
|
MỤC LỤC 13. Bát tiên giáng trần
14. Thập nhị thời quân
15. Đạo cho ta sáng mắt
16. Ngũ chi phục nhứt
17. Nơi lòng thầy ngự
18. Duyên kỳ ngộ
19. Tam Trấn tiên tri thời cuộc
20. Tám gà trên mây
21. Tà thần quấy nhiễu
22 . Long tuyền kiếm
23. Mã Đảo pháp nạn
24. Ngô triều sụp đổ
|

Vào đêm 17-6-Qúi Hợi ( 30-7-1923) tại Miếu Nổi, Tào Quốc Cựu giáng cơ khuyên tu như sau :
. Miếu Nổi nằm trên cồn đất độ trăm thước ở giữa sông Bến Cát, một nhánh của sông Bình Lợi ( Gia định).
Theo sách Tử Nguyên và Quảng sự Loại, Bát Tiên là những người phàm tu thành Tiên. Kể thứ tự như sau :
Trong Kỳ Ba giáo đạo nầy, Bát Tiên lâm trần phổ độ chúng sanh với thi phàm xác thịt là :
1. LÝ THIẾT QUẢ :
Người đất Giáp, sinh đời nhà Tùy, tên là Hồng Thủy, tiểu tự Thiết Quả ( hay Quẩy). Người khôi ngô, tu luyện ở Nham Động. Trước khi đi học với Lão Tử, Thiết Quả dặn đệ tử : "Xác ta ở đây, hồn ta đi trong 7 ngày. Sau thời gian đó ta không về thì hủy xác". Mới 6 ngày, mẹ bị đau, người học trò vội hủy xác Thầy. Lý Thiết Quả xong việc trở về , không thấy xác, nên nhập vào tử thi của một kẻ hành khất. Do đó, Lý Thiết Quả có chân què, vẻ mặt và thân hình xấu xí, tay cầm bầu rượu.
Ông LÊ VĂN TRUNG ( 1876 - 1934 ) có ngươn linh của Lý Thiết Quả. Hai vị nầy có điểm giống nhau là cứu độ người. Người Chợ Lớn sinh ra trong một gia đình Nho phong. Ông rất thông minh năm 17 tuổi đã được bổ vào ngạch Thư ký Soái phủ Sài Gòn. Năm 1906, ông đắc cử Hội Đồng Quản Hạt. Năm 1911, ông đề xướng trường Nữ Học Đường, được Bắc Đẩu Hội Tinh.
Được Đức Cao Thượng Phẩm phổ độ, ngày 6-10-1925, ông từ chức Nghị viên để phế đời hành đạo. Ngày 23-4-1925 đắc phong Đầu Sư, thánh danh Thượng Trung Nhựt. Ngày 03-10-Canh Ngọ Đức Lý Giáo Tông ban cho Ngài chức Quyền Giáo Tông hữu hình.(1930).
Sau cơn bịnh nhẹ, Ngài vĩnh du Tiên cảnh vào ngày 13-10-Giáp Tuất (19-11-1934), liên đài được xây tháp phía sau Bát Quái Đài Toà Thánh. Tính từ ngày Khai Đạo (19-11-1926) tại Gò Kén đến ngày Đức Ngài qui tiên đúng 8 năm không thừa không thiếu 1 ngày. Điều ấy đúng vào con số Bát Tiên mà Ngài là người đứng đầu và trên cả chúng sanh.
Đức Phạm Hộ Pháp đề thơ (1949) như vầy:
2. CHUNG LY QUYỀN:
Chung Ly Quyền, tự Vân Phòng, người đất Hàm Dương, làm tướng đời Hớn, nên còn gọi là Hớn Chung Ly. Chung Ly râu dài, mặt sáng, mình cao tám thước nên được vua Hớn phong làm Nguyên soái đi đánh quân Phiên. Lý Thiết Quả thấy Chung Ly ham chinh chiến nên khiến cho thất trận chạy lạc vào núi gặp đệ tử ông Đông Huê. Ông ấy mời cơm chay rồi nói : "Công danh như bọt nước, phú quí như đèn trước gió. Thừa dịp này, tướng quân nên đi tu, ham chi phú quí."
Chung Ly hỏi: "Luyện phép chi được sống lâu?"
Đông Huê đáp : Trống lòng là đừng lo chi cả, đặc bụng là không đam mê sắc dục, lo gì không trường thọ.
Chung Ly Quyền xin thọ giáo. Sau gặp Chính Dương Chơn Nhơn truyền thêm phép Tiên và đắc đạo. Tay cầm cây Long tu phiến.
Ông CAO QUỲNH CƯ (1887-1929) có ngươn linh của Chung Ly Quyền. Hai vị này có điểm giống nhau là tâm tu. Ông sinh trong gia đình Nho phong ở Hiệp Ninh (Tây Ninh).
Trong thời kỳ làm Thơ ký Sở Tạo Tác tại Sài Gòn, ông thường cùng các bạn họp xây bàn 2, được Đấng A Ă Â giáng đàn cho thi. Sau được Đức Phật Mẫu và Thất Nương hướng dẫn vào đường đạo.
Ngày 23-4-1925, ông thọ phong Thượng Phẩm, sau khi lập bàn Vọng Thiên cầu Đạo (1-11-Aát Sửu). Ngày 7-10-1926 lập tờ khai Tịch Đạo với chánh phủ Pháp. Ngày 18-11-1926 (14-10-Bính Dần) thiết Đại Lễ Khai Đạo tại Từ Lâm Tự. Ngài phò cơ viết ra Bộ Pháp Chánh Truyền thành lập Hội Thánh.
Năm 1928, Ngài bị khảo đảo, sau khi Thánh Thất dời về chùa mới ở làng Long Thành. Quá đau lòng, Ngài lâm bịnh và qui Tiên ( 1-3-Kỷ Tỵ) tại Thảo Xá Hiền Cung, liên đài được xây cánh trái trước Toà Thánh.
3. LỮ ĐỒNG TÂN :
Lữ Đồng Tân tên là Nham, tên chữ là Động Tân, thuộc gia đình vọng tộc đời Đường.
