PHẦN BA

 

THIÊN NHÃN

 

TIẾT 1: BIỂU TƯỢNG  CON MẮT TRÊN THẾ GIỚI
    1. EYE OF HORUS
    2. MẮT NHÌN THẤY TẤT CẢ CỦA THIÊN CHÚA
    (EYE OF PROVIDENCE, THE ALL-SEEING EYE OF GOD)
    3. BIỂU TƯỢNG MẮT TRONG HỘI TAM ĐIỂM (FREEMASONRY)
    4. THIÊN NHÃN LÀ MỘT PHẦN TRONG BIỂU TƯỢNG KHẮC TRÊN QUỐC ẤN  HOA KỲ.

TIẾT 2:  BIỂU TƯỢNG THIÊN NHÃN TRONG ĐẠO CAO ĐÀI
    Ý NGHĨA VIỆC THỜ THIÊN NHÃN
    VÌ SAO CHỌN THỜ THIÊN NHÃN

TIẾT 3:  CHỮ “MỤC” LÀ MẬT NGỮ TU CHƠN
TIẾT 4: Ý NGHĨA CỦA  5 DẠNG THỨC THIÊN NHÃN TRONG ĐỀN THÁNH

 

Thiên Nhãn có nghĩa là "mắt của Trời". Thông thường biểu tượng này tượng trưng cho Thượng Đế toàn năng, thấu rõ tất cả những hành vi của con người. Biểu tượng này tìm thấy ở các nền văn minh phương Tây lẫn phương Đông.

 

 

TIẾT 1: BIỂU TƯỢNG  CON MẮT TRÊN THẾ GIỚI

     1.EYE OF HORUS

Có hai cách giải thích các biểu tượng của mắt. Đầu tiên, một số tin rằng đó là mắt của Ra, CN vị thần mặt trời của Ai Cập cổ đại, cũng là một biểu hiện của thần Amen.  Đó còn được gọi là mắt của Horus.

Horus, con trai của Isis và Osiris,  ban đầu được xem là vị thần Mặt trời, sau này trở thành vị thần bầu trời đại diện cho cả mặt trời và mặt trăng, với mắt phải của ông đại diện cho mặt trời, gọi là Eye of Ra, và mắt bên trái đại diện cho Mặt trăng, được gọi là Eye of Tehuti. Thật thú vị, Tehuti còn được gọi là Thoth, là Thoth Hermes Trismegistus, hoặc được biết đến như Hermes trong tiếng Hy Lạp. Đây là vị thần kiến thức của các ngành khoa học thiêng liêng như thuật giả kim, thiên văn học, ảo thuật, toán học, ngôn ngữ…

 “Mắt thấy tất cả” luôn luôn được biểu hiện bởi mắt trái.

Description: horus

Mắt của Horus

Người cổ đại tin rằng biểu tượng bất diệt này sẽ hỗ trợ việc tái kiếp, vì thế người ta đã tìm thấy biểu tượng này dưới lớp vải liệm thứ 12 của xác ướp vua Tutankhamun.

 

2. MẮT NHÌN THẤY TẤT CẢ CỦA THIÊN CHÚA

 (EYE OF PROVIDENCE, THE ALL-SEEING  EYE OF GOD )

Biểu tượng Thiên Nhãn cũng được tìm thấy ở nhà thờ Aachen, miền Tây nước Đức. Nhà thờ này đã được UNESCO xem như một di sản thế giới. Đây là một nhà thờ thuộc Giáo hội Công giáo Rôma cổ xưa nhất ở Bắc Âu. Từ năm 936 đến năm 1531, nhà thờ là nơi làm lễ đăng quang cho 30 vị vua và 12 hoàng hậu nước Đức. Đây cũng là nơi còn giữ những di vật thiêng liêng của Mẹ Đồng trinh Maria, Chúa Giê-su Thánh John the Baptist.

The Eye of Providence (hoặc Mắt nhìn thấy tất cả của Thiên chúa ) là một biểu tượng hiển thị một mắt thường được bao quanh bởi các tia ánh sáng và thường kèm theo bởi một hình tam giác. Đôi khi nó được hiểu như là đại diện cho mắt của Thiên Chúa xem xét nhân loại (hay Thiên Chúa quan phòng).

Một phiên bản Kitô giáo của Eye of Providence, nhấn mạnh vào hình tam giác tượng trưng cho Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa giáo có một quyển sách tựa là: "Catéchisme Album " (Giáo lý Cương yếu) do nhà xuất bản Saint Joseph ở Paris phát hành, nơi trang đầu tiên có in hình Thiên Nhãn (L'Oeil de Dieu) và chú thích:

 " Dieu est esprit, il ne peut être vu de nos yeux, ni, par conséquent, représenté sur une image. C'est OEIL, vous rappelle que Dieu est le souveraine intelligence, qu'il sait tout et voit tout. On l'encadre le Soleil, car Dieu est le Vrai Soleil qui éclaire et réchauffe tout et porte la vie partout. Dieu est la Lumière Éternelle." 

