KHỔ HIỀN TRANG

XƯA VÀ NAY

TÙNG THIÊN

TỪ BẠCH HẠC

2016

                                                        

                                               

 

[ download / pdf ]

MỤC LỤC

PHẦN MỘT

LỊCH SỬ THÀNH LẬP THẢO ĐƯỜNG & KHỔ HIỀN TRANG

TIÊT 1: THẢO ĐƯỜNG & KHỔ HIỀN TRANG 

I.                 CƠ ĐẠO SỚM BỊ KHẢO ĐẢO BỞI THỰC DÂN PHÁP

II.               ĐƯỜNG ĐI ĐẾN KHỔ HIỀN TRANG

TIẾT 2. TRUYỀN KỲ LONG TUYỀN KIẾM

I.                    LONG TUYỀN KIẾM

II.                  SỰ TÍCH LONG TUYỀN KIẾM

TIẾT 3 : KHỔ HIỀN TRANG HIỆN NAY

I.                    THÁNH THẤT PHÚ MỸ HIỆN NAY

II.                  THIÊN NHĂN XƯA-Ư NGHĨA

A.      Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao Đài để cứu nhân loại, đem đến xă hội đại đồng

B.      H́nh Thiên nhăn của TT Khổ Hiền Trang giống của Thông- Thiên- Đài TTTN

 PHẦN HAI

CÓ NÊN ĐẬP BỎ DI TÍCH LỊCH SỬ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

TIẾT 1: LIÊN HỆ GIỮA D̉NG THIỀN THẢO ĐƯỜNG & THIỀN PHÁI TRÚC LÂM 

I.                    Ḍng Thiền Thảo Đường 

II.                  Thiền phái Trúc Lâm

III.               Thảo Đường - ḍng thiền phổ độ

TIẾT 2: G̀N GIỮ DI TÍCH KHỔ HIỀN TRANG

Phụ lục

ÍCH LỢI CỦA THIỀN

PHẦN MỘT

LỊCH SỬ THÀNH LẬP THẢO ĐƯỜNG & KHỔ HIỀN TRANG

 

Tên Khổ Hiền Trang có ư nghĩa ǵ?

Khổ: đắng, chỉ sự vất vả, cực nhọc về thể xác hay về tinh thần. 

Hiền: lành, có đức tốt và tài năng. 

Trang: nhà, trại.

Khổ Hiền Trang là cái trại hay cái nhà lớn, lập ra để những người hiền đến ở tu hành.

 

TIÊT1: THẢO ĐƯỜNG & KHỔ HIỀN TRANG 

I.                   CƠ ĐẠO SỚM BỊ KHẢO ĐẢO BỞI THỰC DÂN PHÁP

Trong hai năm 1926-1927, ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ dưới sự d́u dắt của Ơn Trên, nhất là Đức Lư Giáo Tông, đă có đầy đủ các cơ chế Tân luật, Pháp Chánh Truyền, Hội thánh Cửu Trùng Đài, Hội thánh Hiệp Thiên Đài; các phẩm chức sắc cao cấp từ Thời Quân và Đầu sư trở lên đều có đủ người. Nền đạo tuy gặp nhiều khó khăn về tài chánh v́ lo xây cất Đền Thánh, nhưng nhờ có sự đồng tâm hiệp lực của toàn Đạo nên việc xây dựng và phổ độ đều phát triển tốt đẹp.Số người nhập môn càng ngày càng tăng, chứng tỏ Đạo mới hợp ḷng nhân dân. Đạo mừng nhưng Đời lo. Chính quyền Pháp không thể ngăn chặn bắt bớ những người theo Đạo một cách công khai mà chỉ cho lính kín theo dơi trà trộn vào hàng ngũ trong Đạo. Việc truyền giáo và xây dựng Toà Thánh khiến nhiều người có quốc tịch khác nhau t́m đến đến nỗi một tờ báo phải lên tiếng "Một Jérusalem mới (Une Jérusalème nouvelle) có hại cho việc trị an”. (J. CENDRIEUX, Une Jérusalème Nouvelle, Extrême Asie (R1) số 25 (7-1928)

Chính phủ Pháp càng tăng thêm nghi kỵ nên ra lịnh cho ông Nguyễn Phát Trước  (Tư Mắc) dùng bạo lực không cho các vị Đại Thiên Phong ở lại Ṭa Thánh Tây Ninh. Vào tháng 3 năm Mậu Th́n (1928), một nhóm người từ Thủ Đức do ông Tư Mắt tức Nguyễn Phát Trước dẫn về Ṭa Thánh và vu khống Đức Cao Thượng Phẩm làm tiền tín đồ. Họ đuổi Đức Ngài ra khỏi Ṭa Thánh trong 24 giờ, nếu không đi sẽ cột trong rừng mà bắn. Ngài quá uất ức nên mang bịnh phải về Thảo xá Hiền cung (tức Thánh Thất Tây Ninh ngày nay). Đức Ngài làm bài tự thán như sau :

Công tŕnh gầy dựng Thất Tây Ninh, 

Bằng địa sóng xao khiến rập ŕnh

Tà mị phàm rung rinh chất Thánh

Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh

Xưa Ṭa Thánh dập d́u lai văng 

Nay Bửu đ́nh hiu quạnh lụy nh́n

Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu

Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

Đến 11 giờ ngày 1.3. Kỷ Tị (1929), Đức Cao Thượng Phẩm đăng Tiên

 

***Chú thích: Nguyễn Phát Trước tự Tư Mắt mà các tay giang hồ thời bấy giờ quen gọi là anh Tư Đại Ca. Khi ông được tin nhà ông Đốc học Đoàn Văn Bản có đàn cơ thỉnh tiên ông đến xem thực giả. Chính Đàn Cầu Kho này đă thâu nhận ông là môn đệ của Đức Cao Đài (1926). Tính khí ông ngang tàng, là trùm du đăng vùng Sài g̣n - Chợ Lớn, chính quyền Pháp cũng nể v́ ông. Sau khi theo đạo, ông lập Thánh Thất tại nhà ông, trên lầu thờ Thầy, dưới dùng làm nhà ở và tiếp khách. Đạo hữu đến cúng kiến tại Thánh Thất của ông rất đông. Sau khi khai đạo ở G̣ Kén (15-10-Bính Dần) Ông được ân phong Lễ sanh Mắt Mục Thanh (phái Thái). Ông vâng lệnh Ngài Thượng Đầu Sư lập Thánh Thất Trước Lư Minh Đài. Sau này, quyển "Đại Thừa Chơn Giáo" ra đời tại đây (1936).Nghe tin đồn Ngài Cao Quỳnh Cư lạm dụng, ông vốn nóng nảy bồng bột vội về Tây Ninh bạo hành. Hậu quả là sau đó không lâu, ông chết thê thảm. Lúc bấy giờ ở Chợ Lớn các nhà sang trọng dùng đèn Manchon treo giữa nhà nhưng cái bơm hơi chuyền xuống đất, ông lại nằm gần cái bơm hơi này, quấn chăn. Không rơ v́ lẽ nào, cái bơm phát nổ, đèn phựt cháy, ông bị phỏng nặng chết (1929).

Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt t́nh nguyện ở Ṭa Thánh chịu đựng v́ nghĩ rằng Nguyễn Phát Trước không dám bất nghĩa với Ngài.Có lẽ v́ từ 1916, khi c̣n làm Nghị viên Hội Đồng, Ngài đă chỉ đạo cho Nguyễn Phát Trước lập hội kín để phá Khám lớn Sài G̣n, giải phóng các tù chính trị. (Tạp chí Xưa & nay, số 260, tháng 5-2006).