Ông mắt phụng, mày tằm tay dài như vượn, cổ cao, mũi thẳng, xương gò má nhô lên, thích ăn mặc như đạo sĩ. Năm 20 tuổi lấy hiệu là Thuần Dương, thi đỗ cử nhân. Khi đến Trường An, Lữ Đồng Tân gặp Chung Ly Quyền trong một quán trọ. Chung Ly muốn ông đi tu nên bày việc nấu nồi kê. Trong khi Lữ Đồng Tân ngủ mê, thấy mình thi đỗ Trạng Nguyên cập đệ, hai lần cưới con gái nhà quyền thế. Có sui gia,cháu nội ngoại đầy đủ. Con cháu đều đỗ đạt vẽ vang, hạnh phúc trong 40 năm. sau bị nịnh thần vu oan, bị tịch biên gia sản và bị đày qua núi Lãnh Biểu, cực khổ vô cùng, ông ôm mặt khóc rồi giựt mình thức giấc. Ông thấy Chung Ly Quyền còn nấu nồi kê chưa chín nên phá lên cười và nói : " Huỳnh Lương do vi thục, nhất mộng đáo Hoa Tư" ( Nồi kê chưa chín, mộng đã đến nước Hoa Tư).
Rồi ông quay sang Chung Ly hỏi : Ông biết tôi nằm mơ thấy gì không ?
Chung Ly đáp : Chiêm bao 40 năm, công việc cả muôn mà không đầy giây lát. Việc được không đủ mừng, việc mất không đủ lo, nhưng có ý thức đại giác, thế gian nầy chỉ là giấc mộng lớn mà thôi.
Lữ Đồng Tân nghe lời nói phải, giác ngộ, bèn lạy Chung Ly Quyền và xin theo học phép Tiên. Sau Đồng Tân đắc đạo, tay cầm thư hùng kiếm .
Ông CAO HOÀI SANG ( 1900 - 1971) có ngươn linh của Lữ Đồng Tân. Hai vị nầy có điểm giống nhau thích âm nhạc.
Ông sanh trong gia đình đạo đức ở xã Thái Bình (Tây Ninh). Sau khi đỗ Thành Chung, ông vào làm việc ở Sở Thương Chánh Sài gòn. Ông cũng ngộ đạo một lượt với ông Cao Quỳnh Cư và đắc phong Thượng Sanh ( 19-11-1926).
Ngày 16 - 7 - 1970, Ngài về hành đạo tại Toà Thánh với danh vị Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài. Ngày 21-1-1965, tạo tự cách Pháp nhân cho Đạo và đưa Ban Thế Đạo vào vai trò nhập thể.
Sau cơn cảm nhẹ, lúc 17 giờ ngày 21-4-1971, Ngài triều Thiên, đắc vị Kim Tiên.
4. TRƯƠNG QUẢ LÃO :
Trương Quả Lão là con dơi trắng tu hành thành Tiên, làm bạn với Lý Thiết Quả, ở ẩn trong núi Trung Điền (Hàng Châu). Tên thật là Trương Quả, chữ Lão là già được người đời thêm vào.
Dưới đời Đường, niên hiệu Khai phong ( 713 - 733), Võ Hậu cho triệu về Kinh, nửa đường ông giả chết. Đường Minh Hoàng nhiều lần đem sắc rước, ông mới chịu ra và được phong là Ngân Thanh Lộc Đại phu. Sau ông xin về ẩn dật trên núi, lấy hiệu là Thông Huyền tiên sinh, qui Tiên dưới đời Thiên Bảo ( 742 - 755).
Thật ra, thời nào người ta cũng thấy ông Tiên cưỡi lừa đó vì ông tự nói : "Ta sinh năm Giáp Tý đời Nghiêu". Tay cầm cây gậy như một ông già (lão).
Ông CA MINH CHƯƠNG ( 1864 - 1927) là một nhà cựu học thâm nho, ở làng Mỹ Lộc ( Chợ Lớn), có ngươn linh của Trương Quả Lão. Hai vị có điểm giống nhau đều sanh năm Giáp Tý và hay xuất hiện ở dương trần. (Ông Chương xuất hiện dưới xác của Hồ Bảo Đạo).
Ông bản tính ôn hòa, khiêm cung, được tiếng là người con chí hiếu. Thêm vào lòng quảng đại thương đời, dân trong làng cử ông làm Hương Bộ. Ông cho mở trường học huyện Phước Lộc ở Bà Rịa.
Khi Đạo mới khai, Ngài phế đời theo Đạo và đắc phong Bảo Đạo. Người cao tuổi nhất trong Đạo lúc bấy giờ. Vì tuổi cao lại miệt mài với trách nhiệm thiêng liêng, Ngài đăng Tiên vào ngày 19-10-Đinh Mão ( 1927) (3) và giáng cho bài thi :p>
5. LAM THỂ HÒA :
Lam Thể Hòa là ông Tiên bị đày đọa làm khách trần. Tính tình thuần hậu nhất trong Bát tiên .
Ông thích mặc áo rộng màu xanh, buộc dây lưng đen thật to, một chân đi đất, một chân đi giày. Mùa hạ mặc áo lót bông, mùa đông nằm trên tuyết. Thường ngày, ông cầm cặp sanh dài 3 thước ta, vừa đi, vừa nhịp ca ngoài chợ mà kiếm tiền bố thí cho người nghèo.
Dịch ca :
Nhịp chân ca Thái Hòa
Thế giới được bao lâu ?
Nhan sắc như xuân cội
Thời hạn tựa thoi đưa
Người xưa không trở lại
Người mới đến quá thừa
Sáng cưỡi loan trời thẳm
Chiều dâng thành sóng xa
Không trung lâu đài sáng
Cung điện cao nguy nga
Về sau, trong lúc uống rượu với Lý Thiết Quả nơi Hào Lương, bỗng trên mây có xe hạc, tiếng tiêu thanh thoát đưa hai ông bay bỗng, trở về Tiên vị, tay ông cầm Giỏ Hoa Lam.
Phối sư THÁI BÍNH THANH tên thật Lâm Quang Bính ( 1873 - 1931) người Rạch Giá, là ngươn linh của Lam Thể Hòa. Hai vị giống nhau ở tánh tình thuần hậu, ý tứ từ hòa, thương người nghèo.
Ông được phong Giáo sư phái Thái ngay từ buổi đầu. Ông chưa rõ tự sự mới bạch rằng : Thưa thầy, Lam Thể Hòa mặc áo xanh, sao Thầy ban cho phái Thái (áo vàng). Đức Chí Tôn chuyển cơ viết : "Đó là bí pháp, con biết sao được".
Vai trò của ông trong việc xây dựng Toà Thánh cũng rất lớn. "Hộ Pháp, Thượng phẩm, nội trưa nầy phải cắm một cây viết vào đầu cơ, lấy một miếng giấy lớn, vào điện phò loan cho Lão vẽ (khuôn viên Toà Thánh). Bính Thanh phải có mặt, còn kỳ dư không cho ai vào điện hết, nghe à !"
6. HÀ TIÊN CÔ :
Hà Tiên Cô là người con gái mang họ Hà ở huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam, tên là Tố Nữ, sinh vào đời Đường.