Tạm dịch :Thượng Đế là Đấng thiêng liêng, đôi mắt trần của chúng ta không thể thấy được Ngài, vì thế, không thể mô tả Ngài bằng một hình ảnh. Thiên Nhãn nầy nhắc cho chúng ta nhớ rằng : Thượng Đế là Đấng Toàn Tri, Ngài biết tất cả và thấy tất cả. Người ta vẽ chung quanh Thiên Nhãn những tia sáng của Mặt Trời, bởi vì Thượng Đế là ngôi Dương chơn thật, soi sáng và sưởi ấm vạn vật và mang đến sự sống khắp nơi. Thượng Đế là Ánh sáng vĩnh cửu. 

Description: 200px-ChristianEyeOfProvidence

 

Tìm hiểu biểu tượng Thiên Nhãn của Đạo Thiên Chúa, chúng ta thấy thuở xưa, ở  Âu châu, người ta vẽ biểu tượng Đức Chúa Trời là một ông già, tướng mạo rất quang minh, tay mặt cầm cây Thập Tự Giá, là tượng cho âm dương; tay trái dơ năm ngón tay tượng cho ngũ hành, con mắt vẽ ngang trái Tim trước ngực để minh chứng THƯỢNG-ĐẾ ngự trong lòng người, bên trái có một cuốn vở và cây viết. Đó là hình ảnh khải thị cho chúng ta.

 

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\DQGT 01 003ok.jpg

 

3. BIỂU TƯỢNG MẮT TRONG HỘI TAM ĐIỂM (FREEMASONRY)

Description: 220px-MasonicEyeOfProvidence

Một phiên bản Tam Điểm ban đầu của Eye of Providence với những đám mây và một nửa vòng tròn. ”Mắt thấy tất cả” là một biểu tượng bao gồm một mắt trong một tam giác. Nó được gọi là mắt Tam điểm của  nhà kiến trúc vĩ đại. 

 

4. THIÊN NHÃN LÀ MỘT PHẦN TRONG BIỂU TƯỢNG KHẮC TRÊN QUỐC ẤN  HOA KỲ.

Năm 1782, Thiên Nhãn được chọn là một phần trong biểu tượng khắc trên Quốc ấn (con dấu quốc gia) của Hoa Kỳ. Trên Quốc ấn, Thiên Nhãn được vẽ phía trên một kim tự tháp có 13 bậc, tượng trưng cho 13 tiểu bang đầu tiên của Mỹ. Toàn bộ biểu tượng ngụ ý Thiên Nhãn hay Thượng Đế ban ân huệ cho một nước Mỹ thịnh vượng. . Đặc biệt là trên mặt sau của tờ giấy bạc 1 đô la của Mỹ cũng có biểu tượng này. Chính việc này làm cho nhiều người biết Thiên Nhãn, bởi vì đồng đô la của Mỹ rất phổ biến trên thế giới.

Description: 220px-Great_Seal_of_United_States

Thiên nhãn trên tờ giấy bạc 1 đô la của Mỹ

 

TIẾT 2: BIỂU TƯỢNG THIÊN NHÃN TRONG ĐẠO CAO ĐÀI

Description: ThienNhan

 

Description: image001

Đạo Cao Đài dùng Thiên Nhãn làm biểu tượng chính, thay cho hình ảnh Thượng Đế tại trần gian. Trong đạo Cao Đài, Thiên Nhãn có nhiều ý nghĩa đặc trưng của nền tôn giáo này. Giáo chủ của đạo Cao Đài là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Đấng vô hình, không mang xác phàm, mở Đạo kỳ ba bằng huyền diệu cơ bút để truyền bá giáo lý của Ngài cho nhơn sanh giác ngộ mà lo tu hành giải thoát hầu trở lại thiên đường cực lạc hay Bạch Ngọc Kinh (hay Niết bàn). Thượng Đế là vô thể, vô danh, là Đại Linh Quang, là ánh sáng chiếu diệu khắp cả càn khôn vũ trụ thế giới muôn loài vạn vật, đức háo sanh vô cùng vô tận, không thể dùng hình tướng, lời nói của thế gian để mô tả được.

Ý NGHĨA VIỆC THỜ THIÊN NHÃN

Lúc mới khai Đạo tại Việt Nam, năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn có dạy như sau: 
“Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng con mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:

Nhãn thị chủ tâm 
Lưỡng quang chủ tể
Quang thị Thần
Thần thị Thiên
Thiên giả Ngã dã.

Tạm dịch:              Con mắt là chủ của tâm
                                 Ánh sáng hai con mắt là chủ tể
                                 Ánh sáng là Thần
                                 Thần là Trời
                                 Trời là Ta đó.

Năm câu mà Đức Chí Tôn dạy về THIÊN NHÃN, có thể được giải thích theo 2 trường hợp : 

- Giải thích theo Đại Thiên địa, Đại Vũ trụ, Đại Linh quang, Đại hồn, Thượng Đế

- Giải thích theo Tiểu Thiên Địa,Tiểu Vũ trụ, Tiểu Linh quang, Tiểu hồn, Tiểu Thượng Đế, con người 

             1. GIẢI THÍCH THEO TIỂU THIÊN ĐỊA  (NGƯỜI)

Con người do Thượng Đế tạo ra, hễ Trời có gì thì con người có nấy, cho nên mới gọi con người là Tiểu Thiên Địa, Tiểu hồn, Tiểu Linh quang. 