Trước đó, vào năm 1927, Đức Phạm Hộ Pháp cùng với Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, vâng lịnh Đức Phật Mẫu, đến làng Phú Mỹ, quận Châu Thành (Mỹ Tho)t́m mua đất lập nên một trang trại và một Thánh Thất.Thánh Thất PHÚ MỸ lúc đó giao cho Giáo Hữu Thượng Minh Thanh làm chủ.

Trong cơn khảo đảo năm 1928, Đức Hộ Pháp phải đến Thánh Thất Thủ Đức tạm ngụ. Trong thời gian ở đây Ngài làm thầy thuốc trị bịnh rất mát tay.  Ông Giáo Hữu Minh thấy Đức Ngài trị bịnh hay quá mới chở một người cháu kêu ông bằng chú, bị đau tê bại trong 2 năm đi không được, từ Phú Mỹ, Mỹ Tho lên Thủ Đức cho Ngài trị. Đức Ngài truyền điện thế nào mà bệnh nhân tự nhiên cử động, đi tới đi tới đi lui được, rồi lần hồi đi b́nh thường. Đó là ông Đinh Công Trứ. Đức Lư c̣n dạy Đức Hộ Pháp cứu Trứ sau nầy sẽ hữu dụng. Thật vậy, Ông Trứ sau nầy làm Giám Đốc Trường Qui Thiện.

Đức Hộ Pháp sai ông Giáo Hữu Minh xuống ông Ca ở Mỹ Tho để xin phép lập đàn ở Phú Mỹ v́ ông Ca là cựu Đốc Phủ nên xin phép dễ dàng hơn. Ông Ca không nhận mà c̣n trách : "Mỹ Tho là Thánh Thất lớn, Phú Mỹ là Thánh Thất nhỏ, Đức Hộ Pháp xuống Mỹ Tho sao không đến Thánh Thất Mỹ Tho, bộ Mỹ Tho không có chỗ cho Ngài thuyết pháp hay sao mà lại đến Phú Mỹ, rồi nhờ đi xin phép?". Ông Minh ra về và tŕnh lại với Đức Ngài. Đức Ngài buồn lắm,nhưng chẳng biết nói sao. Đêm hôm đó, Ngài suy nghĩ, trằn trọc không ngủ được, trong lúc mơ màng nửa thức, nửa ngủ  Đức Ngài thấy Đức Phật Mẫu cho ba chữ bằng chữ Nho; Đức Ngài lại nghe nói KHỔ HIỀN TRANG. Ngài giật ḿnh liền viết lại ba chữ Nho ấy. Sáng ngày, Đức Ngài đem ba chữ Nho đă viết hỏi mấy vị Thầy Nho là chữ ǵ. Mấy vị ấy nói là ba chữ “KHỔ HIỀN TRANG “. Đức Ngài nhớ lại hồi đêm hôm cũng nghe Đức Phật Mẫu nói bên tai là KHỔ HIỀN TRANG. Vậy là đúng rồi. Mừng quá, Ngài thuật lại chuyện đêm hôm và nói ba chữ Nho đó là của Phật Mẫu đă cho đó. Vậy th́ viết ba chữ này vào tấm bảng lớn, rồi treo ngay trước cổng Thánh Thất để cho mọi người biết Thánh Thất Phú Mỹ giờ đây có tên là Thánh Thất KHỔ HIỀN TRANG.Đức Lư Giáo Tông dạy như sau:

KHỔ thà cam chịu chớ đừng than

HIỀN ngơ cùng nhau mới vẹn toàn.

TRANG điểm ngọc lành cho đáng giá,

Giồi mài chí thiện Thượng Minh Thanh.

 

Năm 1928, Đức Phật Mẫu c̣n dạy các vị nơi đây đi khẩn một lô đất hoang tại làng Phú Mỹ rộng chừng 60 mẫu và khai một con kinh, tại đây dựng lên một ngôi Thảo Đường.

Đức Phật Mẫu cho bài thi kỷ niệm:

THẢO ĐƯỜNG phước địa ngộ tùng hoa,

Lục ức dư niên vũ trụ ḥa.

Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,

Thế đăng Bồng Đảo định âu ca.

 

***Chú thích:

-Thảo Đường, tức là cái am, cái động để tu niệm. Thảo Đường cất trên thửa ruộng thuộc Đồng Tháp Mười trên rạch Láng Cát. Thảo Đường cũng là tên một chùa Phật, một ḍng thiền từ đời Lư Thánh Tông (1054-1072).

-Lục ức dư niên: hơn 60.000 năm

 

II.                ĐƯỜNG ĐI ĐẾN KHỔ HIỀN TRANG                                                   

KHỔ HIỀN TRANG thuộc xă Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.         

-          Theo quốc lộ 1A xe chạy xuống Long An; khi đến ngă ba Phú Mỹ (độ 55 km) th́ quẹo mặt vào tỉnh lộ 866. Cứ chạy thẳng độ 20 km qua khỏi hai cổng chào xă TÂN HỘI ĐÔNG, TÂN H̉A THÀNH. Khi thấy cây cầu PHÚ MỸ lớn trước mặt và bên trái có bảng “đường đê 19 tháng 5” th́ quẹo trái. Đường nhỏ, xe 4 hoặc 7 chỗ vào lọt. Chạy tiếp độ gần 1km gặp một  cầu nhỏ sẽ thấy có 2 ngă, quẹo mặt sẽ gặp mặt tiền Thánh Thất, c̣n quẹo trái sẽ đến cửa sau. Phía trước (Mặt tiền) của Thánh thất có một con kênh chạy dài, tên là kênh Nguyễn văn Tiếp; chạy song song với con kênh ở phía bên kia là Tỉnh lộ 865. Cầu Phú Mỹ bắt ngang kênh Nguyễn văn Tiếp, qua khỏi cầu queo trái là tỉnh lộ 865.

Dưới thời Pháp đô hộ, đường xá và phương tiện giao thông không thuận lợi, thế mà các bậc tiền bối đă khắc phục bao nhiêu khó khăn, lặn lội vào vùng ruộng rẫy heo hút để xây dựng một Thánh Thất đẹp như thế, chúng ta thật cảm phục vô cùng.

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\CỔNG SAU TT KHT.jpg

Cổng sau của Khổ Hiền Trang

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\khổ hiền trang 2.jpg

Mặt tiền Thánh Thất Khổ Hiền Trang xưa

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\ĐTPM  KHT.jpg

Mặt tiền Điện thờ Phật Mẫu xưa

TIẾT 2. TRUYỀN KỲ LONG TUYỀN KIẾM

I.                   LONG TUYỀN KIẾM

Nơi Thảo Đường nầy, Bát Nương báo cho Đức Phạm Hộ Pháp biết người Tàu có trù ếm bằng Long Tuyền Kiếm không cho Việt Nam sản sinh nhân tài.  Nguyên ở sâu dưới đất 300 thước, có một mạch nước ngầm  chạy từ núi Bà Đen  xuống tới làng Phú Mỹ, trổ lên tại Láng Cát ở Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho. Cho nên Láng Cát là một linh huyệt, và vùng Phú Mỹ sẽ sản sinh nhiều nhơn tài cho nước Việt Nam.Các nhà chiêm tinh và phong thủy Tàu biết được điều đó, nên sai người đem Long Tuyền Kiếm sang ếm ngay linh huyệt ấy, để khi có nhơn tài xuất hiện th́ kiếm đó giết chết lúc c̣n trẻ, để nước Việt Nam không c̣n người tài giỏi chống lại người Tàu. Nhưng nghiệp quả của nước Việt Nam đă hết, Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng cơ nói với Đức Phạm Hộ Pháp đi lấy cái ếm Long Tuyền Kiếm.V́ phải lo đám tang của Đức Cao Thượng Phẩm, măi tới ngày đến ngày28-3-Kỷ Tị (1929), Đức Ngài mới trở lại Thánh Thất Khổ Hiền Trang (Mỹ Tho).

