|
Nếu Đạo Trời không sớm mở lần ba, nền phong hóa mối cang thường sau nầy phải vì đó mà hư hoại.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế vì đức háo sanh, không nở ngồi xem nhơn sanh sa vào nơi tội lỗi, nên dụng huyền diệu tiên thiên giáng cơ giáo Đạo hơn một năm trường tỏ vẻ biết bao nhiêu lời châu tiếng ngọc. E dụng văn từ cao xa người thường không rõ lý, rồi ra dạy cũng như không, nên Đấng Chí Tôn tiện dùng quốc âm cho dễ hiểu.
Chư Đạo Hữu nhập môn trong thời kỳ ngưng cơ bút nầy, không đặng hữu hạnh mà nghe đến lời vàng tiếng ngọc của Đức Đại Từ bi. Nay Hội Thánh nhơn công trích lục những Thánh Ngôn nào giáng cơ dạy Đạo, rồi in làm hai bổn để truyền bá ra cho mọi người thông hiểu. Thiết tưởng trong Đạo Hữu, dầu xưa dầu mới, ai có đạo tâm mà tiếp được Thánh Ngôn này lại không hết dạ hoan nghinh.
Vậy xin chư Đạo hữu, chư thiện nam,tín nữ, khi thỉnh được Thánh Ngôn rồi, khá hết lòng trân trọng, vì là vật vô giá bửu, lại là lời châu ngọc của Phật Trời. Cơn nhàn rảnh nên lưu tâm đọc đến, trước là rõ thông mối Đạo nhiệm mầu, sau để trau dồi đức hạnh cùng bố hóa cho gia thân mình.
Nhà nào có Thánh Ngôn tức là nhà đó treo được một ngọn đèn thiêng liêng tỏ rạng. Khá biết cho.
Hội Thánh Cẩn Từ
Tựa của mỗi bài, các tiết mục, lời giới thiệu, chú thích do người chép dựa vào nội dung đặt ra cho tiện việc tra cứu.
Thứ tự các câu, đoạn Thánh giáo, các bài được sắp xếp lại thành từng chương theo chủ đề chánh cho dễ hiểu.
" Khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới thì khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh.
Các con đủ hiểu rằng :
Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận.
Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy."
2/- Âm quang là nơi Thần linh học gọi Trường Đình, là nơi của chư hồn giải thể hay nhập thể.
Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là " Tịnh Tâm Xá". Nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét mình coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội. Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình."
3/- Âm quang là nơi để các chơn hồn giải thần định trí.
"Vậy thì nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm Quang, nghĩa là Âm Cảnh hay là Địa Ngục, Diêm Đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu. Vậy thì chính lời nhiều Tôn Giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn, vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm Quang, đặng sửa chữ Phong Đô Địa Phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn Hồn giải thân định trí (một nơi trung gian giữa Thiên Đường và Địa Ngục hay là mờ mờ mịt mịt). Ấy là một cái quan ải, các chơn hồn khi qui Thiên, phải đi ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các chơn hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy.
Em nói thiệt rằng, mấy anh hiểu thấu, thì kinh khủng chẳng cùng. Nếu để cho chơn thần ô trược thì khó mong trở lại cõi thiêng liêng và về cùng Thầy đặng.
Em biết đặng nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng.
Nói cho cùng nếu trọn kiếp dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi thì cũng lánh xa khỏi cửa âm quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối, hay là đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.
Ôi ! Tuy vân, hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy, đó là mấy em đạo hữu, tín đồ bị thất thệ. Em trông thấy bắt đau lòng, phái nữ lại là phần đông hơn hết.
Thất Nương ở đó đặng dạy dỗ nâng đỡ các chơn hồn dầu sa đọa luân hồi cũng có người giúp đỡ.
TNHT- QII. Tr 83 -84-89-90.
" Cả kiếp luân hồi thay đổi, từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Đứng bực Đế vương nơi trái địa cầu nầy * chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy, cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới đệ nhứt cầu, Tam Thiên Thế Giới, qua khỏi Tam Thiên Thế Giới thì mới đến Tứ Đại Bộ Châu, qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên, vào Tam Thập Lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh, là nơi Đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.
Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên Vị.
~~~~~~~~~~~~
Theo triết họcCao Đài giáo hành tinh con người đang sống là địa cầu 68
Đức Chí Tôn còn nói rõ về sự giả tướng như sau :
"Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, quỉ vương đã khởi phá khuấy chơn Đạo. Đến danh Ta nó còn mượn duy Ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rõ rằngTa đến với huyền diệu nầy, mượn cơ mầu nhiệm, hiệp Tam Thập Lục Động đổi gọi Tam Thập Lục Thiên. Cáctên chư Thần Thánh Tiên Phật bị mạo nhận mà lập nên Tả Đạo." ( TNHT. QI. Tr 40-41 )
Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng ngày xúi biểu nó cắn xé các con; song Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức các con.