Câu 1 : Nhãn thị chủ Tâm : Nhãn ở đây là con mắt của Người, tượng trưng con người. Tâm ở đây là lương tâm của con người, tức là Tiểu hồn, Tiểu Linh quang. Như vậy, con người làm chủ cái Tâm của mình, tức là làm chủ Tiểu Linh quang (Chơn linh) của mình. 

Câu 2 : Lưỡng quang chủ tể : Lưỡng quang ở đây là hai Khí Dương và Âm trong cơ thể con người. Nếu hai Khí nầy điều hòa thì thân thể con người khỏe mạnh; nếu hai  khí không điều hòa thì con người bị đau bịnh,  nếu khí Dương tuyệt thì cơ thể phải chết. Hai khí Âm Dương trong con người là chúa tể, vì nó định được sự sống chết, sự khỏe mạnh hay đau yếu của thân thể con người. 

Câu 3 : Quang thị Thần : Quang ở đây là Tiểu Linh quang, Thần là Linh hồn của con người, tức là Tiểu hồn. Tiểu Linh quang ấy là Tiểu hồn của con người. 

Câu 4 : Thần thị Thiên : Thần là Tiểu hồn, Thiên ở đây là Tiểu Thiên địa, Tiểu Thượng đế. Tiểu hồn ấy là Tiểu Thượng đế. 

Câu 5 : Thiên giả Ngã dã : Thiên là Tiểu Thượng đế, Ngã là ta, là con người. Tiểu Thượng đế ấy là ta vậy. 

            2. GIẢI THÍCH THEO ĐẠI THIÊN ĐỊA  (TRỜI) 

Câu 1 : Nhãn thị chủ Tâm : Nhãn ở đây là Thiên Nhãn tượng trưng Thượng Đế. Tâm ở đây là Tâm của Thượng Đế, tức là Đại Linh quang, Đại hồn. Thượng Đế là chủ của Đại Linh quang. 

Câu 2 : Lưỡng quang chủ tể : Lưỡng quang là Âm quang và Dương quang. Chủ tể là Chúa tể, cai trị tất cả. Bởi vì Dương quang và Âm quang ấy chính là của Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, phối hợp để sanh hóa Càn khôn Vũ trụ và vạn vật. 

Câu 3 : Quang thị Thần : Quang nầy là Đại Linh quang, Thần nầy là Đại hồn. 
Đại Linh quang ấy là Đại hồn của Thượng Đế. 

Câu 4 : Thần thị Thiên : Đại hồn ấy là Trời,Thượng Đế 

Câu 5 : Thiên giả Ngã dã : Thượng Đế ấy là TA vậy. (TA là tiếng tự xưng của Đức Chí Tôn) .

Do đó, thờ Thiên Nhãn chính là thờ Trời, thờ Đấng Thượng đế, thờ Đấng Đại Từ Phụ đã sanh hóa Càn Khôn Vũ Trụ và toàn cả chúng sanh. 

VÌ SAO CHỌN BIỂU TƯỢNG THIÊN NHÃN

" Tại sao Thầy lại biểu các con tạo hình Thiên Nhãn mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các tôn giáo khác ? Thầy vốn là Hư Vô chi Khí, không giống cái chi hết. Các con chớ tạo hình Thầy mà thờ. Trời là Lý, thì Lý ấy rất thông linh bao quát Càn khôn Thế giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như các con. Nên chi, thờ Thiên Nhãn là thờ Thầy." 

Tuy Đức Chí Tôn dạy thờ Thiên Nhãn nhưng Ngài còn dạy đặt một ngọn đèn gọi là Thiên đăng để chiếu rọi vào Thiên Nhãn, tức là Thánh ý Chí Tôn muốn nói đến cái nguồn cội của sự sáng suốt gọi là Ánh Thái cực có từ buổi khai Thiên. Chí Tôn đã phân định Nhứt khí hư vô thành Lưỡng Nghi, phân đôi tiếp thành Tứ tượng, rồi phân tiếp thành Bát Quái.

Bát Quái là tám đẳng hào quang gọi là Bát phẩm chơn hồn:

PHẬT HỒN- TIÊN HỒN- THÁNH HỒN- THẦN HỒN

NHƠN HỒN- CẦM THÚ HỒN- THẢO MỘC HỒN- VẬT CHẤT HỒN.

 Đức Chí Tôn cho hai câu đối:

BÁT PHẨM CHƠN HỒN TẠO THẾ GIỚI, HÓA CHÚNG SANH, VẠN VẬT HỮU HÌNH TÙNG THỬ ĐẠO

QUÁI HÀO BÁC ÁI ĐỊNH CÀN KHÔN, PHÂN ĐẲNG PHÁP, NHỨT THẦN PHI TƯỚNG TRỊ KỲ TÂM

Tám bậc linh hồn gầy nên cõi đời, biến thành chúng sanh là muôn vật  hình dõi theo gương Cơ Tạo.