Giáo hữu THƯỢNG MINH THANH, cai quản Thánh Thất  Khổ Hiền Trang mời toàn cả bổn đạo các làng Tân Ḥa Thành, Tân Ḥa Đông, Hưng Thạnh Mỹ và Phú Mỹ Đến dự họp dưới quyền chủ tọa của Phạm Hộ Pháp. Trong tinh thần tự nguyện, một phái đoàn đi t́m Long Tuyền Kiếm được thành lập gồm 36 vị chia làm ba toán. Mọi người vào làm lễ Đức Chí Tôn và cầu nguyện cho kết quả t́m kiếm được tốt đẹp. Đức  Phạm Hộ Pháp vâng lệnh Đức Chí Tôn phải thực hiện cho kỳ được luật công bằng, bác ái nên bất chấp mọi hiểm nguy dưới chế độ nô lệ Pháp thuộc, đă hoàn thành sứ mệnh hóa giải phép trấn ếm này.

Đức Phạm Hộ Pháp được chỉ dẫn nơi ếm Long Tuyền Kiếm về phía Tây Nam.Phải đi theo rạch chợ Thầy Yến vô Láng Cát, Tràm Sập độ chừng 5 cây số mới đến. Khi đến địa điểm, đậu ghe lên bờ, đi bộ chừng 700 thước, thấy cánh đồng nước phèn mọc toàn năng và bàng. Đất chưa trồng lúa được, nên dân cư sống bằng nghề làm đồ gốm, lu, hủ, chén... Đức Ngài và các tín hữu Minh Thiện Đàn dừng lại trên một khoảng đất vàng, g̣ cao và rộng độ chừng 700 thước vuông. Đức Ngài được Lỗ Ban sư trưởng chỉ vào ngang chót núi Lan sâu xuống chừng hơn một thước th́ đụng đá.Việc đào thật vất vả. Đồng th́ rộng mà mỗi người chỉ có một cái cuốc, dàn hàng ngang mà đào. Tưởng chừng như khó t́m thấy; bỗng nhiên trực giác giúp suy luận thành công. Thông thường mồ mả ở vùng này đều có nấm ở trên, nhưng đặc biệt có một cái mả không có nấm. Sau khi hội ư với nhau, Đức Ngài cho đào cái mả đó.Đào xuống được 1 thước 3 tấc th́ gặp một phiến đá lớn, khiêng miếng đá ấy lên rồi tiếp tục đào xuống nữa, đào thêm 3 tấc th́ gặp một phiến đá lớn nữa Trên miếng đá nầy có:

-          một h́nh nhân bằng đồng đen cao 1 tấc 8 (ông Nghè)

-          1 lưỡi dao găy cán đặt trên 6 con cờ tướng bằng ngà gồm 1 con Tướng, 2 con Sĩ, 2 con Xe, 1 con chốt,

-          6 đồng tiền kẽm đời vua Minh Mạng.

Khiêng khối đá ấy lên th́ gặp một cái hộp bọc ch́ dài 9 tấc, ngang 3 tấc, dầy 1 tấc 8. Đó là hộp đựng kiếm và bên trong có một đạo linh phù. Đức Ngài cho biết trong đó là Long Tuyền Kiếm, nhưng cấm không cho coi và gói kín lại.

Vừa lấy hộp Long Tuyền Kiếm lên khỏi chỗ ấy th́ ở dưới có một mạch nước phun thẳng lên. Đó là long mạch. Đức Hộ Pháp hành pháp giải khai long mạch và chỉ cho các tín đồ trong đoàn thấy đây là long mạch rất quan trọng, giúp cho dân chúng xung quanh làng có đủ nước dùng.Đức Ngài cho đào con kinh từ Trảng Sập băng ngang chót lưỡi Long Tuyền Kiếm cho bứt. Đó là phép phản ếm trừ tuyệt việc sát nhân tài. Đúng 1 giờ chiều cùng ngày đó về dùng cơm tại nhà ông Lê Văn Trung và về đến Khổ Hiền Trang là 4 giờ.

Vào thời điểm 1929 mà Đức Hộ Pháp thản nhiên tuyên bố:

Ngày kỷ niệm giống Lạc Hồng được hưởng Đạo Trời khai mở, sẽ gỡ nạn ách nhơn loại và ḍng dơi tổ phụ sẽ phục nghiệp. Dân tộc xuất hiện nhiều nhân tài, phá tan xiềng xích, giải ách nô lệ chẳng c̣n lệ thuộc với sắc dân nào nữa. Nếu chậm trễ là do dân tộc Việt Nam không tôn thờ chủ nghĩa của Đức Chí Tôn, không đủ yêu mến nhau, cứ tranh giành phúc lộc măi….

Lời tuyên bố này thể hiện ḷng yêu nước nồng nàn hiếm có, ḷng tự hào dân tộc cao độ và là điều khích lệ lớn lao cho  dân chúng đứng lên giành độc lập trong tay thực dân Pháp.

   

II.                SỰ TÍCH LONG TUYỀN KIẾM

Long: Rồng, mạch nước, chỉ vua. Tuyền: suối. Kiếm: cây kiếm.

Long Tuyền Kiếm là một thanh kiếm rất quí báu của thời xưa, tương truyền rất bén, chém sắt như chém bùn.Lai lịch của thanh kiếm ấy như sau:

Theo sách Thông Chí: Lúc nhà Tấn chưa diệt được nước Ngô, có quan Thiếu Phó Trương Hoa biết xem Thiên văn, thường thấy giữa sao Đẩu và sao Ngưu có luồng khí màu đỏ tía. Các đạo gia đều nói đó là điềm báo nước Ngô đang buổi cường thịnh, chưa đánh được. Riêng Trương Hoa th́ cho lời nói ấy không đúng, nhưng cũng không căi, cứ làm thinh để ư. Đến khi nước Tấn đánh lấy nước Ngô rồi, ông thấy luồng khí ấy lại có vẻ mạnh và sáng hơn trước.Trương Hoa đem việc nầy hỏi Lôi Hoán, một ông quan rất giỏi về Thiên văn thuật số. Lôi Hoán cùng Trương Hoa lên lầu cao quan sát một hồi lâu. Lôi Hoán nói:

- Chỉ giữa hai sao Đẩu và Ngưu mới có luồng khí lạ đó, ấy là cái tinh của bảo kiếm ở Phong Thành xông lên đấy.

Trương Hoa nói:- Quả vậy, nay tôi muốn phiền anh ra làm quan lệnh ở đất ấy rồi ra công t́m kiếm gươm báu.

Lôi Hoán nhận lời. Trương Hoa vận động cho Lôi Hoán đến Phong Thành làm quan lệnh, ban đêm quan sát thấy luồng khí sáng đó phát ra từ nền nhà ngục, nên cho đào xuống, t́m thấy một cái ḥm bằng đá màu nâu nằm sâu dưới ḷng đất hơn bốn trượng. Mở ra, khí sáng lóe lên, bên trong có hai thanh bảo kiếm: một thanh khắc chữ Long Tuyền, một thanh khắc chữ Thái A nơi cán kiếm.Đêm hôm ấy, luồng khí sáng không c̣n hiện ra ở giữa sao Đẩu và sao Ngưu nữa.

Long Tuyền và Thái A là một cặp Âm Dương kiếm, Long Tuyền là cây gươm trống và Thái A là cây gươm mái. Lôi Hoán giữ cây Long Tuyền Kiếm, luôn luôn đeo bên ḿnh, c̣n cây Thái A Kiếm th́ Lôi Hoán dâng lên vua Tấn.