Ấy vậy đạo đức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị, lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy."
Nếu kẻ không tu làm đủ phận người, công bình chính trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa thì biêt chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy; nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại càn khôn thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thấy đặng.
Vậy Thầy dặn : Đạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy." ( TNHT. QI . Tr 75-76 )
Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra, thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc Đạo mà có Tinh, Khí không có Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng.
Còn có Thần không có Tinh, Khí thì khó huờn đặng Nhị xác thân.
Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng."
b)- Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh Tiên Phật đặng.
c)- Phải nhẹ hơn không khí. Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn Thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí ra khỏi ngoài càn khôn đặng.
(TNHT.QI.Tr.29-30)
a./ Thành công.
Chơn thần là gì ?
Là nhị xác thân ( périsprit ), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.
Cái Chơn Thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng bất tiêu, bất diệt. Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc Đạo có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du thiên ngoại. Cái Chơn Thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy. ( TNHT. QI. Tr 6 )
b./ Thất bại.
Nếu như các con còn ăn mặn luyện Đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng ?
Như rủi bị huờn, thì đến khi đắc Đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur d'e'lectricité ) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết khôn thì ẩn núp tại thế mà làm một bậc Nhân Tiên thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện Đạo. ( TNHT. QI. Tr 30 )
Lấy lớn mà định nhỏ, xem nhỏ mà tìm lớn, thi hài nầy nhờ hòa khí mà thành hình, thì linh hồn cũng phải tùng theo phép âm dương hòa hiệp mới qui hồi cựu bổn. Linh hồn bởi chữ hòa khí mới có đến, thì tức nhiên phải nương theo hòa khí mới có về.
Tuy pháp bửu của các tôn giáo đã đoạt đặng vẫn nhiều, chớ cơ mầu nhiệm chỉ có chữ hòa là đủ.
Thân thể cho mạnh mẽ tinh vi, đừng để sa đọa vào lục dục thì là thuận cùng trí lự khôn ngoan.
Khí lực cho cường thạnh thanh bai, đừng để đến đỗi mê muội bởi thất tình thì trí lự khôn ngoan thuận theo linh tâm mà nảy nở.
Linh tâm phải định tĩnh từ hòa, đừng để đến đỗi mờ ám bởi tội tình thì thuận với lòng Trời hiển linh tại thế đặng đoạt phép huyền vi.
Thân là Tinh, Lực là Khí, Trí là Thần.
Nói rõ ra thì Tinh là thân thể, Khí là điển lực nghĩa là trí lự, Thần là linh hồn, ba cái báu của mình ngày nào tương đắc, nghĩa là hòa hiệp cùng nhau thì người mới mong đắc Đạo. ( trích diễn văn của Đức Hộ Pháp _ Pháp Chánh Truyền chú giải / ấn bản 1952 / trang 109)
" Khi chấp thủ thì tay tuân theo Chơn Thần nói lại mà viết ra, mường tượng như con đặt để, con hiểu đặng vậy…"
" Ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo càn khôn, tinh thông vạn vật đặng."
Vậy khi nào chấp cơ thì phải đợi lịnh Thầy rồi sẽ thi hành."
b./ Chấp bút.
" Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho Thần con bất định một lát, cho Thần xuất ra nghe Thầy dạy còn tay con tuân theo mà viết. . .Còn việc truyền Thần lấy điển quang thì ai cũng có điển trong mình, nó tiếp điển ngoài rồi Thần nó viết ra, có khi trúng có khi trật".
( TNHT. QI.Tr 6-7)
c./ Nhập xác
" Chơn Thần của các con gặp tà khí thì khó chịu nên xin Thầy xuống điển nhiều đặng ngăn tà mị, một đôi khi phải nhập xác vì điển xuống nhiều. Cũng một lẽ ấy, mà mỗi lần lập thệ đều có nhập xác" ( TNHT. QII. Tr 90 )
" Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp "Tam Kỳ Phổ Độ", quỉ vương đã khởi phá khuấy chơn Đạo. Đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rõ rằng Ta đến với huyền diệu nầy * mượn cơ mầu nhiệm, hiệp Tam Thập Lục Động đổi gọi Tam Thập Lục Thiên. Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên tả Đạo". ( TNHT. QI. Tr 40 - 41 )
~~~~~~~~~~~~~
* huyền diệu nầy chỉ về sự thông công
b./ Lời dạy của Thất Nương Diêu Trì Cung
"… Nhất là về việc Diêu Trì Cung bị mượn danh nơi khác mà dối gạt nhơn sanh. Cái hại ấy vốn chẳng vừa về phần tín ngưỡng. Chớ chi thất tại tà quyền thì có mấy em trừ khử, nhưng tại nơi đồng tử thì mấy em không phương giải nạn cho mấy người mê tín". ( TNHT. QII. Tr 89 )
PHẬT GIÁO
THIÊN CHÚA GIÁO
Các con là chư Phật; chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật". (TNHT. QII. Tr 52 )
"Bởi vậy một chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong càn khôn thế giới, nên chi các con là Thầy, Thầy là các con.
Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Đăng là Chưởng giáo. Nhiên Đăng vốn sanh đời Hiên Viên Huỳnh Đế.
Người gọi Quan Âm là nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân. Từ Hàng lại sanh lúc Phong Thần đời nhà Thương.
Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ; Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ Giáo thì Lão Tử cũng sanh đời nhà Châu.
Người gọi Jésus là Thánh Đạo Chưởng giáo, thì Jésus lại sanh nhằm đời nhà Hớn.
Thầy hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy ?
Khí Hư Vô sanh có một Thầy. Còn mấy Đấng Thầy kể đó ai sanh ? Ấy là Đạo các con nên biết.
Nếu không Thầy thì không có chi trong Càn Khôn Thế Giới nầy; mà nếu không có Hư Vô Chi Khí thì không có Thầy." ( TNHT. QI. Tr 31-32 )
Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.
Thầy lập Phật giáo vừa khi khai Thiên lập Địa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo rồi mới tới Nho giáo. Nay là hạ ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.
Tỉ như lập Tam giáo qui nhứt thì :
Nho là trước.
Lão là giữa.
Thích là chót.
Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy." ( TNHT. QI. Tr 52- 53 )
Tùy theo phong hóa của nhơn loạimà gầy chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành Đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa trước Thấy lại giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà làm ra phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi. Mạt kiếp chốn a tỳ !
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập chánh thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo." ( TNHT. QI. Tr 18 )
Lời tiên ngôn ấy nghĩa là còn nhiều Đạo đương nuôi nấng un đúc tinh thần của con cái Chí Tôn đặng cho ngày Người đến chung hiệp lại một, lời ấy ngày nay đã quả.
Các chuồng chiên thiêng liêng của Chí Tôn là :
Phật Đạo thì có BàLaMôn ( Brahmanisme ), Thích Ca Mâu Ni (Caky Mouni) Pythagore giáo.
Tiên Đạo thì là Lão Tử Giáo, Dương Châu, Mặc Địch, Vạn Pháp, Bàn môn cho tới Thầy pháp, Thầy Phù, Bóng chàng, Đồng cốt.v.v..
Thánh Đạo thì là Thiên Chúa giáo ( Christianisme ) Gia Tô (Catholicisme ) Tin Lành ( Protestantisme ) Hồi Hồi ( Mahometantisme ).
Thần Đạo thì là Trung Huê Phong Thần, Hy Lạp Phong Thần và Ai Cập Phong Thần ( Mythologie Chinoise, Greeque et E'gyptienne ).
Nhơn Đạo thì là Socrate, Esope, Platon..v..v.. ở Hy Lạp, Khổng Phu Tử (Confucianisme ), Mạnh Tử ( Mentius ), Nhị Trình giáo ..v..v chung cộng cùng cả Hớn Phong, Đường Thị, Tấn Tục tại Trung Huê từ trước".
(Trích diễn văn của Đức Hộ Pháp, Pháp Chánh Truyền chú giải. Ấn bản năm 1952. Trang 112 ) .
Dường này, từ đây chư chúng sanh chẳng tu bị đọa A-Tỳ, thì hết lời nói rằng:"Phật Tông vô giáo", mà chối tội nữa. (TNHT, Q. I , 30 - 05-1926)
"Vốn từ Lục Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bật thành; Chánh Pháp bi nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh Giáo, tập riêng pháp luật buộc mối Đạo Thiền.
Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã cho ra nên cam để vậy, làm cho Phật Tông thất chánh có trên 3 ngàn năm nay, Vì Tam Kỳ Phổ Độ, Thiên Địa hoằng khai, nơi "Tây Phương Cực Lạc" và "Ngọc Hư Cung" mặt chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi; tại tông đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.
Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành Đạo . . . Ôi! Thương thay! công có công, mà thưởng chưa hề có thưởng; vì vậy mà Ta rất đau lòng.
TA đến chẳng phải cứu một mình chư Tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, TA đương lo cứu vớt.