Ánh sáng trọn lành định an vũ trụ, đặt bày ngôi thứ, do một Đấng vô ảnh phán đoán nơi cõi lòng.

Điểm Linh quang mà Đức Chí Tôn ban cho mỗi con người gọi là Thần Lương Tâm (conscience). Thần Lương tâm vốn vô hình vô ảnh nên nói là Thần phi Tướng. Cặp mắt phàm dưới chân mày của con người duy để nhìn xem vật mà thôi; còn sự hiểu biết để liệu định, phán đoán thì do trí não, tức Thần phi tướng điều khiển. Vì thế, Đức Chí Tôn dạy rằng: Thầy hằng ở bên các con mà nhắc nhở, dìu dắt các con. 

Tóm lại, thờ Thiên Nhãn là tôn chỉ của Đạo Cao Đài,  là côi nguồn của Pháp nên ý nghĩa rất sâu xa huyền bí. Thiên Nhãn đặt trên tran thờ, lại có đèn Thái Cực rọi vào, tức là trạng thái nguồn cội của Đạo. Khi quỳ cúng, người tín đồ nhìn lên để vừa định Thần, vừa noi theo đó mà trau luyện điểm Linh quang của mình mà noi bước theo các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Bà Bát Nương Diêu Trì Cung có cho bài thơ như sau:

Chốn đày đọa chớ nên để hận

Lực sanh sanh làm phấn dồi mình.

Kiếp phù sinh vẻ kiếp xuân xanh,

Bước đọa lạc gây thành kiếp hiển.

Nào tên tuổi nghiệp nghề hữu hiệu

Đã thành hình ra miếng đỉnh chung.

Ấy đều nhờ phép quí Hóa công,

Tạo bằng cấp tài năng dục học.

Học đặng biết hưởng mùi khó nhọc,

Học đặng hay lừa lọc thân danh

Học cho thông phép thưởng, luật hành.

Học cho hiểu tài tình xác tục,

Học đặng sửa nên trong hết đục.

Nước non kia nhờ học mà xinh

Học cho hay làm chủ lấy mình

Học quá giỏi để binh kẻ dở.

                                 (Di liệu của Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu)

Phật Giáo cũng có chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm. Pháp môn này được Đức Phật Thích Ca tâm truyền cho Nhứt Tổ Ma Ha Ca Diếp và được lưu truyền trong thiền học. Pháp môn này là chánh pháp không hai (pháp môn bất nhị) dạy thiền gia sử dụng tạng con mắt, hiệp ánh sáng lưỡng quang đem về mi gian giữa hai chơn mày, rồi hồi quang phản chiếu tức là đem ánh sáng của đôi mắt đó chiếu ngược vào trong tâm nội để quán sát tâm mình. Phật Giáo gọi là minh tâm kiến tánh, là soi sáng tâm trung để tìm thấy Chơn Tánh hay Phật Tánh, hay Thiên Tâm, Chơn Tâm của Đạo Gia.

Cao Đài hay Phật Giáo đều dạy dùng tạng mắt để soi rọi vào tâm . Đức Chí Tôn dạy “ Nhãn thị chủ tâm” là vậy. Trong dân gian cũng thường nói: Trời cao có mắt, để chỉ rằng Ông Trời, tức là Đấng Thượng Đế, nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện ác của khắp chúng sanh. Do đó, trong Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế có câu : 

Càn kiện cao minh,

Vạn loại thiện ác tất kiến.

Nghĩa là : 

Càn là Trời, ngôi Càn mạnh mẽ, cao tột, sáng tỏ, 

Ắt hẳn thấy rõ điều thiện và ác của muôn loài vật.

- Thờ Thiên Nhãn với con mắt mở, để chúng ta luôn luôn nhớ rằng, bất cứ ta làm việc gì, Trời đều thấy rõ, không thể giấu giếm.

- Vẽ MỘT con Mắt để thờ, mà không vẽ 2 con Mắt (một cặp) là bởi vì 1 là số khởi thủy của Càn khôn Vũ trụ và vạn vật (theo Dịch học) : 1 sanh 2, 2 sanh 3, 3 sanh vạn vật. Tức là Nhứt bổn tán Vạn thù, Vạn thù qui Nhứt bổn. Cho nên, số 1 là gốc,  là số Dương, mà Đức Chí Tôn làm Chủ Dương quang. Số 1 cũng chỉ ngôi Thái Cực, là ngôi độc nhứt trong Càn Khôn Vũ trụ. 

- Vẽ Con Mắt bên TRÁI để thờ:  bởi vì bên Trái thuộc về Dương, bên Mặt thuộc về Âm, nên khi vào Thánh Thất quì cúng Đức Chí Tôn, phái Nam quì bên Trái của Đức Chí Tôn; phái Nữ quì bên Mặt của Đức Chí Tôn (Nam tả Nữ hữu). Do đó, Con Mắt Trái tượng trưng Đức Chí Tôn và Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương quang. 