Thuở nhỏ, trên đầu có 6 xoáy, mọi người lấy làm kỳ. Năm 15 tuổi, cô xin cha mẹ đến ở Khe Vân Mẫu. Đêm nằm mộng thấy Tiên dạy ăn hột Vân Mẫu sẽ nhẹ mình và trường thọ.
Cô vội đi tìm hạt Vân Mẫu thì gặp Lý Thiết Quả và Lữ Đồng Tân đang hái thuốc. Thấy cô gần thành Tiên, Lữ Đồng Tân cho cô một quả Đào. Cô ăn mới nửa trái thì thấy không đói nữa, biết được mọi sự họa phước, lành dữ trên đời. Mọi người cho cô là Thần Tiên, cất lầu cho cô ở và gọi cô là Hà Tiên Cô.
Bà Võ Hậu nghe tiếng, cho người đến rước, đi được nửa đường, cô biến mất. Sau Lý Thiết Quả độ dẫn hai mẹ con cô đều thành Tiên. Tay Hà Tiên Cô cầm bông sen.
Hà Tiên Cô là ngươn linh của bà giáo sư Hương Hồ ( Huỳnh Thị Hồ) con gái của bà Đầu sư Hương Thanh ( Lâm Thị Thanh). Bà Bát Nương giáng đàn, bà Hồ có kinh nguyệt không lên lầu được nên Bà Bát Nương dạy :
7. HÀN TRƯƠNG TỬ :
Hàn Trương Tử sinh vào đời Đường, người huyện Nam Dương kêu Hàn Dũ ( tức Xương Lê) bằng chú.
Thuở nhỏ, theo Lữ Đồng Tân học đạo Tiên. Sau về quê gặp ngày sinh nhật Hàn Dũ. Hàn Dũ có ý trách Hàn Trương bỏ nhà đi lưu lạc. Hàn Trương liền thưa rằng : "Xin chú đừng giận, cháu có nghề nầy xin kính mừng sinh nhựt." Nói xong, Hàn Trương nhóm đất rồi trùm lại, trong giây lát dở ra nhiều hoa nở, mỗi cánh đều có chữ vàng :
Xương Lê không hiểu gì cả. Sau vì can vua sùng Đạo Phật mà bị đày ra Triều Châu. Khi đến Tần Lĩnh, Lam quan, Hàn Dũ được Hàn Trương ra đón. Hàn Dũ nhờ đó biết được ý hai câu thơ của Hàn Trương bèn làm tiếp :
Dịch thơ
Buổi sớm dâng vua một bức thư
Triều Châu chiều đến bị đày lưu
Muốn vì Thánh chúa trừ tệ nạn
Đâu tiếc cuối đời vận đã suy
Tần Lĩnh mây che nhà chốn ấy
Ải Lam tuyết phủ ngựa không đi
Biết mi hảo ý từ xa đến
Thu nhặt cốt ta ở bến ni !
Thấy Hàn Trương đoán không sai, từ đó Hàn Dũ mới trọng Đạo. Rạng ngày, Hàn Trương dâng dâng cho chú một bầu thuốc, nói : - Chú uống thuốc nầy khỏi bịnh và không bao lâu nữa được phục chức nhờ bài văn tế cá sấu.
Nói rồi, Hàn Trương từ biệt chú. Về sau, nhờ vua tề đuổi được cá sấu, Hàn Dữ được phục chức cũ.
Hàn Trương thành Tiên, người đời gọi là Hàn Trương Tử hay Tương Tử, tay cầm ống tiêu .
Ông VƯƠNG QUAN KỲ ( 1880 - 1940) người tỉnh Chợ Lớn, cháu nội Thống Chế Vương Quang Hạc, ông ngoại là nhà nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt. Ông là tri phủ Sở Thuế Thâu Sài gòn.
Song thân ông Kỳ là Vương Quan Để và Huỳnh Thị Bảy. Ông học Lyce'c Chasseloup, đậu Diplôme, cùng làm việc với ông Ngô Văn Chiêu ở dinh thống đốc Nam Kỳ.
Ông theo Đạo được Đức Chí Tôn phong phẩm Giáo sư ( 26-4-1926) và cho bài kệ
Ông Kỳ là bào đệ của Vương Quan Trân, thân sinh cô Vương Thị Lễ (tức Thất Nương Diêu Trì Cung) hướng dẫn Tam vị Thiên sứ học Đạo buổi đầu. Trong " Con đường thiêng liêng hằng sống" Đức Phạm Hộ Pháp nói về ông như sau:
"Người đó bận Thiên phục giống hình đội mão Giáo sư, áo tốt lại dắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần đi ngật ngờ, ngật ngưỡng cười một mình không biết cười cái gì, đi ngang qua Bát Quái Đài, như không vậy". Đó là ngươn linh của Hàn Trương Tử thích phóng túng tiêu dao.
8. TÀO QUỐC CỮU :
Tào Quốc Cữu ( hay Cựu) tên Hữu, là con trai thừa tướng Tào Ban, người đất Linh Thọ, em hoàng hậu, vợ của Tống Thái Tổ.
Tào Hữu, tướng khôi ngô đẹp đẽ, được vua và hoàng hậu qúi mến, nên tặng cho một bài vàng. Ngược lại, người em ỷ thế hại dân. Sợ liên lụy, Tào Hữu bán hết sản nghiệp bố thí cho dân nghèo, rồi mặc đồ đạo sĩ đi tu.
Tào Hữu gặp Lữ Thuần Dương, bị Tiên ông nầy gạn hỏi :
- Đạo ở đâu mà tu ? Tào Quốc Cữu chỉ trái tim. Thuần Dương cười nói : - Lòng là trời, mà trời là Đạo, đã biết cội rễ, tu chắc thành Tiên.
Tào Quốc Cữu hay Cựu xin thọ giáo và đắc đạo. Tay cầm cặp sanh. Năm 1923 Tào Quốc Cựu giáng đàn Bến Cát ( Gò Vấp) " Hữu duyên đắc ngộ Tam Kỳ độ," báo trước đạo Tam Kỳ xuất hiện .
Ông NGÔ VĂN CHIÊU ( 1878 - 1932) sinh tại Bình Tây, Chợ Lớn có ngươn linh của Tào Quốc Cựu. Hai vị giống nhau ở điểm lánh trần. Năm 1920 ông làm chủ quận Hà Tiên, rồi ra Phú Quốc mà ngộ Đạo Cao Đài. Năm 1921, Tiên Ông giáng dạy ông " Chiêu, tam niên trường trai".
