Mục Lục |
Tiểu-dẫn
|
Đạo ở đâu ?
Một chơn-sư đã dạy đệ-tử rằng: “Đạo
chẳng đâu xa, ở tại người,
Lương tâm thiện tánh sẵn trong ngươi.
Tồn tâm dưỡng tánh đừng phai lợt,
Phản chiếu hồi quang Đạo sáng ngời”.
Lời giáo-huấn nầy có nghĩa là Đạo có ngay trong con người đó là Lương tâm và
Thiện tánh, cứ nhìn thẳng trở vào Tâm Tánh của chính mình thì sẽ thấy Đạo.
Câu mở đầu quyển Kinh Nhật-tụng của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã nói rằng: Đạo do
lòng Thành Tín hiệp lại, tức là Đạo ở trong Tâm. Tam-giáo thì dạy gốc Đạo là
cái Tâm Làm Phải, Làm Lành, Tâm đó Phật dạy là Từ-bi, Lão xưng là Cảm-ứng, Nho
cho là Trung-thứ, Chúa Jésus gọi là Bác-ái ... chung quy thì Đạo cũng ở trong
Tâm.
Nên Đức Hộ-Pháp đã dạy rằng: “Bần-Đạo
dám chắc người nào đi tìm Đạo mà có tâm định tưởng là thấy ngay”
(Thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp đêm
29 tháng 9 Mậu-tý/ 31-10-1948).
Nhưng Tâm và Tánh tuỳ theo mỗi triết-gia, mỗi tôn-giáo mà có tên gọi khác nhau,
và pháp-môn tu-hành để gặp Đạo cũng khác nhau, nên trước khi muốn biết Đạo ở đâu
? Chúng ta thử tìm hiểu Tâm, Tánh như thế nào, và đường hương tu hành của Tam-giáo
để ngộ Đạo ra sao, qua các tiết mục sau đây.
Thế gian coi tâm tánh là phần tâm-hồn trí-tuệ hiểu biết của con người.
- Theo Nho giáo thì Tâm Tánh là thần-minh, linh-giác của con người, nên còn gọi là linh-tâm, giác tánh.
Nho-giáo xem Tâm Tánh ban đầu vốn lành, nhưng sở-dĩ con người có tâm tánh độc ác, là do càng ngày càng tập-nhiễm những điều xấu, mà xa dần cái tánh bổn thiện, nên Đạo Nho có câu:
“Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện. Tánh tương cận, tập tương viễn” (Tánh thuở ban đầu của con người vốn lương thiện, luôn gần-gũi với điều lành, nhưng vì tập-nhiễm tánh xấu, nên xa dần điều lương-thiện / Tam tự kinh)
Nên trong phương tu-hành của Nho-giáo dạy: “Tồn Tâm dưỡng Tánh”. Tức là giữ cái thiện-tâm luôn tồn-tại, và di-dưỡng cái tánh vốn lành của mình, đừng cho tập nhiễm điều xấu. Phương tu nầy được thể-hiện ra trong nhơn-đạo, đó là người tu phải giữ “Ba giềng mối” là: Quan-hệ Vua Tôi (quân thần), Quan-hệ Cha mẹ con cái (Phụ Tử), Quan-hệ vợ chồng (Phu thê), và “Năm điều thường giữ” là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Gọi là “Tam cang, Ngũ thường”.
- Lão-giáo thì gọi Tâm Tánh là Thiên lương, Huyền tẩn, hay Huyền quan khiếu ...
Trần Đoàn Lão-tổ đã căn cứ vào chiếc tự chữ Tâm (心) mà giải nghĩa Tâm như sau:
“Tam điểm như tinh tượng,
Hoành câu tợ nguyệt tà,
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật dã do tha”
(Ba điểm như hình ngôi sao, nét cong nằm ngang như mãnh trăng xế, Mang lông (làm thú-vậtù) theo đó mà được, nên Phật cũng do đó mà ra).