- Thờ Thiên Nhãn có ý nghĩa Đại đồng vì hình Con Mắt không có tánh cách phân biệt chủng tộc. Như chúng ta thấy, Phật giáo vẽ hình Đức Phật Thích Ca với hình dáng là người Ấn độ; Thiên Chúa giáo vẽ hình Đức Chúa Jésus với hình dáng là một người Do Thái; do đó có tánh cách phân biệt về dân tộc, quốc gia, v.v… Vẽ hình Con Mắt mà thờ thì tránh được các sự phân biệt vừa nêu trên.

Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ của toàn nhơn loại. Khi dạy thờ Con Mắt là Đức Chí Tôn muốn cho nhơn loại không còn phân biệt nhau về màu da, sắc tộc mà phải nhìn nhau là anh em một nhà, đều là con của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Tìm hiểu sâu xa hơn nữa, chúng ta biết rằng trong vũ trụ có một sự sáng tột cùng, tự sáng tạo ra hình thể của muôn loài vạn vật gọi là khối Đại Linh Quang, là Trời. Con người là tiểu vũ trụ, trong con người có một sự sống đồng thể với Đại Linh Quang nhưng nhỏ hơn gọi là Tiểu Linh Quang hay linh hồn, chơn linh, cũng còn gọi là tâm hay lương tâm. Tâm con người không hình ảnh nhưng trạng thái của nó thế nào đều hiện ra trong ánh mắt không thể che giấu được. Ngạn ngữ Tây phương nói :" Con mắt là cửa sổ của tâm hồn" cũng đồng nghĩa ấy. Nội tâm con người biểu lộ bên ngoài chủ yếu con mắt. Cái thấy của hai con mắt mới là chính, thấy được mới hiểu biết sáng suốt. Sự hiểu biết sáng suốt là Thần. Nơi con người Thần là Trời. Trời là Ta vậy. (Ta: lời của Đức Chí Tôn nói với người hầu đàn ). Vì vậy thờ biểu tượng Thiên Nhãn là thờ tâm linh mà tâm linh con người là Trời (Tiểu Thiên Địa)

Người tu đoạt pháp, Tinh Khí Thần hiệp nhứt được, có thêm con mắt thứ ba gọi là Thần Nhãn hay Huệ Nhãn. Đó là loại năng khiếu tâm linh thấy được màu sắc, ánh sáng trong thế giới gọi là vô hình đối với con mắt thường. Chủ yếu của khoa bí truyền tinh luyện nầy ở chỗ làm cho yếu tố Thần của con người hiệp được với yếu tố Tinh, Khí. Chỗ chính hiệp nầy cực kỳ khó khăn và nguy hiểm, đòi hỏi con người phải có một đời sống thánh thiện mới thành công được.

Con mắt trái là hình thể hữu vi thuộc về vật chất, Thiên Nhãn là cái lý nhiệm mầu, huyền bí thuộc lãnh vực siêu hình. Đạo Cao Đài mượn hình con mắt trái để thờ lý nhiệm mầu và quyền lực vô hình, sâu kín, ẩn tàng bên trong mọi hình thể vạn loại trong càn khôn vũ trụ nầy, mà người đời thường gọi bằng một tiếng quen thuộc là Trời .

Điều ấy đủ cho chúng ta hiểu được: Thiên Nhãn là biểu tượng của lý nhiệm sâu xa, một sự sáng suốt tột cùng bao trùm cả càn khôn vạn loại, ý nghĩa vượt hẳn hình ảnh con mắt bên trái của con người phàm tục .

 

TIẾT 3:  CHỮ “MỤC” LÀ MẬT NGỮ TU CHƠN-.

1.HƯỜN NGUYÊN CHƠN THẦN GIÚP ĐẮC ĐẠO

Mở Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn hứa sẽ " Huờn nguyên cho chơn thần các con đắc Đạo", “Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập "Tam Kỳ Phổ Độ " này duy Thầy cho "THẦN" hiệp "TINH, KHÍ" đặng hiệp đủ "Tam Bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

"Từ ngày bị bế Đạo luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên Đình mỗi phen đánh tản "Thần" không cho hiệp cùng "Tinh, Khí".
"Thầy đến đặng huờn nguyên chơn thần cho các con đắc Đạo."

Con hiểu"Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.                                      ( TNHT .TG. 25-2-1926 )

Vì vậy thờ Thiên Nhãn có ý nghĩa là sống và tuân theo bí quyết siêu phàm nhập Thánh của Đức Chí Tôn chỉ dạy: Phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật từ ngày Đạo bị bế, thì Luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản THẦN, không cho hiệp cùng TINH, KHÍ. Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo. Con hiểu "Thần cư tại nhãn". Bố trí cho chư Đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên, Phật do yếu nhiệm là tại đó."