Một buổi sáng ngồi trên võng. Ngài bỗng thấy một con Mắt thật lớn chói lọi như mặt trời. Ông sợ vái rằng : Bạch Tiên Ông như phải Tiên Ông dạy đệ tử thờ Thiên nhãn, xin cho biến tức thì. Ông vái xong, Thiên Nhãn lu dần rối mất.
Năm 1924, do lời cầu xin, ông đã thấy được cảnh Bồng Lai. Sau đó, ông đổi về Sài gòn liên lạc với nhóm xây bàn Cao Quỳnh Cư.
Đàn đêm 14-4-1926, đấng Chí Tôn ban cho Ngài phẩm Giáo Tông. Nhưng vì tu theo vô vi nên không đi phổ độ.
Ngài về Cần Thơ lập phái Chiếu Minh vô vi rồi lễu đạo trên sông Cửu Long (1932) và đắc vị : Quốc Cựu Minh Chiêu ( gồm đủ tên ngươn linh và thánh danh).
Từ lâu, có sự hiểu lầm giữa Toà Thánh Tây Ninh truất phẩm Giáo Tông của Ngài Ngô Minh Chiêu. Thật sự, Ngài Lê Văn Trung chỉ là quyền Giáo Tông, dù sau khi Ngài Ngô Minh Chiêu đăng Tiên.
Ngài Lê Văn Trung do Đức Lý phong cho để giữ đạo về mặt hữu hình. Đạo Cao Đài từ trước tới nay chỉ có một Giáo Tông duy nhứt với tịch đạo Thanh Hương. Toàn Đạo hiện vẫn theo tịch đạo đời Giáo Tông thứ nhứt.
Bát Tiên tiền bối dự Hội Yến, được Đức Phật Mẫu ban rượu quỳnh tương và trái đào tiên. Còn được bốn Nữ nhạc Đổng Song Thành, Vương Tử Phá, Hứa Phi Yến, và An Phát Trinh đào, sáo, ca múa hầu chư Tiên Hội Yến.
Ngày nay, chư vị thời quân,các Chức sắc có ngươn linh Bát Tiên, trong đêm Hội Yến, đứng hầu Đức Phật Mẫu và Cửu vị Nữ Phật, đãi tiệc, rót rượu, vừa thực hiện Bí pháp truyền thống vừa thực hành thể pháp dương gian.

Trong đàn cơ đêm 29-6-Đinh Mão (27-7-1927) tại Thánh Thất Nam Vang do Đức Phạm Hộ Pháp và và ông Cao Đức Trọng phò loan, Đức Chí Tôn giáng dạy và phong thánh cho nhiều vị. Nhưng tuyệt nhiên không thấy ban chức cho ông Cao Đức Trọng, nên Đức Hộ Pháp hỏi :
- Bạch Thầy, còn Trọng em con sao không thấy Thầy phong chức.
Đức Chí Tôn gõ cơ đáp :
- Tắc, sao con dại quá vậy, Trọng thuộc về chi Đạo bên Hiệp Thiên Đài .
Thật vậy, sau đó ông Cao Đức Trọng được Đức Chí Tôn phong chức tiếp Đạo. Lúc đó, ông Trọng làm việc tại văn phòng Chưởng Khế (Nam Vang) quyền năng thiêng liêng dành cho con gà ( ông Trọng tuổi dậu) đi gáy xứ người, một bí pháp nhiệm mầu làm sao người phàm rõ thấu được.
Thập nhị thời quân có 12 phẩm cho 12 vị khác tuổi nhau : Tý, Sữu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Người lớn tuổi nhất là Bảo Đạo Ca Minh Chương tuổi Canh Tuất ( 1850), nhỏ tuổi nhất là Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh tuổi Quí Mão. Một vị ở đầu bảng và một vị ở cuối bảng Thập Nhị Thời Quân. Quả là một cơ mầu nhiệm của tạo hóa.
Cơ bút là bí pháp mầu nhiệm và quyền lực của Thiêng Liêng. Thánh ngôn chỉ có giá trị khi cầu ở cung đạo và đồng tử là người được ơn trên chỉ định. Còn những ai khác, cầu nơi khác thì chỉ để học hỏi không có giá trị truyền rao.

Việc thâu nhận ông Lê Văn Trung (tức Thượng Trung Nhựt) có nhiều điểm mầu nhiệm. Vào khoảng tháng 6 - 1925, ông Nguyễn Hữu Đắc gặp ông Lê Văn Trung, lúc đó đã nghỉ làm hội viên Hội Tổng Quản hạt ra làm thầu khoán, mời đến Đàn Chợ Gạo (Chợ Lớn) hầu đàn. Nhà này thuộc chi Minh Lý (tức thuộc Tam Tông Miếu) thờ Quan Thánh Đế Quân.
Ông Lê Văn Trung khăn áo chỉnh tề đứng hầu. Ông Đắc thắp nhanh xong, đánh chiêng,bỗng nghe từ bàn thờ Đức Quan Thánh một đốm lửa bay lên suýt cháy nhà. Đồng tử Diệp bỗng mê man. Ông Đắc hiểu ý vội đem đến một miếng giấy và một cây bút chì, Đồng tử chấp bút viết một mạch bài tứ tuyệt của Lý Thái Bạch khuyên ông Lê Văn Trung đi tu.
Từ đó, ông Lê Văn Trung nhiễm dần mùi đạo, bỏ kinh doanh, bỏ hút thuốc phiện, dốc lòng đi tu thì Đàn Chợ Gạo bế hẳn, nghĩa là bất cứ ai cầu, các Đấng cũng không giáng trần.
Ta thấy rõ : Đức Lý đã thương yêu dìu dắt ông Lê Văn Trung ngay từ buổi đầu nên không ai làm lạ, sau này Đức Lý nhượng quyền Giáo Tông hữu hình cho ông Lê Văn Trung.
Đức Lý chuyển ông Trung đến nhà ông Cư đang lúc mấy ông này cầu cơ. Đức Chí Tôn giáng ngay cho ông bài thơ tứ tuyệt :
Đến ngày 28 tháng đó, hai ông Cư , Tắc được lịnh Đức Chí Tôn vào Chợ Lớn độ ông Trung .