Chư tăng, chư chúng san hữu căn, hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ Độ này là lần chót; phải ráng sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trong giả luật. Chư Sơn đắc đạo cùng chăng là do ơi mình hành đạo. Phép hành Đạo Phật Giáo dường như ra sai hết, tương tự như gần biến t"Tả Đạo Bàn Môn". Kỳ truyền đã thất, Chư Sơn chưa hề biết chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào; cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mõi về Tây Phương mà cửa Tây Phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy. . . . . ." (TNHT, Q. I - 5 tháng 6 năm 1926)
Nguyên từ buổi bế Đạo, tuy chánh pháp ra cũ mặc dầu, chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền. Luật lệ tuy cũ chớ Đạo vẫn như nhiên. Do công đức mà đắc Đạo cùng chăng. Nhưng mà có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phácổ, nên tu nhiều mà thành ít . (TNHT. QI. Tr 40)
Chư Tăng, Chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ Độ nầy là lần chót; phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trong giả luật. Chư Sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo…
. Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây Ta cũng cho chư Tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền. Chư Tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa. ( TNHT. QI. Tr 20-22-23-40 )
Le trône le plus précieux du monde est celui du premier de ses disciples.
Cette doctrine, au lieu d'apporter à l'humanité la paix et la concorde, lui apporte la dissension et la guerre.
Voilà pourquoi je viens vous apporter moi-même la paix tant promise.
Le Christ ne revient qu'ensuite.
( TNHT. QI. Tr 23-24 )
2) Sự thất chơn truyền.
Trong 2000 năm vắng mặt Người, các con đã làm gì hữu ích ? Các con truyền bá Đạo Người nhưng chính các con cũng không hiểu chi cả. Các con lại làm sai lạc bản chất tôn chỉ của nền Thánh giáo. Nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh tông đồ.
Chiếc Ngai quí báu nhứt trên thế gian nầy hiện là chiếc ngai của vị đệ nhứt cao đồ của Người.
Giáo lý ấy đáng lẽ phải đem lại hòa bình và tương ái cho loài người, nhưng trái lại nó gây mầm chia rẽ và chiến tranh.
3) Chúa sẽ trở lại với loài người.
Bởi thế nên nay chính Thầy phải đến để đem lại cho các con nền hòa bình đã từng hứa hẹn.
Rồi đây Chúa cứu thế sẽ trở xuống sau.
( TNHT. QI. Tr 130 )
Chấp hai tay lạy là tại sao ?
Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm Dương. Âm Dương hiệp nhứt phát khởi Càn Khôn, sanh sanh hóa hóa tức là Đạo.
Lạy kẻ sống thì hai lạy là tại sao ?
Là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp âm dương mà ra. Ấy là Đạo.
Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao ?
Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Địa.
Lạy Thần, lạy Thánh ba lạy là tại sao ?
Là lạy Đấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Đạo.
Lạy Tiên, lạy Phật chín lạy là tại sao ?
Là lạy chín Đấng Cửu Thiên khai hoá.
Còn lạy Thầy mười hai lạy là tại sao ?
Các con không biết đâu. Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giái; nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số mười hai là số riêng của Thầy".
" Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng " con mắt" mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh.
b./ Phần yếu nhiệm
" Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập " Tam Kỳ Phổ Độ" này duy Thầy cho "Thần" hiệp " Tinh, Khí" đặng hiệp đủ " Tam Bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn Thần cho các con đắc Đạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo, hằng nhớ đến danh Thầy".
c./ Nguyên nhân không đắc pháp.
". . . Phẩm vị Thần, Thành, Tiên, Phật từ ngày bị bế Đạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi song Thiên Đình mỗi phen đánh tản " Thần" không cho hiệp cùng " Tinh - Khí"
( TNHT. QI. Tr 11- 12 )
Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.
Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri, lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ. Các em nhớ à !".
Quan Âm Bồ Tát
( TNHT. QII. Tr. 87 )
Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy.
( TNHT. QII. Tr 62 )
~~~~~~~~~~~~
* Thánh thể thiêng liêng y như hình ảnh của Thầy: chỉ chơn thần cấu tạo bằng khí chất trên đường xuống thế, trước khi nhập vào xác những hình hài nguyên thủy để tạo dựng giống người,Những con người đầu tiên nầy gọi là nguyên nhân.(chú thích của người chép)
LỢI, Thầy cũng đã dành cho các con chung hưởng cùng nhau, mà cũng vì tham, đứa chứa nhiều, đứa chịu đói.
QUYỀN, Thầy cũng ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần,Thánh, Tiên, Phật hầu cho đủ thế kềm thúc lấy nhau đặng giữ vẹn thánh chất yêu sanh của Thầy mà quyền ấy trở nên một cơ thể buộc trói nhơn sanh trong vòng tôi mọi. Ôi ! thảm thay, cái thất vọng của Thầy nên ghê gớm, các con có hiểu vì sao mà cả nhơn sanh gian tham chăng ?