  

 TIẾT 3 : KHỔ HIỀN TRANG HIỆN NAY

 I.                   THÁNH THẤT PHÚ MỸ HIỆN NAY

 Thánh Thất mới cất theo mẫu số 5; bên mặt là Thánh Thất cũ tuy nhỏ nhưng trông khá chắc chắn, cổng có khắc chữ KHỔ HIỀN TRANG; c̣n bên trái là Điện thờ Phật Mẫu cũ có nguy cơ sập đổ. Thánh Thất cũ trông rất đẹp, cổ kính, hai bên có h́nh Thiên Nhăn (12 khuôn h́nh). Thánh Thất mới cất trên nền đắp cao hơn Thánh thất cũ gần 1mét. H́nh Thiên Nhăn từ Thánh Thất cũ được đem qua Thánh Thất mới để thờ. Đây là mẫu Thiên Nhăn lư tưởng, rất có Thần, ngự trên nền mây xanh, không có h́nh các Đấng trong ngũ chi Đại Đạo. Đây là Thánh Thất duy nhất có đắp h́nh Thiên Nhăn theo hai bên hông tường v́ được Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần.

Phía sau Thánh Thất có một ṭa nhà khá lớn, một tầng, có ghi chữ THIÊN PHONG ĐƯỜNG.

 

II.                Ư NGHĨA THỜ THIÊN NHĂN

A.     Đức Chí-Tôn mở đạo Cao Đài để cứu nhân loại, đem đến xă hội đại đồng:

“Nhơn-loại đang bị thống khổ và sẽ lăn vào cảnh tang-thương v́ tinh thần ly-tán nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ xuất hiện đặng phục-hưng Khổng-giáo, áp dụng Nho Tông làm khuôn luật tổ-chức xă-hội cho tận-thiện, tận-mỹ. Các dân tộc sẽ đối đăi nhau như anh em một Cha, ở chung một nhà, cộng hưởng Đại-Đồng hạnh-phúc.Đó là về mặt xă-hội, c̣n mặt Đạo là mặt tinh-thần th́ Đại-Đạo giữ-ǵn tinh-ba giáo-lư nhà Thiền và Lăo giáo đặng độ tận linh-hồn về Thượng-giới.ĐẠI-ĐẠO tiên khởi lập thành tại nước Việt-Nam, nhiên hậu sẽ hoằng khai các miền Đông-Á, qui hợp cả Huỳnh-chủng làm đà sang Bạch-chủng Âu châu d́u-dẫn khắp thiên-hạ trên con đường Cộng-Đồng”.

Biểu tượng của nền Tân Tôn-giáo Cao-Đài này là Thờ Trời bằng THÁNH TƯỢNG THIÊN NHĂN. Biểu tượng này tượng trưng cho Thượng Đế toàn năng, Người  thấu rơ tất cả những hành vi và tư tưởng của con người. Biểu tượng này t́m thấy ở cả các nền văn minh phương Tây lẫn phương Đông.  Đức Chí-Tôn phải chính ḿnh Ngài đến để độ rỗi con cái của Ngài, không những độ toàn cả thế giới về hữu h́nh mà thôi, Ngài c̣n tận độ các vong linh nữa, nhưng làm sao để nhân loại nhận ra h́nh ảnh một người CHA của nhân loại? Ngài lấy biểu tượng là “Con Mắt Trời” tượng trưng cho nền Đạo mới này. “Con Mắt Trời” có nghĩa là Ngài thấy tất cả, nghe tất cả, ghi chép tất cả “Dieu voit tout, Dieu entend tout, Dieu écrit tout” như người Tây phương đă quan niệm về Đức Chúa Trời vậy.

Thờ Thánh Tượng Thiên-Nhăn với Con Mắt mở ra để chúng ta luôn nhớ rằng, bất cứ ta làm điều ǵ, Trời đều thấy rơ, không thể dấu diếm, cũng không điều ǵ ta có thể căi chối được. Đức Chí Tôn dạy:

            “Tại sao Thầy lại biểu các con tạo h́nh Thiên Nhăn mà thờ, không dạy thờ h́nh tượng như các Tôn giáo khác?Thầy vốn là Hư vô chi khí, không giống cái chi hết. Các con chớ tạo h́nh Thầy mà thờ.Trời là LƯ, th́ LƯ ấy rất thông-linh bao quát Càn Khôn Thế Giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo h́nh thể như các con. Nên chi, thờ Thiên Nhăn là thờ Thầy”.

Chủ-nghĩa và Giáo-lư của Đạo Cao-Đài là ĐẠI ĐỒNG: Qui Nguyên Tam-Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi, chọn lọc tinh túy của các Tôn-giáo đă ra đời từ trước đến giờ gom về một mối trở lại nguồn gốc. Đó là thờ Đấng Chúa-tể Càn-Khôn vũ-trụ, là Đấng Cha lành đă hóa sanh muôn loài vạn-vật.Tín đồ Cao-Đài tôn-kính tất cả các vị Giáo-chủ đă lănh lịnh Đức Thượng Đế giáng trần dạy Đạo. Chủ-nghĩa của Cao-Đài là ĐẠI-ĐỒNG, đi từ đại đồng nhân-chủng,đại đồng Tôn-giáo đếnđại đồng xă hội. Như Đức Chí-Tôn đă hứa “Que l’humanité soit une: une comme race, une comme religion, une comme pensée”.

Thời xưa, các vị Giáo chủ giáng trần lập Đạo mang h́nh hài xác thịt: nếu phương Tây th́ lấy h́nh thể người Âu, phương Đông th́ lấy h́nh thể người Á dễ gây chia rẽ... Nguơn hội này Đức Chí-Tôn giáng Cơ khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ dạy thờ Thiên Nhăn tất nhiên Ngài muốn con cái của Ngài cộng yêu hoà ái, hiệp tâm với nhau để đi đến chỗ Đại Đồng Thế giới.

C̣n một điều mầu nhiệm nữa là từ khi các tôn giáo chính bị đời sau sửa đổi giáo lư của các giáo chủ giảng dạy nên thất chơn truyền, tu vẫn hữu công mà không đắc quả. Nhiều người có công luyện Đạo, chỉ biết luyện Tinh hóa Khí mà thôi. “V́ Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm”, mà Thần th́ cư tại Nhăn, cho nên thờ Thiên Nhăn là đem Thần hiệp cùng Tinh - Khí cho đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm "siêu Phàm nhập Thánh”.

B.     H́nh Thiên Nhăn của Thánh thấtKhổ Hiền Trang giống của Thông Thiên Đài

Thiên Nhăn đặt bên trong Thông Thiên Đài, T̉A THÁNH TÂY NINH. Đây là nơi Giáo Tông đến để cầu hỏi thiêng liêng, thông công cùng các Đấng vô h́nh để học hỏi về đạo pháp.

Description: http://www.daotam.info/booksv/DichLyCaoDai/NguyenThuy/thiennhanthay/thiennhanthay-III_files/tntIII/image030.jpg

Bàn thờ Thánh Tượng Thầy bên trong Thông Thiên Đài

 

Từ trong Thiên Nhăn toả ra 16 tia hào quang sáng chói:

-          Tính từ đường thẳng ngang đếm lên là 9 tia, tượng trưng 9 từng Trời, gọi là Cửu Thiên Khai hoá.

-          Phía dưới có 7 tia tượng trưng Thất t́nh, mà  người nào trên trái đất này cũng có. Nếu không biết tu tâm dưỡng tánh để cho Thất t́nh dấy loạn  th́  con người  sẽ  bị lôi cuốn bởi dục vọng nơi cơi trần, phải chịu trong ṿng luân hồi sanh tử.

Xưa, đức Phật Thích ca dạy Tứ diệu đế để giúp thoát khổ. Nay Đức Chí-Tôn mở Đạo là dạy người tu biến Thất t́nh thành Thất bửu, hầu được siêu phàm nhập Thánh  tránh khỏi  đoạ luân hồi chuyển kiếp. Từ trước các Tôn giáo dạy diệt thất t́nh, nhưng Đạo Cao-Đài chủ trương chỉ cần chế ngự được thất t́nh. Nếu được vậy, con người sẽ làm chủ cái Tâm và nương theo Cửu Thiên Khai Hoá mà tu hành, linh hồn hiệp Một cùng với với Thượng Đế.