Trước khi gặp Đạo mắt ông mờ, khi ngộ Đạo mắt ông sáng lại bình thường cho đến ngày ông đăng tiên. Ông kể lại lời Đức Chí Tôn dạy ông như sau :
Đức Ngài cũng kể về việc sáng mắt của Ngài Ca Bảo Đạo : " Có 1 bữa Đại Từ Phụ khai khiếu cho Bảo Đạo Ca Minh Chương. Hồi mới khai khiếu 3 anh em tôi (Trung, Cư, Tắc) ngơ ngơ ngáo ngáo không hiểu chi hết tưởng là Chương Niên Cao Kỷ Trưởng mắt mờ mệt nên Đại Từ Phụ khai khiếu cho sáng láng, ngõ hầu khi nào Đại Từ Phụ giáng cơ viết Hán Tự, Đạo hữu coi đọc cho dễ, té ra không phải vậy. Đấng Chí Tôn khai khiếu cho Chương để phò loan đặng "đi phổ độ" ( Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông, tr. 29)

Tam giáo là : Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo
Ngũ Chi là : Minh Sư, Minh Thiện, Minh Đường, Minh Tân và Minh Lý
Minh Đường : qui hiệp về Đạo Cao Đài trước nhứt. Chi Minh Đường ở Vĩnh Nguyên tự ( Cần Giuộc) do ông Nguyễn Văn Lịch làm chủ trưởng. Do cặp cơ Cư Tắc độ ông và đắc phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
Minh Thiện : ở Thủ Dầu Một, chi này thiên về quốc sự nên hấp dẫn được nhiều trí thức yêu nước. Đạo hữu rất phức tạp. Ngọc Cơ mà ông Phan Văn Tý cho ông Cư Tắc mượn buổi đầu xuất phát từ chi này.
Minh Tân : chi này đặt tại chùa Tam Giáo điện số 221 bến Vân Đồn Sài gòn. Chủ trưởng Lê Minh Khá được ơn trên giáng dạy :
Minh Lý : tức chùa Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng Sài gòn. Trong buổi đầu đạo khai, ông Aâu Kiết Lâm, chủ trưởng chi Minh Lý được lịch ban kinh cho Đạo Cao Đài do các đấng giáng dạy. Trong đó có các bài : Xưng tụng Thần Thánh Tiên Phật, Sám Hối cần xét lại.
Đức Đạo Tổ chi Minh Lý giáng dạy về cơ qui nhứt như sau :
"Theo thí nghiệm hóa học, hai chất khác loại đổ vào nhau sẽ biến đổi màu sắc, nếu đổ chất thứ ba vào thì dung dịch sẽ trông như cũ"
Minh Sư : chi này đặt tại chùa Linh Quang Tự ở Gia Định do ông Trần Đạo Quang làm chủ tự.
Ông xuất gia từ năm 13 tuổi theo đạo Minh Sư thuộc phái Phổ Tế Phật Đường. Năm 45 tuổi tới chức Thập địa, cấp bậc cao nhất trong chi Minh Sư, sửa soạn nối nghiệp vị tổ sư thứ 12 là Trần Đạo Khánh bên Trung Hoa.
Vào mồng 9 tháng 9 năm Bính Dần, hai ông Cư Tắc được lịnh ơn trên đến chùa phò loan độ ông Trần Đạo Quang hiệp nhứt. Ông bạch :
- Nếu qui qua đạo Cao Đài thì phải làm sao ?
Ơn trên đáp :
- Y theo luật lệ Minh Sư
Ông thuận hiệp nhứt và được phong Thượng Chưởng Pháp. Đồ đệ của ông rất nhiều như Trần Nguyên Chất, Huỳnh Ngọc Trác noi theo gương ông qui nguyên vào đạo Cao Đài và truyền ra Trung Việt.
Sau đêm theo Đạo Tam Kỳ, râu ông Trần Đạo Quang trước kia rẽ ra 5 chòm như râu Quan Công, một sự mầu nhiệm lạ kỳ, sáng hôm sau tự nhiên đoanh lại quấn dài xuống bụng thành một đường duy nhứt rất đẹp. Ai cũng bảo đó là biểu hiện NGŨ CHI PHỤC NHỨT.

Thuở ban đầu , hai ông Cư Tắc đem cơ đi đến từng chùa, từng nhà để Đức Chí Tôn giáng dạy đạo. Tùy theo người hầu đàn, tùy theo trí thức hay nông dân, linh động mà dìu dẫn họ vào đường đạo lý, có khi triết lý, có khi chính trị, việc đời hay gia sự. Cơ bút đều đáp ứng rất thỏa đáng theo lời cầu xin.
Dù vậy, có những việc xảy ra bất bình thường mắt phàm không thể nào hiểu được, nên mới có lời xầm xì bàn kín với nhau nhưng Đức Chí Tôn vẫn biết vì " Nơi lòng Thầy ngự động Thầy hay"
Một hôm, ơn trên giáng phong cho ông huyện Nguyễn Ngọc Thơ chức danh Phối sư. Ông vốn làm nghề thầu khoán cho Pháp, nên các ông Trương Hữu Đức, Nguyễn Trung Hậu, Trần Duy Nghĩa xúm nhau dị nghị nói với nhau :
- Il n'était pas propre ! ( ông ấy không sạch)
Bỗng nhiên, hai tay ông Trần Duy Nghĩa run lên tiếp điểm phò cơ. Ơn trên dạy :
- Thầy muốn tận độ chúng sanh, cho nên có khi Thầy cũng phải làm ông thầy phàm. Nếu các con biết lẽ Đạo thì từ nay Thầy cấm dị nghị.
Dù vậy, tiếng đời vẫn kích bác cho rằng kẻ giàu sang được phẩm tước cao trọng. Thế nên, ông Cao Quỳnh Cư bạch thầy và được ơn trên dạy :
- Tiền bạc của chúng nó là của chúng sanh. Thầy lấy tiền đó để phổ độ chúng sanh thì có sao đâu ?
***
Vào năm 1927, qúi ông Tắc, Hậu, Đức hợp nhau tại nhà ông Trần Duy Nghĩa ở đường Hamelin Sài gòn. Ông Hậu thấy trên bàn có tượng bà Jeanne d'Arc. Ông Nguyễn Trung Hậu táy máy tay sờ mó. Ông vừa đụng vào tượng liền bị giựt nẩy mình. Ông Phạm Công Tắc phò cơ, bà Jeanne d' Are giáng đàn :
- La Religion résume en un seul mot : HUMANITÉ. Si vous voulez arriver au but poursuivi que ne faites - vous pour l' Humanité ?" (Tôn giáo tóm gọn trong một tiếng : Nhân loại. Nếu các anh muốn đi đến mục đích mà các anh đang theo dõi, sao các anh không có ý tưởng nhân loại )
Chính sự hiện diện thường xuyên của các Đấng bên cạnh Thập Nhị Thời Quân mà các ông không dám xem thường sứ mạng hoằng giáo phổ độ chúng sanh.