Về ý nghĩa của chữ " THẦN" :

- Khi hiến lễ dâng Tam Bửu lên Đức Chí Tôn : Tam Bửu là : Bông, Rượu, Trà, tượng trưng Tinh, Khí, Thần. Tinh là Thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh, Linh hồn. Trong phép Luyện đạo, luyện cho Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Trong trường hợp nầy thì:

- TINH là chất tinh túy của thể xác tạo ra để lưu truyền nòi giống. Phải Luyện Tinh hóa Khí.

- KHÍ là chất bổ dưỡng do chất Tinh biến thành để nhờ máu luân chuyển đem đi nuôi các tế bào của cơ thể cho tươi nhuận, nhứt là nuôi các tế bào não cho thông minh sáng suốt, có đầy đủ sự tốt đẹp. Đó là Luyện Khí hiệp Thần.

-THẦN là Chơn thần của con người. Khi trí não của con người đầy đủ sự thông minh sáng suốt thì phát huệ, tạo được Chơn thần nhẹ nhàng tinh tấn. Nhưng phải Luyện Thần huờn Hư, nghĩa là luyện cho Chơn thần được huyền diệu, có thể xuất nhập thể xác tùy theo ý muốn, để có thể vân du lên các cõi Trời, tiếp xúc với các Đấng thiêng liêng.

Luyện được như vậy, gọi là Luyện Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt, đắc đạo tại thế.
Thế nào là Thần cư tại nhãn và tại sao thờ Thầy là thờ Thiên Nhãn. Đó là cái máy nhiệm mầu của trời đất để tạo Tiên tác Phật do ở tại đôi mắt (song mâu) của con người. Con mắt trái thuộc dương, con mắt phải thuộc âm.

“Luyện thuốc kim đơn rõ nhiệm mầu,
Thành Tiên tác Phật tại song mâu;
Âm dương toàn ẩn cơ tại mục,
Thần khí thông linh tại thượng đầu
.” (ĐTCG)

Trong chữ NHÃN có chữ MỤC. Chữ mục có hai ngang = ở trong gọi là âm dương tương hội, một khuôn ở ngoài gọi là hỗn độn thành hình. Từ khi hỗn độn thành hình thì chia khí âm dương phân ra hai, thanh thăng, trược giáng. Ngang trên gọi là thanh thăng, ngang dưới gọi là trược giáng, mới mở mang vạn vật. Chữ mục mà bớt một ngang dưới là bớt âm thì nên ngôi mặt nhựt , có ẩn lửa hỏa thái dương gọi là thuần dương, kêu là hống, bằng bỏ cái ngang ở dưới cùng sẽ thành mặt nguyệt , có ẩn nước (thủy), thái âm, gọi là thuần âm kêu là diên..

Khi định Thần nhìn sâu vào Thiên  Nhãn, ta thấy con ngươi là tượng cho ngôi Thái Cực, tròng đen là dương,  tròng trắng là âm, hai mí mắt nhắm mở tượng cho âm dương động tịnh. Còn áp dụng trong Thánh Thất thì mỗi khi nhập đàn cúng kinh, chúng ta quì giữa, trước mắt là Thiên Nhãn là ngôi Thần, sau lưng ta là bàn thờ Hộ Pháp là ngôi Khí, còn ta quì ở giữa là ngôi Tinh. Vậy muốn Tinh  hiệp một với Thần thì phải biết cách luyện Tinh hóa Khí,

Trong chữ “NHÃN”    hàm chứa chữ “MỤC” ().

 Chữ “MỤC” () cũng nằm  trong chữ “ĐẠO” .

2.BÁT QUÁI TRONG MẮT NGƯỜI

 Theo tác giả Trần văn Rạng, trong “Trung Y nhãn khoa học giải nghĩa”, mắt con người được chia thành 8 khuếch. Mỗi khuếch là một vùng tượng trưng cho một quẻ (con số dưới đây tương ứng với số trong con mắt trên hình).

 

Description: tuyenn1

 1.   Thiên khuếch: Gồm lòng trắng ở hai bên phải trái của lòng đen, thuộc phổi, tượng CÀN.

2.   Địa khuếch: Gồm mi trên và mi dưới thuộc tỳ và bao tử tượng KHÔN.

3.   Thuỷ khuếch: Gồm đồng tử thuộc thận tượng KHẢM.

4.   Hoả khuếch: Gồm hai khoé mắt thuộc tim và mạng môn thuộc LY.

5.   Lôi khuếch: Gồm lòng trắng phía trên lòng đen thuộc ruột non, tượng CHẤN.

6.   Sơn khuếch: Gồm vòng giáp đồng tử và lòng đen thuộc mật tượng CẤN.

7.   Phong khuếch: Lòng đen thuộc gan, tượng TỐN.

8.   Trạch khuếch: Lòng trắng phía dưới lòng đen, thuộc bàng quan tượng Đoài.

Đối với ngũ tạng (ngũ hành), mặt chia thành 5 vùng hợp với các điều trên. Mi mắt thuộc Tỳ - Thổ; hai khoé mắt thuộc Tâm - Hoả; lòng trắng thuộc Phế - Kim; lòng đen thuộc Can - Mộc; đồng tử thuộc Thận - Thuỷ.