Thì cũng muốn cho nhiều sanh mạng chịu phục dưới quyền thế lợi lộc đó, vậy sự yếu trọng của con người là nạn cơm áo, nắm chặt quyền phân phát cơm áo, thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế nầy lánh khỏi.
Dùng hết mưu chước quỉ quyệt, thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh tranh, đấu đấu, giựt giựt, giành giành, gây nên mối loạn, nhơn loại nghịch lẫn nhau giúp cho phép tà quyền mạnh hơn yếu thiệt mất phép công bình thiêng liêng tạo hóa, cái trường thảm khổ của thế gian cũng do nơi đó mà ra.
Vậy gian tham đã thâm nhập vào lòng thì lòng hết đạo đức.
Tham gian nhập vào nhà, thì nhà không chánh giáo.
Tham gian đã nhập vào nước, thì nước hết chơn trị.
Tham gian đã lộng toàn thế giới thì thế giới hết Thánh Thần.
Thầy không cần nói sự gian tham có thể giục các con lỗi Đạo cùng Thầy mà bị lắm điều tội lỗi.
Ấy vậy gian tham là trọng tội.
( TNHT. QII. Tr. 63-64 )
Các vật thực vào tỳ vị lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Nó có thể huờn ra nhơn hình, mới co sanh sanh, tử tử của kiếp nhơn loại, vì vậy mà một giọt máu là một khối chơn linh.
Vậy phải gìn giữ giới cấm ấy cho lắm.
( TNHT. QI. Tr 33-34 )
Trước Thầy nói vì cớ nào rượu làm hại thân thể con người về phần xác.
Hình chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống, như rượu uống vào tỳ vị nó chạy vào ngũ tạng lục phủ đủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị nó xâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ mà nhuận huyết tinh sạch cho được. Trược huyết ấy thối lại cùng trong thân thể để vật chất ô trược vào trong sanh vật. Mỗi khối ấy ăn nhằm phải bịnh, một ngày thêm một chút, hết cường tráng, cốt tủy lần lần phải chết, thì thân thể các con phải bị chết theo. Nhiều kẻ phải bị chết nửa thân mình, vì rượu nên ra đến đỗi.
Vậy Thầy cấm các con uống rượu nghe à !
( TNHT. QI. Tr 84-85 )
Đấng Chơn Linh ấy vốn vô tư mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Đấng trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa phán xét, bởi vậy nên một mảy không qua , dữ lành đều có trả, lại nữa các Chơn Linh ấy tánh Thánh nơi mình đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn lương tâm là đó.
Bởi vậy chư Hiền, chư Thánh nho nói rằng :
" Khi Nhơn tức khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên, khi Thiên đắc tội (*) hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dã (**)".
~~~~~~~~~~~~
* Lời nầy viết theo bản chép tay của Bà Đầu sư Hương Hiếu.
.
** Khi người tức khi tâm, khi tâm tức khi Trời, mắc tội với trời thì không thể cầu xin vậy
Thầy đã nói Chơn Linh ấy đem nạp vào Tòa phán xét từ lời nói của các con, dầu những lời nói ấy không thiệt hành mặc dầu, chớ tội hình cũng đồng một thể.
Các con khá nhớ !
( TNHT. QII. Tr 64 )
Thầy đã nói Ngũ Chi Đại Đạo bị qui phàm là vì khi trước Thầy giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa.
Lại nữa Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giới, Lục Thập Bát Địa Cầu, Thập Điện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại. Thầy đã nói sở dụng thiêng liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa. Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Thầy lại chọn Thập Nhị Thời Quân chia ra làm ba :
Lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.
Lo về phần Đạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng.
Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Đạo. Thầy cho các con biết trước rằng : Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt.
( TNHT. QI. Tr 98-99-100 )
~~~~~~~~~~~~~
* Bảo là giữ gìn ; Hiến là dâng ; Khai là mở ( bày ra ) ; Tiếp là rước.
* * Ông Cao Đức trọng đắc phong Tiếp Đạo sau hết
CHƯỞNG PHÁP của ba phái là Đạo, Nho, Thích. Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vốn coi như một. Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là nơi Đầu Sư dâng lên. Như hai đàng chẳng thuận thì chúng nó phải dâng lên cho Hộ Pháp đến "Hiệp Thiên Đài" cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ý mà lập luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Như thảng có " Kinh Luật" chi làm hại phong hóa, thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản. Buộc cả tín đồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con ráng xúm nhau vùa giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng. Ba ấn phải có đủ trên mỗi luật, mới đặng thi hành. Chư Môn Đệ tuân mạng !
