. Sau lên trường Chasseloup Laubat thi đậu Thành Chung năm 21 tuổi và được bổ làm tại Sở Tân Đáo Sài Gòn. Ngài thành gia thất với bà Bùi Thị Thân có được 9 con, làm quan tới Đốc Phủ (1)
Năm 1903, Ngài đổi đến Dinh Thượng Thơ rồi về Tân An (1909), đầu năm 1920 thì ra Hà Tiên sau 8 tháng đổi ra Phú Quốc. Chính nơi đây Ngài đã ngộ Đạo Cao Đài và là chứng nhân đầu tiên của nền Tân Tôn giáo.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
((1) Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời tu. NXB Tp.HCM 1992, trang 234)
Một buổi sáng đang ngồi trên võng, Ngài bỗng thấy trước mặt lộ ra một con mắt thiệt lớn, chói ngời như mặt trời.
Ngài sợ hãi nhắm mắt lại trong 30 giây, mở ra vẫn thấy và còn chói lọi hơn. Ngài bèn vái rằng "bạch Tiên Ông, đệ tử rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi. Như phải Tiên Ông dạy đệ tử thờ Thiên Nhãn thì xin cho biết tức thì" . Vái xong thì Thiên nhãn lu dần rồi mất. (1)
Sau khi tu được 3 năm, Tiên Ông giáng cơ ban đặc ân cho Ngài muốn tìm hiểu chi. Ngài bạch "Bạch Thầy nghe cảnh Bồng Lai xinh đẹp vô cùng, xin Thầy cho đệ tử thấy cảnh ấy" Vào cuối tháng gi6ng năm Giáp Tý (1924), Ngài ra biển hóng mát thì được thưởng ngoạn cảnh Bồng Lai trong 15 phút.
Năm 1924 đổi về Sài Gòn, Ngài liên lạc với Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm. Nhưng Ngài tu theo vô vi (2) nên không đi phổ độ được. Dù rằng đàn cơ đêm 14/4/1926 Đấng Chí Tôn định ban cho Ngài phẩm Giáo Tông. Ngài lập Chiếu Minh vô vi ở Cần Thơ rồi liễu đạo trên sông Cửu Long ngày 13/3/Nhâm Thân (1932) hưởng thọ 54 tuổi.
Sau đó ít lâu các đệ tử hầu đàn được Ngài cho các bài thi :
~~~~~~~~~~
((2) Với chủ trương "ngô thân bất độ bất độ hà thân độ" : thân mình chưa độ được, lo độ ai.)
Tuy Ngài chịu làm đệ tử của Tiên Ông chớ chưa lập bàn thờ để thờ Tiên Ông, vì không biết phải thờ làm sao ? Một bữa kia Tiên Ông dạy Ngài phải tạo ra một cái dấu hiệu gì riêng để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập, Tiên Ông nói chữ Thập cũng được song đó là dấu hiệu riêng của một nền Đạo đã có rồi. Phải suy nghĩ mà tầm cho ra, có Tiên Ông giúp sức, Ngài xin hưỡn lại để có ngày giờ suy ngẫm. Mãn tuần Ngài tầm cũng chưa ra.
Một bữa sớm mai, lúc tám giờ, Ngài đương ngồi trên võng phía sau Dinh Quận, bỗng đâu Ngài thấy trước mặt cách xa độ hai thước tây, lộ ra một con mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời, Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, nửa phút đồng hồ Ngài mở mắt ra thì cũng còn thấy con mắt ấy mà lại càng chói hơn nữa.
Ngài bèn chấp tay vái rằng :
"Bạch Tiên Ông đệ tử rõ biết cái huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì". Vái xong con mắt lu lần lần rồi mất.
Như vậy mà Ngài cũng chưa thiệt tin, nên chưa tạo Thiên Nhãn mà thờ. Cách vài ngày sau Ngài cũng thấy y như lần trước nữa. Ngài cũng nguyện sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ thì con mắt tự nhiên biến mất.
Đức Cao Đài Tiên Ông xưng danh tại Quan Âm Tự.
Năm 1921, sau khi thấy Thiên Nhãn hiện 2 lần, Ngài cầu cơ hỏi cách thờ phượng thì Tiên Ông dạy vẽ con mắt theo như Ngài đã thấy mà thờ và xưng tên là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" và dạy Ngài phải kêu Tiên Ông bằng THẦY mà thôi. Từ đó Ngài chánh thức trở nên người đệ tử đầu tên của Đức Cao Đài Tiên Ông.
Chư nho hầu đàn thảy đều lấy làm lạ vì thuở nay chẳng hề thấy kinh sách nào nói đến danh Cao Đài Tiên Ông. Duy có mình Ngài xem ý tứ trong mấy bài thi của Đức Cao Đài cho thì Ngài đoán chắc rằng Thượng Đế giá lâm, Chúa tể càn khôn vũ trụ, Cha chung của nhân loại, mới dạy như thế mà thôi.