 

***CHÚ THÍCH:

1.       Thất t́nh ở đây là t́nh cảm, là sự phản ứng tâm lư khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng bên ngoài. Thất t́nh là bảy sự hoạt động, phản ứng tâm lư khác nhau ở góc độ tính chất, h́nh thức mang tính phổ biến ở nơi con người.Đó là : HỈ, NỘ, ÁI, Ố, AI, LẠC, DỤC (mừng, giận, thương, ghét, buồn, vui, muốn)

 

2.       Lời dạy của Ngọc Chánh Phối Sư về vẽ Thiên Nhăn

                   Cửu Trùng Đài                                                                            ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

             Ngọc Chánh Phối Sư                                                                           (Tứ Thập Lục Niên)

                  Số:68-NCPS/VT                                                                              Ṭa-Thánh- Tây-Ninh

          ***            

                                  

                               NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

                                Gởi cho Hiền Hữu Đầu Pḥng-văn Vơ Văn Tịnh.

-          Chiếu vi bằng số: 03/VB/BT phiên hợp bất thường Hội Thánh Cửu-Trùng-Đài Nam- Nữ tại Hậu Điện Đền Thánh ngày 14 tháng 4 năm Tân-Hợi (dl: 8-5-1971) nơi khoản 1 phần nghị sự phái Ngọc toàn Hội chấp thuận kiểu mẫu Thánh Tượng Thiên Nhăn thờ nơi Thánh Thât địa phương do Hiền Hữu vẽ. 

Chơn mày phải vẽ y như Thiên Nhăn trên Quả Càn Khôn Đền Thánh, màu hồng lợt lại một chút và hào quang hiện ra phải trên 9 tia, dưới 7 tia.  

Vậy Hiền Hữu hăy vẽ lại cho châu đáo và vẽ trước 100 bức để trấn thần chung một lần. Thi hành xong đệ tŕnh lên Hội Thánh, để trả lại tiền tổn phí.

Nay Kính.

                                                                          Ṭa Thánh,ngày 21 tháng 4 năm Tân Hợi (dl:15/5/1971)    

                                                                                                           NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

                                                                                                                         (Ấn Kư)

                                                                                                           NGỌC NHƯỢN THANH

 

 

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\ĐTPM KHT XƯA.jpg

Mặt tiền Thánh Thất Khổ Hiền Trang mới, kế bên là Điện thờ  Phật mẫu cũ

 

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\TTKHT XƯA & NAY.jpg

Thánh thất Khổ Hiền Trang  xưa và nay

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\FullSizeRender (4).jpg

Thiên nhăn từ Thánh thất cũ được đem qua thờ ở Thánh thất mới

Description: C:\Users\KIMLIEN\Downloads\IMG_20151205_154644_hdr (1).jpg

Thiên nhăn bên hông tường của Thánh thất cũ

 

____________________________________________________

 

 

PHẦN HAI

CÓ NÊN ĐẬP BỎ DI TÍCH LỊCH SỬ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

 

TIẾT 1: LIÊN HỆ GIỮA D̉NG THIỀN THẢO ĐƯỜNG & THIỀN PHÁI TRÚC LÂM 

 

THẢO ĐƯỜNG phước địa ngộ tùng hoa,

Lục ức dư niên vũ trụ ḥa.

Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,

Thế đăng Bồng Đảo định âu ca.

Chúng ta hiểu Thảo Đường là ngôi nhà tranh để người hiền đến tu tập nhưng Thảo Đường c̣n là tên của ḍng thiền nổi tiếng ở Việt nam từ thế kỷ 10.

1.     Ḍng Thiền Thảo Đường 

Vua Lư Thánh Tông ( 1023 - 1072): Là con trưởng của vua Lư Thái Tông, sinh ngày 25 tháng 2, năm Quư Hợi (1023); mất vào tháng giêng năm Nhâm Tư (1072).

Trong tập Thơ Văn Lư Trần, nhà xuất bản KHXH-Hà Nội, 1977, ghi:

" Là một ông vua anh minh và nhân từ, ông đă có chủ trương sáng suốt như khoan giảm h́nh luật, coi trọng nghề nông, mở mang việc học, chú ư củng cố và tăng cường pḥng thủ đất nước mặt Bắc cũng như mặt Nam, góp phần làm cho xă hội phong kiến triều Lư tiến nhanh đến giai đoạn cực thịnh. Ông là người đầu tiên cho xây dựng văn miếu và mở khoa thi bác học. Sau này Lư Nhân Tông kế thừa và phát triển những thành tích văn hóa đó." 

Vua rất thương yêu dân. Vào lúc "tiết hàn", vua dặn các cai ngục rằng: "Ta yêu con ta cũng như những bậc cha mẹ yêu con cái họ. Trăm họ không biết ǵ nên tự phạm vào h́nh luật, ḷng ta rất xót thương! Cho nên từ nay không cứ tội nặng hay nhẹ, đều nhất luật khoan giảm."            

Về quốc pḥng, dưới triều Thánh Tông, nước ta lập nên các chiến công hiển hách: Bắc thắng Tống, Nam b́nh Chiêm, giữ an bờ cơi. Bấy giờ có các đại công thần tài giỏi, trung chính như Phật tử Lư Đạo Thành, Phật tử Lư Thường Kiệt, Lư Thường Hiến và Phật tử Ỷ Lan Thái phi giúp vua lo việc nước, việc dân.

Thảo Đường là một thiền sư Trung Hoa, thuộc ḍng thiền Vân Môn (một trong năm nhánh thiền phát xuất từ Lục Tổ Huệ Năng). Sư qua truyền pháp ở Chiêm Thành nhằm lúc Lư Thánh Tông phạt Chiêm. Sư bị bắt và bị dẫn theo đoàn tù binh về Việt Nam. Qua trao đổi, vua Lư Thánh Tông thấy thiền sư Thảo Đường là người có đức hạnh, lại tinh thông Phật điển, bèn bái làm thầy. Chính v́ thế, nhà vua đă quyết định phong Thảo Đường làm Quốc sư vào 1069. Đồng thời, nhà vua mời thiền sư đến trụ tŕ tại chùa Khai Quốc, chính là chùa Trấn Quốc ngày nay tại kinh thành Thăng Long.

Bởi thiền học của Quốc sư có những nét mới lạ so với hai thiền phái đương thời là Tỳ ni đa lưu chi và Vô Ngôn Thông nên thiền sư xin phép lập thêm một phái thiền nữa. Lời thỉnh cầu của nhà sư được nhà vua chấp nhận. Từ đó, một thiền phái nữa được thành lập, mở ra ḍng thiền Thảo Đường.  Nhà vua kính trọng thờ Thảo Đường làm thầy, lập nên thiền phái Thảo Đường đậm màu sắc dân tộc Việt, Thánh Tông là Tổ thiền sư thứ hai của ḍng thiền nầy. Về tư tưởng, tính nhập thế của Đạo Phật qua ḍng thiền Thảo Đường được  thể hiện rất rơ nét.

Không phải ngẫu nhiên mà Thiền phái Thảo Đường đời Lý đã xây dựng chùa Một Cột (bên cạnh chùa Diên Hựu) với mái chùa cong vút, chạm hoa sen nghìn cánh, trong đó lại thờ đức Quán Thế Âm.  Việc này được vua Lý Thánh Tông cho xây dựng trên cơ sở giấc mộng của bà mẹ là Hoàng hậu Mai Thị.Nói bản sắc dân tộc của Phật giáo thời Lý – Trần không thể không xét đến hai ḍng Thiền riêng của Đại Việt là Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử.