ĐẦU SƯ có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư môn đệ. Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy, phải xem xét một cách nghiêm nhặt, coi phải có ích cho nhơn sanh chăng. Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.
Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy. Như thảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh, thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ.
Thầy khuyên các con phải thương yêu và giúp đỡ lấy nó. Thầy lại dặn các con : như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.
Ba chi tuy khác, chớ quyền luật như nhau. Như luật lệ nào Giáo tông đã truyền dạy, mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông, Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại. Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành nghe à ! Chư Môn Đệ tuân mạng !
PHỐI SƯ mỗi phái là 12 người, cộng là 36 người ; trong 36 vị ấy có ba vị Chánh Phối Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Đầu Sư mà hành sự ; song chẳng đặng quyền cầu phá luật lệ, nghe à ! Chư Môn Đệ tuân mạng !
GIÁO SƯ có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo sư là người để dạy dỗ chư môn đệ trong đường Đạo với đường Đời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con nhu anh ruột lo cho em. Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín đồ, chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.
Như tại Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Đầu Sư và Phối sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi môn đệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ ! nghe à !… Chư Môn Đệ tuân mạng !
GIÁO HỮU là người để phổ thông chơn đạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Đạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều, mỗi phái là 1000 ; chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép hành lễ khi làm chủ các chùa trong mấy tỉnh nhỏ.
LỄ SANH là người có hạnh, lựa chọn trong chư môn đệ là hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi tín đồ, Thầy dặn các con hiểu rõ rằng Lễ sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh, mới mong bước qua hàng chức sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng, mới đi khỏi ngả ấy mà thôi, nghe à ! Chư Môn Đệ tuân mạng !
- Đầu Sư muốn lên Chưởng pháp thì nhờ ba vị công cử nhau.
- Phối Sư muốn lên Đầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
- Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị kiaxúm nhau công cử.
- Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì nhờ 3000 vị kia xúm nhau công cử.
- Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử .
- Môn đệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả môn đệ xúm nhau công cử.
Kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào thì mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn môn đệ công cử mới đặng, kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi. Chư Môn Đệ tuân mạng !
( TNHT. QI. Tr 62-63-64-65)
Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục cho nữ phái ; nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp.
Nữ phái phải tùng Đầu Sư nữ phái, song tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp. Đầu Sư nữ phái cũng phải chịu công cử theo luật Hội Thánh ban hành, theo luật Hội Thánh phân xử đường Đời và đường Đạo. Đầu Sư nữ phái mặc một Đạo phục y như Đạo phục Đầu Sư nam phái, phải đội một Ni-Kim-Cô như các vải chùa, toàn hàng trắng chín giải, áo có thêu bông sen. Cái Kim- Cô có choàng từ đầu tớùi gót. Đội mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngang đầu tóc có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh-Khí, đi giày vô ưu màu trắng, trên chót có chữ Hương, nghe à !
Phối Sư cũng mặc in như vậy, song không có mão Phương Thiên, áo ba giải nhưng trước ngực có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh- Khí, nghe à !
Giáo Sư mặc áo ba giải, đội Kim-Cô bằng hàng trắng không đi giày.
Giáo Hữu mặc Đạo phục như Giáo Sư, đầu không đội mão mà giắt một bông sen, trên bông sen có Thiên Nhãn Thầy.
Lễ Sanh nữ phái mặc như Giáo Hữu, nhưng choàng ngang trên đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dài, một mí ngắn ; ngay đầu tóc có giắt một bông sen.
( TNHT. QI. Tr 94-95 )
Thái Bạch hằng giận các con rằng : mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ Pháp mà ban hành, thì các con lại còn khi lịnh mà xem rẻ rúng. Vậy thì từ đây hễ có mạng lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ truyền thì các con phải hội đủ nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mà xét nét cho cặn kẻ phân minh, đặng thi hành phận sự.
( TNHT. QII. Tr 81-82 )
* Chú thích của người chép về tổ chức quyền Vạn Linh
Quyền Vạn Linh là quyền lực của ba tổ chức nhân sự
Ba hội nầy nhóm riêng, khi duyệt xét một vấn đề gì, nếu cả ba hội đều đồng ý, thì ý kiến chung ấy mới gọi là quyết nghị của quyền Vạn Linh.
-* Đại Hội Nhơn Sanh :
Gồm đại biểu của tín đồ, chức việc, Bàn Tri Sự chọn theo lối công cử và chứ sắc phẩm Lễ Sanh tham dự.
-* Đại Hội Hội Thánh :
Gồm chưa sắc phẩm Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Chánh Phối Sư, Thập Nhị Thời Quân tham dự.
-* Thượng Hội :
Gồm các chức sắc cao cấp : Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư, Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh tham dự.