Lão-giáo cũng cho rằng Tâm Tánh có sẵn trong mỗi người nó hồn-nhiên vô-tư vô-dục lương-thiện như tâm-hồn của đứa trẻ con mới sinh ra, nên Đức Lão-Tử so sánh cái Thiên-lương (Tâm nguyên-thuỷ) của con người như là tâm của đứa con đỏ “Xích tử chi tâm”. Nhưng sở-dĩ có sự biến dạng thành hung ác, là do tập-nhiễm vật-dục làm thay đổi từ tốt trở nên xấu. Nên đường hướng tu-hành của Lão giáo dạy lấy sự hư tỉnh để tu sửa đó là: “Tu tâm luyện Tánh” (sửa tâm và trau dồi tánh),
Tu tâm là sữa lòng cho trong sạch, cốt làm cho tâm con người luôn thanh-tịnh, làm chủ được bản thân mình, không để thất-tình lục dục sai khiến.
Luyện Tánh là tập cái tánh không không đừng để ảnh hưởng bởi thất tình : mừng vui, hờn giận ...
Phương Tu Tâm luyên Tánh của Tiên-đạo bao gồm luyện Tam-bửu (Tinh Khí Thần) và Ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) trong châu-thân được thanh-khiết thì sẽ đắc thành chánh-quả, thoát-đoạ luân-hồi. Nên còn gọi là Phương luyện Tam-bửu, Ngũ-hành.
- Phật giáo thì gọi Tâm, Tánh là Chơn-như, Chơn-tâm, Phật-tánh, Bổn lai diện mục ... Theo Duy-thức học của Phật-giáo thì Tánh là Mạt-na-thức là nơi thể-hiện sự sinh-hoạt của tình-cảm, lục-dục thất-tình do nơi đây mà biểu-hiện, nó còn lưu giữ những tình-cảm tốt hoặc xấu để tạo thành cá-tính của con người trong khiếp sau. Còn Tâm là A-lại-da-thức nơi biểu-hiện của trí-tuệ, linh- thông của con người, còn là nơi lưu giữ những điều hiểu biết học được trong kiếp nầy và ghi nhận các điều thiện ác để làm chủng tử cho kiếp lai sinh.
Theo Phật thì trong mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nên phương-hướng tu-hành của Phật-giáo dạy:
“Minh tâm kiến Tánh”,
Nghĩa là người tu-hành làm thế nào để cho Chân-tâm được sáng-lạng, và thấy được Phật-tánh sẵn có trong tự thể của mình thì đắc đạo. Lời dạy nầy xem như là yếu-quyết tu-hành của nhà Phật, nhất là trong Thiền-tông, khi Tổ-sư Đạt-Ma đem Thiền vào Trung-quốc, Ngài đã tuyên-xướng một câu nổi tiếng sau đây để làm căn-bản cho đường-hướng tu-hành là:
“Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật (Không lập văn tự, truyền dạy cho đệ tử ngoài kinh-sách . Nhắm thẳng vào Tâm, để họ thấy Tánh mà thành Phật / Thiền-luận Suzuky).
Theo Thiền thì “thấy tánh” là cứu-cánh, nên tất cả công-phu như tỉnh-toạ thiền-định...cũng nhắm hiện-thực mục-đích đó, nên Ngài Huệ-Năng đã xác nhận rằng:
“Chỉ luận thấy Tánh, chẳng luận thiền-định, giải-thoát”. (Thiền-luận Suzuky).
Theo Thiền, nếu không “thấy tánh” thì hành-trì mọi công-phu khác đều vô-ích, nên Ngài nói thêm rằng:
“Nếu chẳng thấy Tánh, thì chay lạc, trì giới, tỉnh toạ chẳng ích gì, những chúng-sanh hành như vậy, đích thật là đã phỉ-bán Phật” (Thiền-luận Suzuky).
Sự tu-hành để “Minh tâm kiến Tánh”, còn được Phật-tử thể hiện ra trong Tam-quy là: Quy y Phật, Quy-y Pháp, Quy-y Tăng, và Ngũ-giới là: Không sát-sanh. Không trộm cắp. Không tà-dâm, Không ăn uống rượu thịt, Không vọng ngữ. Gọi là Tam-quy, Ngũ-giới.
Vì giữ-gìn quy giới nghiêm-túc cũng sẽ hổ-trợ tích-cực cho Phật-tử trong “Minh tâm kiến tánh” .
Theo chơn-truyền của Cao-đài-giáo thì Tâm và Tánh được Đức Hộ Pháp đã thuyết giảng như sau :
“Đức Chí-Tôn đến dạy ta biết rằng Tánh là chơn-tướng của Chơn-thần, Tâm là chơn tuớng của Chơn-linh...