2- Ông Ngô Minh Chiêu
Ta thấu rõ máy trời cơ tạo
Trời cùng Ta một Đạo chí linh
Vô vi sẵn có hữu hình
Hữu hình trong lại vô hình vô danh
Danh có đó mà danh không thiệt
Nhờ không danh mới biết đặng danh
Cổ kim mấy bực chí thành
Không danh mà lại để danh muôn đời
3- Ông Thượng Trung Nhựt
Cùng chung một bầu trời lồng lộng
Không thiên gì cuộc sống cho ai
Chí tâm sẵn có đủ đầy
Muốn thành Tiên, Phật đạo đày phải cam
4- Đức Phạm Hộ Pháp :
Cơ phục thủy biết làm sao tả ?
Mảnh thân này chi xá gian lao
Quyết tâm xây đắp ĐÀI CAO
Muôn dân chung hưởng nước giàu, nhà yên
5- Đức Cao Thượng Phẩm
Đạo vốn tật căn nguyên diện hữu
Phật Tiên xưa nay thành tựu nhờ đây
Chỉ so một cái tâm này
Không thiện, không lệch, không sai không lầm
Cùng tắn biến cao thâm máy tạo
Biến tắc thông là Đạo trưởng thành
Hỡi người sứ mạng lương sanh
Giảm suy diệu lý tạo thành tương lai
6- Ông Cao Triều Phát
Mang một kiếm râu mày nam tử
Nợ vi nhơn phải xử cho tròn
Sá gì chức nghiệp cỏn con
Sao không xây dựng nước non thanh bình ( ?)
Đọc xong sáu bài thi của sáu cao đồ toát lên chí tiến thủ của 6 vị. Ông Ngọc Lịch Nguyệt sẽ trở về với Đạo Phật ở Vĩnh Nguyên Tự. Ông Ngô Minh Chiêu tu theo lối vô vi. Ông Thượng Trung Nhựt muốn thành Tiên ( Giáo tông) sẽ bị nhân sanh khảo đảo. Đức Hộ Pháp hoàn thành xây dựng Toà Thánh (đài cao). Đức Cao Thượng Phẩm xả thân vì Đạo trước tiên. Ông Cao Triều Phát lập Cao Đài cứu quốc (1945) giúp đất nước hòa bình.
Cao Triều Phát ( 1889 - 1956) người Bạc Liêu. Thân sinh là Đốc phủ sứ Cao Minh Thạnh, thân mẫu là bà Tào Thị Súc, gia đình có 6 trai và hai gái. Người em gái thứ chín của ông là Cao Thoại Khiết tức Cửu Nương Diêu Trì Cung ( xem Công Đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật).
Ông Phát theo Đạo qua đàn Minh Thiện ( Thủ Dầu Một) của bác sĩ Trương Kế An tức Bảo Y quân Toà Thánh Tây Ninh.
Năm 1941 ông là chủ tịch Cao Đài Mười Hai Phái thống nhất ở Hậu Giang. Năm 1945, ông được bầu làm chủ tịch Cao Đài Mười Một phái hiệp nhất ( không có Toà Thánh TN) tại chùa Minh Tân. Ông lập Thanh Niên Đạo Đức Đoàn tại đây.
Năm 1947 ông được bầu làm Hội Trưởng Cao Đài Cứu quốc Mười một phái hiệp nhứt. Sau hiệp định Genève ( 1954), gia đình ông tập kết ra Bắc. Tháng 1 năm 1955, ông đảm nhiệm vai trò anh cả toàn Đạo miền Bắc, thành lập Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai phái hiệp nhất.

" Bài tứ tuyệt trên hiện rõ sự mầu nhiệm của cơ bút. Nếu đọc khoán thủ ta thấy : Quan Thánh đế Quân giáng và khoán tâm ta lại thấy : Lý Thái Bạch giáng và sau 2 chữ Thánh Đế ta thấy 2 chữ Phật Sắc tức Phật bà Quan Âm. Bài này tiên tri Tam trấn thay mặt Tam giáo dạy đạo kỳ ba.
" Bài song thất lục bát tiên tri, đạo Cao Đài lập trước nhứt ở Tiền Giang rồi Hậu giang và sẽ phân chia 12 chi phái.
Đạo lập quân đội và Hòa Hảo lập Dân xã Đảng. Sau đó, Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm lừa gạt truất phế. Trãi qua ba cuộc đảo chánh mới lật đổ được Ngô Triều. Đến cuối thế kỷ này : "phản tiền vi hậu" Đức Di Lạc Vương Phật ra đời lập Hội Long Hoa để tuyển ngôi vị Phật, dựng đời Thượng Ngươn Thánh Đức Đức Di Lạc là bậc Minh Vương hiền triết thông kim đạt cổ tạo cảnh thái bình " gia vô bế hệ" Lúc đó, đạo nắm trọn huyền vi vũ trụ và …"Đất, dậy, trời thay xác, Chư Phật, Tiên, Thánh xuống ở trần" .Nhân loại lạc nghiệp âu ca, chung bầu trời : "Đại Đồng Thế giới"
Đây là bài thi độc nhứt vô nhị do Tam Trấn giáng chung. Đức Lý Thái Bạch và Quan Thánh chủ động ban ý tưởng còn Phật Quan Âm chứng đàn.

Dưới thời Pháp thuộc, toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier (1928 - 1934) ra lịnh tiêu diệt đạo mạnh mẽ nhất. Y thi hành một chánh sách cứng rắn và tàn bạo đối với dân chúng thuộc địa. Kiểm soát chặt chẽ giới thợ thuyền, đàn áp các Đảng phái, Đạo Cao Đài cũng chịu chung số phận với đồng bào.
Đầu năm 1934 nhân vía Đức Chí Tôn, viên toàn quyền gởi tặng Toà Thánh cặp đèn cầy thật lớn bảo phải đốt ngay trong giờ cúng đàn. Vì hắn biết lễ vía có chư tín đồ và chức sắc khắp nơi tề tựu về Toà Thánh dâng lễ Đức Chí Tôn. Bên ngoài là thi ấn bố đức tặng đèn, bên trong thật sự đôi đèn là hai trái bom nổ chậm.
Đức Quyền Giáo Tông biết âm mưu của P. Pasquier định giết Ngài trước mắt chúng sanh. Ngài nhớ Đức Chí Tôn dạy : " Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi thầy" nên Ngài quì trước chứng đàn cạnh đôi đèn cầy ( 2 quả bom) mà không sợ sệt âm mưu của P.Pasquier.
Linh hiển thay, hai quả bom được đốt lên, cháy xì khói lan tỏa khắp đàn, chư tín hữu lo sợ nhưng Ngài vẫn qùi và láy mắt ra lịnh việc hành lễ vẫn tiếp tục như không có điều gì xảy ra.