( Tóm tắt theo tài liệu Chánh Trị Đạo, Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. HộiThánh xuất bản 1974 )
Vậy cái thưởng và cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh giáo, nhiều khi chư hiền hữu, chư hiền muội không phương thấy lý đặng. Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm, bàn khùng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe !
( TNHT. QII. Tr.77-78 )
Trần là cõi khổ, để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần.
( TNHT. QII. Tr 3 )
Đài Nghiệt cảnh là nơi rọi sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sầu mà đọa đày đời đời kiếp kiếp. Ấy là buổi chung qui của khách trần đó.
( TNHT. QI. Tr.90 )
Sao gọi Đạo ?
Đạo tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo, thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Đạo nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng. . . ( TNHT. QII. Tr 3 )
Nguồn Tiên, Đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay, mà lần vào nơi cực lạc an nhàn, rừng tòng suối lặng dộng thẳm non xanh, để mình vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi ràng buộc ; ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần cam chịu khổ. Đạo Trời mầu nhiệm, khá biết xét mình sau khỏi điều tự hối.
Chúng sanh khá biết cho !
( TNHT. QI. Tr 90 )
(TNHT. QI. Tr 34-35)
Thầy dạy các con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy ; hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay là trỗi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nỗi thì Đạo thành, còn các con ngã thì Đạo suy. Liệu lấy !
Nơi Bạch Ngọc Kinh hơn sáu chục năm trước chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời.
Thầy coi bọn ấy lại còn làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm.
Thầy nói cho các con biết : Dầu một vị Đại La Thiên Đế xuống phàm mà không tu, thì cũng khó trở lại địa vị đặng. Các con nghe à ! ( TNHT. QI. Tr 51 )
Ngôi vị Bạch ngọc Kinh chẳng ưa chứa kẻ hung hăng mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lún đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.
Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình, thì là gần ngôi Tiên, Phật đó.
( TNHT. QI. Tr 49 )
~~~~~~~~~~~~~
* Đức Chí Tôn dạy bài nầy ngày 22/09/1926
** Nó : Chỉ sự luyến ái tà mị ( lời chú của soạn giả )
Ấy vậy nên biết mà răn mình, cái tâm là vật người không thấy được, khá dồi trau nó trước. Nên hiểu kỹ lời, bằng chẳng thấu thì tu có ích chi.
Nhàn Âm Đạo Trưởng ( TNHT. QII. Tr 46-47 )
Than ôi ! Cái nư giận thường làm đổ nát những công sáng tạo đã qua, không biết bao nhiêu vĩ đại.
Thái Thượng Đạo Tổ . (TNHT. QII. Tr 92-93 )
" Tánh kiêu căng tự đại là hang thẳm chôn lấp trọn thân hình, hồn phách đó, nên ghi nhớ mà lập tâm sửa mình"
Quan Thánh Đế Quân. (TNHT. QII. Tr 74 )
Còn gia đình chẳng hòa, thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán.
Còn trong luân lý chẳng hòa, thì dân cư bất mục, nước chẳng hòa thì sanh ly loạn.
Còn cả thế giới bất hòa thì nhơn loại đấu tranh.
Vì vậy Thiếp khuyên các em dĩ hòa vi Tiên.
Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.
(TNHT. QII. Tr 85-86 )
LỜI DAÏY ĐỨC CHÍ TÔN
Các con phải giữ gìn đức hạnh đối với kẻ trên bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung. Nghe các con ! ( TNHT. QI. Tr 102 )
Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi. ( TNHT. QII. Tr 43 )
Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn Khôn Thế Giới. Có thương yêu nhơn loại mới hòa bình, càn khôn mới an tịnh. Đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hóa.
Vậy Thầy cấm các con, từ đây nếu không đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à! ( TNHT. QII. Tr 76 )
Điều Thầy vui hơn hết là muốn cho các con thương yêu giúp lẫn nhau như con một nhà. Phải đồng tâm hiệp chí chia vui sớt nhọc cho nhau, nâng đỡ dìu dắt nhau đem lên con đường đạo đức, tránh khỏi bến trần ai khốn đốn nầy, mà cả muôn triệu sanh linh đã chìm đắm vì mồi phú quí bả vinh hoa.