Thái Cực tương đương với đơn điền (dưới rốn ba thốn) là trọng tâm sanh mạng, nơi hội tụ năng lượng và chuyển hóa. Luồng khí năng lượng ấy, hành giả luyện khí gọi là đơn (thuốc).


TIẾT 4: NĂM DẠNG THỨC THỜ THIÊN NHÃN NƠI ĐỀN THÁNH

Ngoài Thiên Nhãn đặt trên Quả Càn Khôn còn nhiều dạng Thiên-Nhãn chung quanh Đền Thánh và các nơi khác

Chung quanh các cửa sổ Đền-Thánh có tất cả 23 khuôn bông sen có hình “Thiên Nhãn” phần trang-trí này 2 mặt nên có đến (23 x 2) 46 Thiên Nhãn.

-  46 Thiên-Nhãn Thầy hiệp với:

-   1 Thiên-Nhãn nơi Quả Càn Khôn.

-   1 Thiên Nhãn nơi Cung Đạo.

-   1 Thiên Nhãn trên Phi Tưởng Đài trước Đền.

-   1 Thiên-Nhãn ở phía trong của Thông-Thiên-Đài

Cộng là 50 Thiên Nhãn

Theo Nguyên Thủy, tác giả quyển Thiên Nhãn Thầy, các hình Thiên nhãn này mang ý nghĩa khác nhau.

 

1-THIÊN NHÃN NƠI PHI TƯỞNG ĐÀI: TRẤN THẦN TRƯỚC NHẤT

Thiên Nhãn này (35 tia) được làm Lễ trấn Thần vào ngày 6 tháng giêng năm Đinh-Hợi. Đức Hộ-Pháp ra lịnh thiết lễ trấn Thần Đền Thánh. Ngài dạy bên Lễ-viện để nước Cúng giờ Mẹo nơi Báo-Ân-Từ làm phép trấn Thần. (vì Quả Càn Khôn lúc ấy còn để tạm nơi Báo-Ân-Từ).

Đúng giờ Mẹo, ngày 6-Giêng-Đinh Hợi, Đức Hộ Pháp mặc Tiểu-phục, dạy Thừa-sử Huỳnh-Hữu-Lợi và Truyền Trạng Phạm-Ngọc-Trấn theo Đức Ngài qua Báo Ân-Từ, vào Bửu Điện, Đức Hộ-Pháp  làm lễ  xong,  dùng nước Âm Dương cúng giờ Mẹo nơi đây hành pháp, xin Cam-Lồ-Thuỷ và một nhành dương giao cho  Huỳnh-Hữu Lợi. Đức Hộ Pháp lấy ba bó hương hành pháp xong thì giao cho Truyền-Trạng TRẤN cầm.

 

Description: F:\27-3-2005 HINH TOA THANH TAY NINH VA TRI HUE\2004_11_28 Toa Thanh Tay Ninh\VVT0011.JPG

 

Đức Hộ-Pháp đi thẳng ra Đền-Thánh lúc 9g 25ph. Ngài đứng trước Đền-Thánh và ngó ngay Thiên-Nhãn Thầy trước Phi-Tưởng-Đài rải Cam-Lồ-Thuỷ và cầm bó hương làm phép trấn Thần. Ngài giải thích ý-nghĩa là:

“Kể từ đây Đức Chí-Tôn hằng để mắt dìu-dắt con cái của Ngài và mong mỏi được vui thấy con cái của Ngài về chầu Ngài, sau khi làm nhiệm vụ Thiêng liêng của Ngài phú thác.”  (Thánh Tượng  nơi đây được Trấn Thần trước nhất).

 

2- THIÊN NHÃN TRÊN QUẢ CÀN KHÔN

Chính nơi Quả Càn Khôn, Thiên Nhãn không có tia hào quang nào cả, vì đây là ngôi “Thái Cực Thánh Hoàng” nhưng trên ấy có đủ 3072 ngôi sao. Cộng các số này lại với nhau sẽ là 12= (3+0+7+2). Số 12 là Số riêng của Thầy.

 

 

Description: F:\TOA THANH TAY NINH- KIM LIEN- KIEN TRUC TOA THANH\DSCF0012.jpg

 

 

3- CÁC THIÊN NHÃN CHUNG QUANH ĐỀN THÁNH:

Đức Hộ-Pháp đã trấn Thần và  giải thích về các Thiên Nhãn chung quanh Đền Thánh như sau: “Thiên-Nhãn ngó ra ngoài Đền thì để cho Thiện Nam Tín nữ quì ở ngoài sân lạy vào, còn Thiên Nhãn ngó vào Đền vì người Đạo quì ngang sợ ô-uế, không thể coi sóc cho tinh khiết được. Và từ đây dù ở chân trời góc bể nào mà nhân sanh biết hướng về Toà Thánh Cầu nguyện cũng sẽ được hồng ân của Đức Chí Tôn chiếu giám”.