Việc ám sát Đức Quyền Giáo Tông không thành, P.Pasquier ra lịnh cho bọn mật thám Pháp tìm đủ phương cách chụp hình các buổi nhóm họp, các đàn lệ, dịch các tên như Thượng hội ra Thượng Nghị Viện ; Hội Nhơn Sanh ra Hạ Nghị Viện v.v..để chính hắn mang về Pháp quốc báo cáo. Trên chiếc phi cơ về Pháp có cả gia đình hắn. Sấm Trạng Trình đã báo trước : "Lửa đâu mà cháy tám gà trên mây" . Chưa ai rõ nghĩa lý gì, thì báo chí đã loan tin : Phi cơ toàn quyền P.Pasquier ngộ nạn, vợ con hắn đều chết, riêng hắn rơi vào ống khói nhà máy cơ khí Messageries Mcùtallurgiques de France.
Ít lâu sau, P.Pasquier giáng đàn cho biết :
"Oh, Salue Haute Aâme
Vương bá bửu ngôi thị ngục hình
Thiên lao như thủ tắc công khanh
Đồ lưu Pháp phối cầm chơn mạng
Y phục dạy cân thị tử thành
"Ôi nha lại ! cũng vì vui mà làm cho ta bị bịt mắt trái tai - Pierre Pasquier"
Xem thế, quả báo nhãn tiền, lưới trời chẳng lọt mảng lông.
Nhờ đó, đồng đạo mới rõ câu : "Lửa đâu mà cháy tám gà trên mây".
Lửa ở đâu ? thật khó trả lời.
Tám gà do chữ Pasquier phiên âm là bát kê nói đấu lập lờ theo kiểu sấm truyền của Trạng Trình.

Chùa này vốn của Hòa thượng Như Nhãn ở chùa Giác Hải ( Chợ Gạo), nên còn gọi là Hòa thượng Giác Hải, quyên tiền trong bổn Đạo thành lập. Vào tháng 7 năm Bính Dần ( 8-1926) ông tình nguyện dâng chùa.
Lúc bây giờ chùa tuy cất xong, nhưng Đông lang Tây lang chưa có, tráng xi măng chưa rồi, sơn phết chưa lo. Chung quang chùa còn nhiều cây bụi sầm uất. Ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Hương Thanh được lịnh chi tiền lo tất cả mọi việc cho hoàn tất để kịp kỳ khai Đạo .
Đêm hôm đó,vì quá đông người nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Đức Chí Tôn chỉ để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp tà thần nhập vào ông Lê Thế Vĩnh và Vương Thanh Chi con gái của ông Vương Quan Kỳ mà mạo xưng là Tề Thiên Đại Thánh và Quan Âm Bồ Tát . Lúc đầu trong bổn Đạo tưởng thật nhưng sau cử chỉ hung hăng. Người người đều biết là tà quái xuất hiện.
Thấy việc lộng hành như vậy, ông Monet đại uý người Pháp khuyên : "Tôi có lời khuyên các ông, là từ đây trở đi, hễ có cầu cơ thì chớ họp nhau đông đảo vì cần phải thanh tịnh. Mà hễ đông người thì 1 là mất bề thanh tịnh, 2 là tư tưởng bất đồng, không tương ứng nhau được thì không linh nghiệm"
Ba hôm sau, Thầy giáng cơ dạy về việc này như sau :
Thật là Thiên cơ, nếu không xảy ra việc tà thần, hôm đó mật thám Pháp đã chực sẵn, có điều gì quốc sự là bắt ngay. Trong cái rũi có cái may là như vậy. Vả lại việc biến loạn đó, khiến cho kẻ nhẹ dạ, ít tâm thành ngã lòng. Còn hàng chức sắc thì cho ở đó là cơn khảo của tà thần để trau dồi thêm lòng tin tưởng . và cũng là 1 tiếng vang để cho khách bàng quan chú ý theo dõi coi tà giáo hay chánh giáo. Vô hình trung, cơ phổ độ chuyển được thế cờ, xoay hư thành nên. Chỉ ba tháng sau khi mở Đạo tại Từ Lâm Tự mà số người nhập môn lên hàng ức, đủ thành phần, đủ chánh kiến và quốc tịch : Pháp, Cao miên, Hoa kiều …

Nhưng Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng Đức Ngài phải trở về Toà Thánh. Sau khi an táng Đức Cao Thượng Phẩm xong, ( Đức Cao Thượng Phẩm qui ngày 1-3-Kỷ Tỵ) Đức Ngài mới đi Phú Mỹ - Mỹ Tho.
Ngày 27-2-Kỷ Tỵ ( 1929) Đức Ngài đến Khổ hiền trang, chấp bút thì được chỉ dẫn nơi yếm Long tuyền kiếm về phía Tây Nam. Nơi điểm chỉ là một khoản đồng ruộng, có dạng hình núi nức mé bên kia sông, phải đi ghe chừng 5 cây số mới đến. Cánh đồng nước phèn, mọc toàn năng, phía xa xa là rừng đưng và bàng. Đất màu đen chưa trồng lúa được, nên dân cư sống bằng nghề làm đồ gốm, làm lu, hủ, chén v.v..Đức Ngài và các tín hữu Minh Thiện đàn dừng lại trên 1 khoản đất vàng, gò cao và rộng độ chừng dưới 700 thước vuông.
Đức Ngài lại chấp bút, Lỗ Ban giáng và chỉ đào ngang chót núi, sâu xuống chừng 3 tấc tây thì đụng đá. Lỗ Ban cho biết, đó là tháp của 1 trạng Tàu táng thuở cai trị xứ ta. Trạng Tàu biết chỗ này là núi vàng, sợ sau này núi nổi lên thành hình thì nước Việt Nam có trạng và nhân tài sẽ phục nghiệp, nên học quyết chiếm cứ và yếm long tuyền kiếm, công dụng của kiếm là vớt đứt hết nhân tài.
Khi thế chiến thứ nhứt chấm dứt ( 1919) chính phủ Tàu sai 1 người Triều Châu giỏi về bói yếm sang Việt Nam yếm 1 lần nữa ngay nơi cũ. Dân cư quanh vùng , nhất là các vị bô lão thời đó đều kể như vậy.
Lỗ Ban lại cho biết, tại đây có vị thần vàng lãnh mạng nơi Thượng Đế giữ gìn vật báu không cho ai lấy, chỉ dàng riêng cho Trạng Trời đến lấy mà thôi.