 

2.     Thiền phái Trúc Lâm

Thiền phái Trúc Lâm  là một ḍng thiền Việt Nam đời nhà Trần, do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của Trần Nhân Tông, đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông.

Thiền phái Trúc Lâm được xem là tiếp nối và là sự hợp nhất của ba ḍng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là ḍng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông  T́-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci).

Với việc lập ra phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đă thống nhất các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối. 

 

Tư tưởng của ḍng Thiền Thảo Đường là sự kết hợp giữa Nho và Phật, giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông. Thiền quán là con đường tự lực, đốn ngộ, phù hợp với trí thức, căn cơ phát triển; c̣n tụng kinh niệm Phật là con đường tha lực, phù hợp với người b́nh dân, ít căn cơ. V́ thế mà Lư Thánh Tông cùng các triều thần cố gắng vun đắp cho ḍng Thiền này. Như thế, so với Thiền nguyên thuỷ và Thiền Việt Nam trước đó thì ḍng Thiền Thảo Đường có khác, nội dung phần nào phù hợp với yêu cầu của dân tộc bấy giờ.

Nối tiếp việc làm của vua nhà Lý, các vua nhà Trần cũng vì yêu cầu của thời đại nên đã xây dựng một ý thức hệ độc lập. Họ Trần buộc phải lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu nhưng cũng cần thay đổi chút ít nội dung cho phù hợp và đạt những mục đích mà xã hội yêu cầu.

Thiền sư phái Trúc Lâm đều dửng dưng trước cái chết, xem cuộc đời là vô thường. Chết chỉ là một chặng đường khác. Như vậy, Thiền phái Trúc Lâm tiếp thu quan niệm nhân sinh của Đại thừa Phật giáo. Họ chấp nhận cuộc sống, cái chết mà không luyến tiếc. Các vị quan niệm không có gì sinh ra hay mất đi nên làm gì có việc đi và đến. Đó là quan niệm “thân ảo ảnh chẳng khác phù vân”, “Pháp thân thường trú, phổ mãn thái hư” của đệ nhất tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Các vị cho rằng cái thân đang tồn tại là do dục. Diệt được dục tức thoát khỏi sinh tử.

700 năm sau ngày Sơ tổ Trúc Lâm nhập niết bàn, ḍng thiền ấy đang thăng hoa trở lại một cách mạnh mẽ bởi cách tu tập và triết lư vẫn mang đậm tính thời đại: Tu thiền chính là trở lại với tâm ḿnh, đem tâm ḿnh trở về từng giờ từng phút, sống với nội tâm thanh tịnh.

 

Description: Đồ biểu phái thiền Thảo Đường

 

Lấy tâm của dân làm tâm của ḿnh

Trúc Lâm Yên Tử là một phái Phật giáo nhập thế, gắn bó mật thiết tới đời sống chính trị, xă hội của dân tộc. Là vị hoàng đế xuất gia, là tổ thứ sáu của thiền phái Yên Tử và là sơ tổ ḍng thiền Trúc Lâm, ngài chủ trương thống nhất các thiền phái Phật giáo tại Việt Nam mang nét đặc thù Việt Nam, tích cực dấn thân vào xă hội, xây dựng hưng vượng xứ sở bằng từ bi, trí tuệ và đạo đức. Đó là sự kết hợp giữa triết học siêu nhiên của Phật giáo với nhân sinh quan của Nho giáo và vũ trụ quan của Lăo giáo.

“Ở đời vui đạo tùy duyên

 Hễ đói th́ ăn mệt nghỉ liền

 Trong nhà có ngọc thôi t́m kiếm

 Đối cảnh TÂM KHÔNG chớ hỏi THIỀN.”

Đây chính là 4 câu kệ huyền diệu, mang lư tưởng cốt lơi của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đó là việc tu hành không quá câu nệ vào các nghi thức quá rườm rà của việc hành đạo, không trọng lối tu luyện pháp thuật, trừ tà ma… mà coi trọng việc tu tâm,hợp nhất con người với thiên nhiên.Thiền viện Trúc Lâm đang được tiếp tục xây dựng, tôn tạo để ngày càng khang trang sạch đẹp, phát huy tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm và là địa điểm tham quan, t́m hiểu hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.

 

3.     Thảo Đường - ḍng thiền phổ độ

Năm 1928, Đức Phật Mẫu giáng cơ dạy khai khẩn đất hoang độ 60 mẫu tây tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho để đào một con kinh, xây đền Phật Mẫu và một ngôi Thảo Đường. Đức Phật Mẫu cho một bài thi:

Thảo Đường phước địa nqộ tùng hoa,

Lục ức dư niên vũ trụ hoà.

Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp

Thế đăng bồng đảo định âu ca.

Dịch nghĩa:

Câu 1. Ngôi nhà tranh nơi đất phước, người quân tử gặp thời.

Câu 2. Hơn 60.000 năm vũ trụ hoà b́nh.

Câu 3. Người đời cùng hưởng cảnh an cư lạc nghiệp.

Câu 4. Thời thái b́nh được sống như lên đến cơi Tiên.

Sau đó, Đức Lư cho đôi liễn:

THÁO thượng sương phi tiện thị Thiên ba chi thắng cảnh,

 ĐƯỜNG tiền nguyệt chiếu thậm quang Địa thời thị đăng Tiên.

Dịch nghĩa:

Trên cỏ sương bay như sóng trời, cảnh tuyệt đẹp.

 Trước nhà trăng soi thật sáng thế gian như lên Tiên.

Đức Lư c̣n cho thi:

KHổ là cam chịu chớ đừng than,

HIÊN hảo cùng nhau mới vẹn toàn.

TRANG điểm ngọc lành cho đáng giá.

Giồi mài chí thiện Thượng Minh Thanh

Không chỉ dạy riêng cho Giáo hữu Thượng Minh Thanh, mà đó là lời dạy cho tất cả những người thật sự muốn t́m Đạo. Đó là:

·         Hiểu luật nhân quả th́ cam chịu khổ để trả hết quả, chứ đừng than trách.

·         Hiểu Luật Thương yêu của Đấng Chí Tôn dạy th́ không được ganh ghét, hăm hại nhau mà sa vào chước quỉ. Phải ḥa hảo cùng nhau mới vào được cơi Thiêng liêng hằng sống.

·         Phải tu thân, luyện kỷ trau giồi cho đến chí thiện là cái thiện tột cùng; thiện từ hành động đến lời nói, tư tưởng.

Các Đấng cũng giáng cơ dạy ông Đinh Công Trứ lập trường Qui Thiện (1928).Tôn chỉ và mục đích của trường Qui Thiện được thể hiện trong câu liễn sau:

QUI lương sanh hành chánh giáo thủ bí pháp chấp trung quán nhứt,

THIỆN cấp cô năng dưỡng lăo bảo chơn truyền Đại Đạo Tam Kỳ.

Dịch nghĩa:

Qui tụ người lành, tu hành theo chánh giáo bảo thủ bí pháp, chấp trung quán nhứt,

Làm việc thiện, cấp dưỡng trẻ mồ côinuôi người già, bảo thủ chơn truvền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

 

Tóm lại, Đức Phật Mẫu dạy lập Thảo Đường và lập Khổ Hiền Trang là bước đầu đưa các hành giả vào đường Tịnh Thất. Muốn trọn câu Phổ Độ phải Phước Huệ song tu. Nói một cách khác, Phổ Độ và Tịnh Luyện là cặp song sinh, cặp âm dương trong Dịch lư không thể tách rời. Ai cố ư tách rời là chưa đạt Chơn Pháp của Đức Chí Tôn.

Đức Thích Ca khi thuyết về Kinh Di Lạc đă dạy: Tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, tất đắc GIẢI THOÁT”.Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ được qui định trong TÂN LUẬT & PHÁP CHÁNH TRUYỀN. Tân Luật lập từ những năm đầu khai đạo đă gồm có ba phần: Đạo luật, Thế luật và Tịnh Thất luật.