Đức Chí-Tôn dạy Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta. Hình thể thứ nhứt là là Tâm tức là Chơn-linh, thứ nhì là Tánh tức Chơn-thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy. (Thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh thời Tý ngày 8 tháng 7 Mậu-tý / 9-8-1948).
Như vậy theo Cao-Đài-Giáo thì Tâm là điểm linh-quang của Thượng-Đế ban cho con người, vô cùng sáng-suốt và linh-diệu, nó vô-hình, còn gọi là Linh-thân (Thần). Tánh là Chơn-thần là đệ nhị xác thân, thuộc khí-chất bán hữu-hình, do Phật-mẫu tạo nên, còn gọi là Pháp-thân (Khí), còn thể-xác do cha mẹ sinh ra gọi là Phàm-thân (Tinh). (1) Ba phần nầy kết hợp lại làm thành con người hoàn-hảo. Khi tu-luyện để ba phần Tinh, Khí, Thần quy-nhứt, Ngũ-khí (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) thanh-khiết thăng-hoa thì đắc đạo.__________
(1) Để hiều rõ chi-tiết, xin tham-khảo thêm “ Sự cấu-tạo thể-chất và tâm-linh con người theo nhân-sinh-quan của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” (Tức là sự Cấu-tạo và sinh-hoạt của Phàm-thân, Pháp-thân và Linh-thân). Cùng soạn-giả.
Nên Thánh-ngôn có câu:
“Ngũ khí thanh diệt trừ quả-kiếp,
Linh-quang đầy đặêng tiếp hồng-ân.
Xác tại thế đã nên thần,
Ba mươi sáu cỏi đặng gần linh-thiêng”.
(Nữ trung tùng phận)
Đường hướng tu hành của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng không ngoài giữ Tâm và Tánh cho được thành-tín, chánh-trực, bác-ái và hoà-nhã ... Nên Phật-Mẫu đã dạy rằng:
“ Gắng sức trau dồi một chữ Tâm,
Đạo Đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.
Tâm ái nhơn-sanh an bốn bể.
Tâm Hoà thiên-hạ trị muôn năm.
Đường tâm nẻo Tánh dầu chưa vẹn
Có buổi hoài công bước Đạo tầm”.
Thi-văn dạy Đạo
Đức Hộ-Pháp đã dạy rằng:
“Tâm là hình ảnh của thiên-lương”.
Nên về Luyện Tâm, Đức Ngài đã dạy: Giữ Tâm cho công-chánh. Đừng cừu-hận, đừng kết oán với kẻ thù. Lấy thiện trừ ác. Lấy nhân-nghĩa trừ bạo tàn. Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp-hòi. Lấy chánh trừ tà ...
Về luyện Tánh, Đức Ngài cũng dạy cụ thể rằng:
““Phải bình tỉnh , nghĩa là đừng chịu ảnh-hưởng của hoạ phước buồn vui (Tập Tánh không không đừng nhiễm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào Chơn- tánh” (Phương Luyện kỷ).
Tuy tu luyện để nhìn thấy Đạo. Nhưng Đức Chí-Tôn đã tiên quyết phải đủ công đức thì mới đắc Đạo
Qua phần sưu-khảo trên, cho chúng ta thấy rằng từ lâu con người, ngay cả những bậc triết-nhân, sau khi luống công tìm kiếm Đạo từ trong từng hang động, am miếu, chùa-chiền, đền-đài của tất cả các tôn-giáo ... ở rải-rát khắp các núi đồi, thung lủng, hay nơi cao sơn, cùng cốc ... tức là họ đã đi tìm Đạo từ bên ngoài bản- thân; thì nay họ đã hoàn-tất vòng tròn, trở lại ngay chính mình – đó là tâm và tánh con người.
Nên khi con người hồi-quang phản-chiếu nhìn thấy được lương-tâm thiện-tánh trong tự-thể của chính mình thì ngộ Đạo.
Lại nữa mục-đích của đời người là phải tạo cho mình một cuộc sống hạnh-phúc an-lạc, đó là ân-huệ của Thượng-Đế ban cho. Đức Chí-Tôn đã tiên-quyết điều này rằng :
Huệ-ân muốn hưởng, noi đường Đạo,
Hối cải tu-thân phải giữ lời.