Cũng như các tôn giáo thuở xưa, trong Giáo pháp của Ngài có hai khoa :
(1)- Khoa công truyền tiệm giáo để độ đại chúng lập công bồi đức.
(2)- Khoa Tâm truyền đốn giáo để dắt dẫn người hữu căn muốn tìm đường siêu xuất.
(Nhưng vì qui giới rất gắt gao, nghiêm nhặt, nên ít được phổ biến).
NGOAÏI GIÁO CÔNG TRUYỀN
Khoa Giáo pháp công truyền của Ngài có thể phân ra làm bốn phần cho dễ hiểu:
Như đã nói qua đoạn trên, Ngài không có biện luận bao nhiêu về các phần này, và quan tâm về thưc hành nhiều hơn : vì thế cacù tầng lớp trong xã hội, cho đến hạng nghèo nàn ít học cũng tu theo được.
1/- Về phần LUẬN LÝ :
Xưa nay bất cứ ở vào thời đại nào, thuộc về Tôn giáo nào, theo dân tộc, phép tắc định ra để khép người trong đường ngay lẽ chánh, (nhơn luân : lois morales) cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.
Phần LUẬN LÝ trong giáo pháp của Đức NGÔ MINH CHIÊU truyền bá, tựa hồ như có tánh cách chiết trung (éclectisme).
Ngài dạy :
Lòng TỪ BI, BÁC ÁI luôn luôn phải thực sự, cụ thể, tích cực, nhưng hành vi phải âm thầm kín đáo. Làm việc phước đức cho thường, song chẳng cho người thấy biết. Thay vì dùng lời chỉ bảo, Ngài hằng lấy gương lành mà dạy rõ : về mặt luân lý, chơn hạnh phúc gom ở trong việc tạo hạnh phúc cho người quanh mình.
Riêng ra Ngài dặn phải biết NHẪN NHỤC, HAÏ MÌNH TRỌNG NGƯỜI, luôn luôn (Khuất kỷ tôn nhơn, bình tâm hạ khí).
Một đặc điểm khác là Ngài có dạy rằng : Đạo mở kỳ này là một mối Đạo chơn thường. Người hành trì phải giữ hai chữ ấy làm phương châm (guide).
CHƠN là : Lời nói CHƠN THẬT (vérité)
Việc làm CHƠN CHÁNH (Drotiture)
Ý tưởng CHƠN THÀNH (Sincérité)
THƯỜNG là : Phải hành trì THƯỜNG TRỰC không gián đoạn.
ĐỀU ĐẶN không lúc nhặt hồi thưa, phải NHỨT TÂM NHỨT TRÍ.
TỰ NHIÊN, UNG DUNG không dục tốc không giải đãi (Naturel - Régularité - Constance).
2/- Về phần Chế Độ :
Giáo phẩm và hệ thống :
Mặc dầu lối tháng 9 DL năm 1920 (lúc còn tại Hà Tiên) Đức NGÔ MINH CHIÊU đã phụng lãnh thiên mạng mở Đạo kỳ ba độ rỗi nhân sanh, mặc dầu sau khi về Sài Gòn (năm 1924) Ngài chỉ huy giám định công việc xây dựng nền tảng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mặc dầu Ngài ban truyền một Giáo lý qui tắc phân minh, mặc dầu Ngài điều khiển cơ quan Vô vi Tâm Pháp có ấn chứng hiển nhiên, nhưng Ngài chẳng thọ nhận chức Giáo Tông, ân phong tại Tòa Thánh Tây Ninh (14 tháng 4 DL năm 1926). Chẳng những thế thôi, Ngài còn không nhận cho mấy vị học đạo trực tiếp với Ngài, gọi là "Thầy" nữa.
Ngài nói ở trần thế không người nào được làm thầy người nào hết. Ngài chỉ là người truyền giáo mà thôi. Mấy người học đạo, là học đạo với Đức THƯỢNG ĐẾ. Phép tu hành theo Ngài là phép "cư sĩ, tu tại gia". Không lập Tòa lập Thất, không tạo Chùa chiền, Đạo viện. Không tổ chức Giáo Hội, Tập Đoàn nơi Tu viện (Monachisme). Đạo của Ngài không có đặt ra Giáo phẩm (Sacerdoce). Tất cả tín đồ nhứt thể đều là người còn đương học Đạo, không phân giai cấp.
Khác nhau là cũ và mới : Tín đồ cũ có nhiệm vụ dẫn dìu người mới, chỉ kiểu tu hành cho tường tận, cho họ được hiểu biết như mình. Song tuyệt nhiên không bao giờ được dùng tiếng "DAÏY". Tín đồ mới có phận sự phải hành theo lời chỉ vẽ và xem người cũ như người thay mặt Giáo chủ trao bản đồ cho mình do theo mà hành đạo. Chính Ngài cũng không chịu ai tôn trọng biệt đãi mình.