Nơi Tịnh Thất,lễ cúng Tứ Thời chỉ đọc các bài kinh: Niệm hương, Khai kinh, Ngọc Hoàng kinh, Phật Mẫu chơn kinh, Dâng Tam Bửu rồi Ngũ nguyện.Đạo vô vi cúng cũng vô vi nên không thắp đèn nhang. Cầu nguyện nơi tâm. Đang làm việc, tới giờ cúng th́ định tâm, định trí dâng TÂM KINH. Đức PHẠM HỘ PHÁP có làm bài thơ về người tu tịnh như sau:

NGƯỜI TU HÀNH

Chẳng ham danh lợi, chẳng mê trần,

Thạch động an nhàn thân độ thân.

Biển Bắc mặc dầu cơn sóng bủa

Non Nam chi quản đám mây vần.

Ngày ăn hai bữa nuôi tinh huyết

Đêm ngủ ba canh dưỡng khí thần.

Quyết đoán công phu thân vận động

Đường Tiên cửa Phật mới mong gần.

 

Vào đêm 15.5 - Tân Măo (1951), Đức Ngài giảng về bí pháp và thể pháp như sau:

“Thể pháp là cái h́nh tướng của đạo về hữu h́nh tức là dạng trạng của Hội Thánh, là h́nh trạng của Thánh Thể Chí Tôn tại thế.

Bí pháp là quyền năng điều khiển Càn Khôn vũ trụ, tức là quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn, Ngài đến cùng con cái của Ngài. Ngài ban một quyền hành tự giải thoát cho ḿnh.

V́ mới mở Tịnh thất nên h́nh trạng chưa rơ, chừng hoàn thành con cái Chí Tôn sẽ thấy.

Phải để đức tin vững vàng nơi Thánh thể Ngài cho cường liệt, Đức Chí Tôn mới xây chuyển xă hội nhơn quần và tạo hạnh phúc cho xă hội nhơn quần được”.

 

 TIẾT 2: G̀N GIỮ DI TÍCH KHỔ HIỀN TRANG

Di tích lịch sử văn hoá là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá của dân tộc, là những chứng tích về cội nguồn của dân tộc Việt Nam, đồng thời có thể xem là kho tàng di sản văn hoá nhân loại.V́ thế, các di tích lịch sử văn hoá là thành tố quan trọng  trong “tài nguyên du lịch”. Các di tích đó, cả về mặt nội dung lẫn h́nh thức, đều có khả năng tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ. Luật Du lịch đă khẳng định: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công tŕnh sáng tạo của con người được sử dụng nhằm thoả măn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để h́nh thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch. So với các tỉnh, thành phố khác trong toàn quốc, tỉnh Tiền Giang có số lượng di tích lịch sử văn hoá không nhiều.

Các địa điểm du lịch nổi tiếng tại Tiền Giang – Mỹ Tho gồm có:

- Bảo tàng Tiền Giang, trại rắn Đồng Tâm, Chợ nổi Cái Bè,

- Cù Lao Thới Sơn với các cồn: Cồn Long, cồn Lân, cồn Quy, cồn Phụng. 

- Chùa Vĩnh Tràng:  xây dựng đầu thế kỷ 19 có đậm nét kiến trúc Á -Âu.

- Nhà thờ Chánh ṭa Mỹ Tho:  Được xây vào năm đầu thế kỷ 20, là công tŕnh kiến trúc mang phong cách Tây Âu

- Di tích Rạch Gầm – Xoài Mút 

 Chúng ta nên thêm Thánh Thất Khổ Hiền Trang vào danh sách du lịch trên.

Các tài nguyên này đang là nhân tố hết sức quan trọng để phát triển du lịch Tiền Giang mà không phải địa phương nào cũng có.Khi hiểu rơ giá trị lịch sử của Khổ Hiền Trang, với khoảng 5 triệu tín đồ Cao Đài, thêm cả du khách trong và ngoài nước, ai cũng đều muốn viếng thăm, nh́n ngắm công tŕnh kiến trúc của đầu thế kỷ 20; công tŕnh được tạo nên bởi bàn tay và khối óc của người dân bản địa, chất phác, ít học nhưng đức tin vững chắc. Các vị đă vượt qua khó khăn, thiếu thốn, bị chèn ép dưới ách thực dân Pháp để h́nh thành một Thánh Thất đẹp, cổ kính, đủ bí pháp trong đó.

Đây là mối lợi rất lớn cho ngành du lịch của tỉnh Tiền Giang. Cũng như Chùa Vĩnh Tràng và Nhà thờ Chánh ṭa Mỹ Tho,Thánh Thất Khổ Hiền Trang nhất định không phải là địa điểm nhạy cảm. Nếu có tranh chấp nội bộ th́ đó là việc nhỏ. C̣n ǵn giữ, tôn tạo di tíchThánh Thất Khổ Hiền Trang cũ mới là việc lớn v́ dẫn tới trái tim của 5 triệu tín đồ Cao Đài.

Thánh Thất Khổ Hiền Trang và Thảo Đường cũng không phải là địa điểm mê tín v́ việc trấn ếm và phá ếm đă biết từ thưở xa xưa. Tin hay không tin là quyền của mỗi người. Chúng ta biết Nhà Thờ Cha Diệp (hay c̣n gọi là nhà thờ Tắc Sậy) thuộc Giáo phận Cần Thơ, và nằm trên địa bàn của xă Tân Phong, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu – nơi gắn liền với một nhân vật nổi tiếng – cha Trương Bửu Diệp, vị linh mục nổi tiếng v́ sự linh thiêng . Nơi đây không chỉ là điểm hành hương của người miền Tây mà c̣n của dân công giáo ở nhiều vùng miền khác. Theo truyền miệng của người dân kể lại, sở dĩ nhà thờ Cha Diệp trở nên nổi tiếng là do sự linh thiêng của Cha Diệp đem lại “ai đến khấn điều ǵ cũng đều được”. Đó có phải là mê tín không? Chắc chắn là không, v́ “hữu thành tất ứng ,  ân phúc dành cho những ai tin tưởng nguyện cầu. Đức tin là sự tin tưởng từ tâm, không thể chứng minh như trong khoa học để thấy bằng nhục nhăn, nhưng kết quả sẽ là điều minh chứng mà thông thường, chỉ người trong cuộc cảm nhận được.

Thảo Đường v́ hoàn cảnh khó khăn chưa xây dựng thành trung tâm thiền lớn, nổi tiếng như ở Miến Điện, Thái Lan, Ấn Độ hay Tích Lan…nhưng, trong tương lai th́ sao?

Một thiền viện hay một tịnh thất có hại cho an ninh nhà nước không? Chắc chắn là không v́ ư nghĩa của thiền là:

·         v́ trí của ta bay nhảy không ngừng làm con người dễ bị “stress”, suy nhược thần kinh trong một thế giới c̣n nhiều bất công, bạo lực…THIỀN sẽ  kiểm soát ư nghĩ, làm chủ tư tưởng, giúp chúng ta vượt qua.

·         sự tĩnh tâm, nghe tiếng nói của Tâm Thức, suy tư t́m hiểu thật sự ḿnh là ai; chết rồi đi về đâu, chết có phải là hết không?

·         T́m hiểu bản thể của vũ trụ; Thượng Đế ở trong Tâm ta hay ngoài ta…

 

Hơn thế nữa,Luật về Tịnh Thất trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ qui định rất nghiêm nhặt, như tu tập từ 4 giờ sáng đến 12 giờ khuya; tự sản xuất để tồn tại; người nhà không được gửi quà hay thăm viếng…

 

Tóm lại, Thánh Thất Khổ Hiền Trang xưa nên được bảo tồn, có thể tôn tạo trang trí phía trong lại làm thành một thiền đường để người trong đạo, ngoài đạo đều có thể đến tĩnh tâm. Chi phí sẽ kêu gọi người thiện tâm đóng góp.