Việc đào lên cũng thật vất vã, Đồng thì rộng mà mỗi người chỉ có 1 lưỡi cuốc dàn hàng ngang mà đào. Tưởng chừng như khó tìm thấy. Bỗng nhiên trực giác giúp suy luận thành công, thông thường thì mồ mả ở vùng này đều có nấm ở trên nhưng đặc biệt có một cái mả không có nấm. Vì thế mà Đức Ngài cho đào cái mả đó lên thì được một ống ghẻ trên có một lưỡi dao cứng cắm thẳng xuống trong đó có một con cò sừng màu trắng và 6 đồng tiền kẽm đời Minh Mạng. Đào xuống sâu nữa gặp một hộp bao chỉ dài 9 tấc, Đức Ngài cho biết trong đó có Long tuyền kiếm, nhưng cấm không cho ai xem và gói kín lại.
Đức Ngài dạy đào 1 con kinh từ Trảng Sập băng ngang chót lưỡi Long tuyền kiếm cho bứt. Đó là phép phản yếm để trừ tuyệt sát nhân tài.
Đức Ngài lại nói : "Ngày kỷ niệm nước Việt Nam hưởng được Đạo trời khai sẽ gở nạn ách cho nhân loại. Dân tộc xuất hiện nhiều nhân tài, phá tan xiềng xích lệ thuộc. Dân tộc Việt Nam sẽ không còn bị lệ thuộc nữa" .
Đêm hôm đó, tại Khổ Hiền Trang, Đức Phật Mẫu giáng dạy lập thảo đường .

Đức Hộ Pháp cùng 5 vị chức sắc, khi tới mã đảo bị quản thúc trong trại giam, đến ngày 24-11-1944 mới được thả ra ngoài làm lụng. Khi quân đội Đồng Minh thắng phế trục tướng De Gaulle giải phóng nước Pháp, Đức Ngài mới được đưa về Việt Nam ngày 21-12-1946 .
Những ngày bị lưu đày nơi viễn xứ, Đức Ngài đã được Đức Chí Tôn che chở, an ủi. Một hôm Ngài và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển phò loan được Đức Tiêu Diêu Đạo sĩ giáng cho bài thi :
Chào Thiên Tôn và chư vị Thiên Phong, có Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng đến, để bần tăng triệu Thần Hoàng Bổn Cảnh tới gìn giữ cơ .
Nhàn Aâm Đạo sĩ cười ….bần tăng lấy làm cảm xúc cho chư vị dường này. Hận thay cho giống dã man tàn bạo …..Trung quân là Nam Tinh đó vậy. Nơi ấy là hang ổ của Việt kiều Thời cuộc Á Đông sẽ kết cuộc nơi đó.
THI
Quá hãi đôi phen đến viếng nhau
Ngặt không có bút để lời giao
Aân nhân đợi thuở triều linh địa
Chuyển thế gặp thời phải múa đao
Cõi Á đã thành chủng quốc
Phương Aâu sẽ diệt tận nô lao
Lửa hương đất Việt đầu nhen nhúm
Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu
Ít lâu sau cầu cơ, một vị ( phái nữ) giáng không xưng tên mà cho bài thi sau :
Về sau Vô Danh Thị lại giáng cơ và nhủ : Chào Thiên Tôn và chư vị Đại Thiên Phong. Thiếp vì có mang lịnh đến đây làm bạn bút nghiêng trong lúc chư vị mang lịnh Chí Tôn cho ngơi nghỉ nơi đây, Chí Tôn than rằng : Chức sắc Thiên Phong bên Cửu Trùng Đài thiếu hùng biện văn, tài đặng làm tay quy phục sanh chúng. Vì cớ ấy mà triết Lý đạo khó phổ thông cho toàn thiên hạ
Năm 1944, các tù nhân được tự do ra ngoài, Đức Hộ Pháp với Khai Pháp Trần Duy Nghĩa cầu cơ, Đức Lý giáng phong cho ông Nguyễn Thế Truyền phẩm Bảo Địa Lý Quân, Nguyễn Thế Sang phẩm Bảo Thượng Quân và Ngô Văn Phiến phẩm Bảo Tinh Quân.
Mặt địa cầu ta vốn định chừng . . . (. . .)
Sau khi giải thích cho Nam xa và Việt đảnh thế nào, Vô Danh Thị lại cho thi .
Vô Danh Thị là ai ? Đó là bà Linh Sơn Thánh Mẫu vâng lịnh Thất Nương Diêu Trì Cung đến viếng các Thánh bị nạn. Dù giấu tên nhưng Đức Hộ Pháp biết được, vì chiếc nhẫn nạm ngọc trên tay ngài phát hào quang khi bà thăng, hạt ngọc này của ông Lễ Sanh Võ Văn Đợi tìm được ở Núi Bà tặng cho Ngài. Nên biết ông Đợi là đệ tử Đức Hộ Pháp học tu tịnh đã chứng ngộ và biết trước được nhiều việc nên Ngài đổi tên Đợi ra Võ Linh Đoán cho trụ trì ở Vạn Pháp Cung để rước các thầy tu nửa lỡ vận.
Bị chiến tranh, Núi Điện điêu tàn, một ít chức sắc xin Đức Hộ Pháp cho rước cốt Bà Đen về Đền Thờ Phật Mẫu, Đức Ngài phê : "Bần Đạo vì thạnh tình lúc bị lưu đày, bà thường đến viếng thăm mà thuận cho".

Tay thợ đắp lấp hờn là đạo
Đạo Cao Đài phổ giáo tình thương
Lướt qua bể khổ chiến trường
Gãy cung từ ái, cờ trương hiệp hòa
Sang cuộc chiến thu qua khó định
Từ Thượng Lào đến Vịnh Cam Ranh
Đìu hiu Ngô phải trọi cành
Mới đây sao lại tan tành hỡi ai !
Toàn dân đứng chờ bày phương hướng
Hỏi " chừ, mô" là tướng nhà Nam
Không Nga, không Mỹ không phàm
Ai người chí chánh, cờ tam cứu đời?
Khi được bài thi, các đạo hữu không biết bà Bát Nương dạy điều gì. Mãi đến ngày 1-11-1963 tướng Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu mới rõ cơ mầu nhiệm.
Vế thứ nhứt và hai tiên tri về nước Việt Nam bị phân chia ở sông Bến Hải. Có lắm kẻ theo Ngô Đình Diệm mà đi tưởng là đúng đường. Đạo Cao Đài cho đó là mối hờn dân tộc cần lấp sông bằng cách trương cờ Nhan Uyên mà kêu gọi hai chính quyền Nam Bắc hiệp thương chung sống hòa bình.
Vế 3 : Các cuộc chiến bình định khó thành công. Từ Thượng Lào đến Vịnh Cam Ranh vây cánh Ngô Đình Diệm sẽ trọi cành.
Vế bốn : Dưới sự độc tài gia đình trị của Ngô Triều, dân chúng chờ tướng nhà Nam đứng lên làm cách mạng mà hưởng ứng chớ không phải người ngoại quốc nào khác.