 

Description: F:\27-3-2005 HINH TOA THANH TAY NINH VA TRI HUE\chon them\DSCF9991.JPG

 

 Thiên nhãn Thầy trên các khung cửa sổ Đền thánh

Hai mặt trên và dưới khung là hai bụi Sen đối nhau, có đủ hoa, lá, bông, trái và ngó sen, sắp xếp thật mỹ thuật với các con số nói lên đầy đủ ý nghĩa của đạo pháp.

- Chính giữa khung là Thiên Nhãn Thầy tức là “Con Mắt Trời” đặt trong một tam giác đều, tam giác tượng trưng cho Tam giáo (1)

-Trong khung cửa sổ có hai bụi sen đối xứng nhau trên dưới(2)

-Mỗi bụi sen có hai trái, hiệp lại thành 4 trái sen (4)

-Mỗi bụi bốn lá sen: tổng cộng trên dưới có 8 lá  (8)

 -Khung chữ nhựt đứng, được xén bốn góc thành hình bát giác. (8)

-Từ mỗi bụi sen có ba bông sen nở : trên 3 dưới 3 thành 6 bông. Hai bên sườn của khung mỗi bên có hai bông búp  hiệp  lại là  4 búp  sen. Vậy có thể coi tất cả  có  10  bông sen. (10)

- Toàn bộ có 12 ngó sen trắng quay về nhau.

-Từ Thiên Nhãn này toả ra 16 tia hào quang sáng chói: trên là 9 tia, dưới là 7 tia.

 Tính từ đường thẳng ngang đếm lên là 9 tia, tượng trưng 9 từng Trời, gọi là Cửu Thiên Khai hoá.

Phía dưới có 7 tia tượng trưng Thất tình: HỈ,NỘ, ÁI, Ố, AI, LẠC, DỤC. Nếu không biết tu tâm dưỡng tánh để cho Thất tình dấy loạn  thì con người  say đắm hồng trần,và phải chịu trong vòng luân hồi sanh tử. Đạo Cao-Đài chủ trương chế ngự Thất Tình. Con người phải nương theo Cửu Thiên Khai Hoá mà tu hành về hiệp với trời.  Nay Đức Chí-Tôn mở Đạo là dạy người tu biến Thất tình thành Thất bửu, hầu được siêu phàm nhập Thánh  tránh khỏi  đoạ luân hồi chuyển kiếp .

 Thánh ngôn Thầy dạy sau đây đã giải trọn vẹn những yếu lý về khung cửa trang trí Sen này:

 “Thầy đã nói với các con rằng:Khi chưa có chi trong Càn Khôn thế giới thì Khí Hư vô sanh ra có một Thầy và  Ngôi của Thầy là Thái cực  (Mắt trời)

- Thầy phân Thái cực ra Lưỡng nghi  (hai bụi sen)

- Lưỡng nghi phân ra Tứ Tượng  (4 trái sen)

- Tứ tượng biến ra  Bát Quái  (8 lá sen)

- Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh” 

4.THIÊN NHÃN ĐẶT BÊN TRONG THÔNG THIÊN ĐÀI: đây là  nơi Giáo Tông đến đây cầu hỏi thiêng liêng, thông công cùng các Đấng vô hình để hỏi về đạo pháp.  (Bàn thờ Thánh Tượng Đức Chí Tôn bên trong Thông Thiên Đài)

5. THIÊN NHÃN THỜ TẠI NHÀ RIÊNG:

Hội Thánh dạy người Đạo sắp đặt Thiên Bàn thờ cúng Đức Chí Tôn theo hình chữ "Chủ" với 12 phẩm vật tượng trưng cho Thập Nhị Khai Thiên là Đức Chí Tôn, Chúa Tễ cả Càn Khôn Thế Giới như dưới dây:

 

Description: http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/tbtttg_1.jpg

1. Thánh Tượng Thiên Nhãn hoặc Thiên nhãn Ngũ chi.( hình ở tiết 2)
2. Đèn Thái Cực.
3.Trái Cây.
4. Bông.
5. Nước trà (để bên hửu ấy là Âm).
6 -  7 - 8. Ba ly rượu
9. Nước trắng (để bên tả ấy là Dương).
10 và 12 Hai cây đèn.
11. Lư hương.

Thiên Bàn tượng trưng cho cả Càn Khôn Thế Giới do Đức Chí Tôn làm chủ. Nay Ngài đến lập Tam Kỳ Phổ Độ, chính mình Ngài làm Giáo Chủ mà độ dẫn chúng sanh khỏi kiếp luân hồi quả báo, nên người Tín đồ Đạo Cao Đài chỉ lập bàn thờ để thờ Đức Cao Đài là đủ, không còn lập bàn thờ thờ các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật riêng .

Khi sắp đặt phẩm vật trên Thiên Bàn phải cho thật ngay ngắn. Nếu sắp không ngay thì trật nét chữ. Trật một nét thì không chánh đáng, có hại cho đức tin của người thờ cúng (theo tác giả Thượng Lý Thanh).

Tiếp theo >

Top of Page

      HOME