(TNHT/Q2/tr.136)
Như vậy Con người muốn có sự an-lạc thì phải đi theo đường Đạo để tu-hành. Nhưng đường Đạo và sự an-lạc không dành riêng cho một ai, đã làm con người bất kỳ theo khuynh-hướng nào, dù duy-tâm hay duy-vât, dù có tín-ngưỡng hay bài-bác thần-linh, dù theo tôn-giáo hay môn-phái nào cũng không cần phải chuyển đổi mới hưởng được... Vì tất cả những thứ đó không phải là Đạo, mà Đạo có sẵn trong mỗi người đó là Lương-tâm và Thiện-tánh, nên Đức Hộ-Pháp đã dạy rằng: “Lấy lương-tâm làm chủ, giữ bổn-thiện cho bền ..”. Để đi vào đường đạo mỗi người chỉ cần “tỉnh- thức” nhìn vào chính mình sẽ nhìn thấy “chân-tánh” để tuân-thủ theo tiếng gọi của nó ... Được vậy là người đó ngộ Đạo.
Nên con đường Đạo và sự an-lạc không cần tìm đâu xa, và cũng không nhờ một Đấng Thiêng-liêng nào ban cho, hay là phải thay đổi tôn-giáo, môn-phái mới có được, hoặc phải lần vào những đền-đài ở tận cao-sơn cùng-cốc ... mới tìm được, nên Cao-Đài-giáo cho rằng “Đạo hư-vô, sư hư-vô” là vậy. Nên con người chỉ cần hồi quang phản chiếu lại chính mình để nhìn thấy “chân-tánh” thì sẽ gặp Đạo, và sự an-lạc sẽ có ngay tức khắc. Vì mỗi con người đều có sẵn lương-tâm thiện tánh, nên nhà Phật có câu: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Do đó nhân-gian mới có sự tích một người đồ-tể giết mổ súc vật, mà buông dao là thành Phật. Nên bất kỳ một người nào trong đời sống dù có gian-ác đến đâu, nhưng chỉ một phút họ biết hồi-tâm hối-cải thì cũng sẽ gặp đạo, và cũng sẽ có một đời sống an lạc. Còn nếu không hối-cải tu-thân thì muôn kiếp cũng phải chịu đoạ-đày. Nên Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
“Bác-nhã khuyên con trở mái chèo,
Bền lòng thương lấy chúng sanh eo.
Trăm năm chưa hẳn nên hiền đức,
Tấn nẻo chông gai khá lựa dèo”.
* * *
“Lựa dèo lựa thế độ nhơn-sanh,
Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành.
Ám muội thì nhiều, mưu-trí ít,
Đường Tiên chẳng bước đoạ thì đành “
Thi văn dạy Đạo
CHUNG
______________________________________________________
Một chơn-sư đã dạy đệ-tử rằng:
“Đạo chẳng đâu xa, ở tại người,
Lương tâm thiện tánh sẵn trong ngươi.
Tồn tâm dưỡng tánh đừng phai lợt,
Phản chiếu hồi quang Đạo sáng ngời”.
Lời giáo-huấn nầy có nghĩa là Đạo có ngay trong con người đó là Lương tâm và Thiện tánh, cứ nhìn thẳng vào tâm tánh của chính mình thì sẽ thấy Đạo.
(Trang 3)
- Nho giáo thì coi Tâm Tánh là thần-minh, linh-giác của con người, nên còn gọi là linh-tâm, giác- tánh. Nên trong phương tu-hành của Nho-giáo dạy: “Tồn Tâm dưỡng Tánh”.
- Lão-giáo thì gọi là thiên-lương, Huyền tẩn, hay Huyền quan khiếu ... Nên đường hướng tu-hành của Lão giáo dạy lấy sự hư tỉnh để tu sửa đó là: “Tu tâm luyện Tánh”.,
- Phật giáo thì gọi Tâm, Tánh là Chơn-như, Chơn-tâm, Phật-tánh, Bổn lai diện mục... Nên phương-hướng tu-hành của Phật-giáo dạy: “Minh tâm kiến Tánh”
Theo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thì Tâm là điểm linh-quang của Thượng-Đế ban cho con người ...Còn Tánh là Chơn-thần do Phật-mẫu tạo nên ... Đường hướng tu hành của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng không ngoài giữ gìn Tâm và Tánh cho được thành-tín, chánh-trực, bác-ái, và hoà-nhã... (Trang 7-8)