Thầy trông mong nơi các con, chớ nên vì chuyện nhỏ mọn phàm tục mà bứt hẳn mối tương thân, tương ái thì chẳng phải là đức tánh của kẻ tu hành đó. (TNHT. QII. Tr 27 )
Các con phải biết, hễ là người thì phải biết Đạo ; không biết Đạo không phải là người. Cái chánh cái tà rồi đây sẽ phân biệt nhau. Nếu các con còn để một vài điểm mờ hồ trong dạ thì làm sao chóng đến nơi, đến chốn đặng ? ( TNHT. QI. Tr 80 )
Vậy dầu việc chi cũng khá bền lòng đinh sắt, thì con đường trở gay cách mấy cũng tới chốn được. . .Nếu cứ than khó dừng bước, thì dầu sự dễ cũng không trông thành tựu. Mạng Trời đã định nhưng có sức của các con mới đặng kết quả hoàn toàn. ( TNHT. QI. Tr 103 )
Thầy đã nói cho các con hay trước rằng : Nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy, là cái đời tạm của các con thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy các vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó. ( TNHT. QI. Tr 105 )
Tại sao Thầy muốn cho các con mặc đồ bô vải chăng? Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ Đạo thì biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy. Như sự lãng phí se sua ở đời nầy Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy. ( TNHT. QI. Tr 51 )
Thầy muốn dạy con phải ở và dạy nội gia quyến con cho chánh đáng, phải lấy lòng trong sạch đối đãi với người, dầu việc nhỏ mọn cũng vậy. Hạnh ngay thật là nét yêu dấu của Thầy, con nghe. ( TNHT. QII. Tr 10 )
Bát Nương ( TNHT. QII. Tr 7 )
Vào nơi đạo đức rồi, dầu cho phải cắt ái ly gia, chia tình xẻ nghĩa, máu thịt đoạn ly, mà làm cho tròn trách nhậm xứng đáng của mình, để hiến thân chuộc sanh mạng cho muôn ngàn kẻ đồng bào thì cái đau đớn thường tình, sự khổ tâm ở thế kia, đau khổ nào có tiếc. Ấy là cử chỉ của các bậc Thánh trước, tìm mối chơn đạo như thế, chư đạo hữu nên ghi.
Nhàn Âm Đạo Trưởng
( TNHT. QII. Tr 76 )
Quelle est la valeur de ces titres ?
N'est ce pas suivant la valeur de ceux qui les donnent ?
Donne's par un humain, ils ne sont que trop humais.
Ce qi vient d'un homme n'a rien de résistant.
C'est sujet à détérioration. Ils sont de'truits dès qu'on enlève la vie de celui qui les détient. Cherchez la Noblesse ce'leste, c'est la seule éternelle.
La richesse est l'ensemble de toute préciosité qu'on amasse en ce monde.
Que comprend elle ?
L'or, l'argent, la pourpre, la soierie etc . . .
L'or, l'argent ne sont que simples métaux.
La pourpre n'est que couleur.
La soierie n'est que matière animale.
Prenez vous toutes ces choses en vraies richesses ?
Elles ne sont qu'insignifiantes d'après leur provenance.
Cherchez, vous autres, la richesse en la Vertu de Dieu, c'est la seule que vous aurez éternellement ; nul ne pourra vous la dérober.
La gloire est souvent contre la vertu. Elle est éphémère. Elle provient souvent de la Fourberie. La Gloire de Dieu est la seule qui résiste à toutes épreuves.
( Trung bạch : Mấy con phải làm sao tìm đặng La Noblesse, la Richesse et la Gloire de Dieu ? )
Thầy trả lời : " TU"
(TNHT - Q.I . Tr.76-77)
_ Giá trị của các chức tước ấy ra sao ?
Giá trị những chức tước ấy tùy theo người tạo ra nó.
Việc chi do người đều phàm cả, nó không bền, thường thường bị hư hỏng và tiêu tan ngay sau khi người đã được nó tặng bị cướp mất sự sống. Các con hãy tìm tước phẩm nơi cõi thiêng liêng, tước phẩm ấy mới là vĩnh viễn. Còn tài sản là tổng quát các vật quí giá của con người đã thu nhặt trên thế gian nầy.
_ Của cải ấy gồm những gì ?
Vàng, bạc, hồng, tơ lụa. v..v.
Vàng bạc chỉ là loại kim khí tầm thường.
Hồng là một chất màu.
Còn lụa là chất do loài vật cấu thành ra. Các con xem của ấy là quí giá thật sự sao ?
Xét từ nơi sản xuất các vật ấy, đều không đáng kể. Các con nên tìm sự giàu đức tính của Trời. Chỉ có cách đó mới gọi là vĩnh cửu. Của qúi ấy không ai ăn cướp đặng cả.
Danh vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất ngắn ngủi và thường thành tựu nhờ nơi sự gian trá.
Danh quyền nơi Trời là bền chắc nhứt, và danh quyền ấy mới chịu đựng nỗi bao sự thử thách.
( Trung bạch: Mấy con phải làm sao mà tìm đặng phẩm tước, của cải và danh quyền của Trời ).
Thầy trả lời : " TU"
( TNHT. QI. Tr 136 )