Hiện nay, việc quản lư bảo vệ và khai thác yếu tố du lịch tại Thánh Thất Khổ Hiền Trangc̣n nhiều bất cập. Việc đầu tư nâng cấp các di tích với tư cách là một sản phẩm du lịch chưa được triển khai. C̣n t́nh trạng phó mặc cho những người quản lư, đập phá theo ư riêng. Những lỗ hổng trong cách quản lư đó dẫn đến hậu quả khôn lường, không những không có tác dụng thu hút du khách mà ở một chừng mực nhất định c̣n làm phư­ơng hại đến h́nh ảnh chung cách lănh đạo của chính quyền địa phương, cấp lănh đạo trung ương của nền tôn giáo đó về di tích lịch sử, văn hoá quốc gia. Nếu không sớm khắc phục, chúng ta sẽ có lỗi rất lớn với lịch sử.

 

______________________________________________

Phụ lục

ÍCH LỢI CỦA THIỀN

 

THIỀN (Sanskrit: Dhyana) là tỉnh lặng, là sự tập trung tâm chú ư vào một đối tượng mà không suy nghĩ một điều ǵ khác (Thiền Chỉ), hoặc Tâm dơi theo hơi thở vào, hơi thở ra (Thiền Quán).

 

Lúc Thiền, định được tâm, vùng liên hệ đến sự tập trung chú ư (Self-awareness), phía trên bộ năo, tăng trưởng làm cho con người dễ tập trung thay v́ nghĩ lung tung. Vùng thứ hai liên hệ đến an lạc vui vẻ, yêu đời (Compassion) cũng được gia tăng, con người cảm thấy nhẹ nhàng an lạc thay v́ chán nản giận hờn lo âu, cau có. Và đặc biệt hơn là, vùng thứ ba liên hệ đến căng thẳng (Stress) bị teo nhỏ lại. Lúc con người không bị cẳng thẳng hay có rất ít căng thẳng th́ sẽ không có hoặc có rất ít bệnh tật.

Stress là một phản ứng bảo vệ, khi cơ thể bị một mối đe dọa, mối nguy hiểm xảy đến cho nó. Người ta gọi nó là phản ứng (hay đáp ứng) “chiến đấu hoặc bỏ chạy” (fight or flight response), nghĩa là trong t́nh huống đó, chỉ có hai cách để chọn lựa: chiến đấu  hoặc bỏ chạy để… sinh tồn! Lúc đó, cơ thể phải huy động toàn lực để đối phó. Năo thùy sẽ ra lệnh tiết các kích thích tố cần thiết, nào adrénaline, nào norepinephrine, cortisol…ồ ạt đổ vào máu. Tim đập nhanh để bơm máu về các cơ bắp lớn, phổi hổn hển tăng tốc bơm oxy, đường huyết vọt lên cao nhằm tăng cường khẩn cấp năng lượng, đồng tử mắt nở to để nh́n cho rơ, tai vểnh lên, mũi phồng ra… Tóm lại, mọi thứ đều phải trong tư thế sẵn sàng…

Đại học Y khoa Harvard ước tính có từ 60%- 90% bệnh nhân (ở Mỹ) t́m đến bác sĩ là do stress.

 Stress liên quan đến rất nhiều bệnh lư như nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, tiểu đường, suyễn, đau nhức kinh niên, mất ngủ, dị ứng, nhức đầu, đau thắt lưng, một số bệnh ngoài da, ung thư, tai nạn thương tích, tự tử, trầm cảm, giảm miễn dịch v.v… Tóm lại là rất phức tạp. Bác sĩ nếu không quan tâm đúng mức – đau đâu chữa đó – th́ chỉ chữa đựơc triệu chứng bên ngoài c̣n cái gốc sâu thẳm bên trong là stress vẫn không đựơc giải tỏa, nên chuyển từ “bệnh” này qua “bệnh” khác, và do đó, chất lựơng cuộc sống bị giảm sút rơ rệt! Năo ta có một đặc điểm lư thú là không thể cùng lúc nghĩ tới hai việc. Đă nghĩ điều này th́ quên điều kia. Và người ta đă “lợi dụng” đặc điểm này để dịch chuyển các điểm tập trung trên vơ năo từ vùng này sang vùng khác. Chẳng hạn đang giận sôi lên th́… xảy ra động đất hay cháy nhà, lập tức vùng “giận sôi” của vỏ năo tắt ngấm để nhường chỗ cho vùng sợ hăi! Ta biết giận dữ hay sợ hăi đều tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Nó có thể làm ta kiệt sức, suy sụp, thở không ra hơi… Có thể chọn cách nào khác chuyển dịch hay hơn, có lợi cho sức khỏe hơn chăng?

Có đó. Đó là cách thở sâu, thở bụng, đưa hơi xuống huyệt… đan điền (dưới rún chừng 4 cm). Nó giúp cho ta tĩnh tâm lại. Tập luyện đúng mức, năo thùy sẽ tiết ra một kích thích tố gọi là endorphine, một thứ á-phiện nội sinh, làm cho dịu nhẹ toàn thân, tạo sự sảng khoái, lâng lâng, mà không gây tác dụng phụ.

Thiền, yoga, dưỡng sinh, tài chí, khí công… đều là những cách làm cho thân tâm hợp nhất, làm cho ta quay trở lại với chính ḿnh bằng cách lắng nghe hơi thở của chính ḿnh . Hiện nay các kỹ thuật này ngày càng được nghiên cứu và ứng dụng rộng răi ở các Trung tâm y khoa lớn trên thế giới để trị liệu các bệnh do stress gây ra, các chứng trầm cảm, tâm thần, lo âu, đau nhức…, kể cả nghiện rượu, thuốc lá, ma túy… một cách rất có hiệu quả.

Năm 1967 BS Herbert Benson, giáo sư y khoa tại Harvard Medical School, thí nghiệm trên 36 người hành Thiền siêu vượt (Transcendental Meditation), ông thấy, lúc định được tâm các thiền giả sử dụng 17% oxy ít hơn, tim giảm đập ba nhịp một phút và tăng làn sóng năo (theta). ..

Bs, Dean Ornish cho rằng thiền, cùng với yoga và ăn kiêng, sẽ đẩy lùi chất tích tụ ở vành động mạch. Sau đó, tại cuộc họp của hội Niệu học Mỹ (American Urological Association), ông công bố thí nghiệm, Thiền có thể làm chậm ung thư tuyến tiền liệt. Phụ nữ hành thiền, các tế bào miễn nhiễm cao hơn; chống ung thư vú.Thiền cũng giúp làm hạ huyết áp. 60% bệnh nhân đến khám bác sĩ v́ do bị căng thẳng. Thiền cũng giúp những người yếu sinh lư không cần dùng thuốc Viagra.

Thiền sư Elaine MacInnes  đă dùng Thiền, đưa các tù nhân “từ một tâm trạng giận dữ, suy nhược, trầm cảm…thành những người mạnh khỏe đột biến bất thần đầy hứa hẹn” . Do vậy, năm 2001 chính phủ Canada, tặng bà Huy chương Cao quư về hoạt động nhân đạo.

 

SÁCH THAM KHẢO CHÍNH

Việt Nam Phật Giáo Sử Luận                                        Nguyễn Lang

Ḍng thiền Phổ độ                                                         Trần văn Rạng

Tự điển Cao Đài                                                               Đức Nguyên

Thiên Nhăn Thầy                                                            Nguyên Thủy

 

 

CHÂN THÀNH CẢM TẠ CÁC TÁC GIẢ TRÊN

 

Top of Page

      HOME