Vốn là " Chiêu minh linh giác" (ngộ đạo thấy rõ), Ngài biết Đức Cao Đài thử lòng đệ tử vì áo Giáo Tông chỉ vẽ là áo tiểu phục dành cho Ngài Lê Văn Trung sau này. Đến khi ban hành Pháp Chánh Truyền, toàn đạo mới biết : "Bộ đại phục Giáo Tông thì toàn trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba cổ pháp là Long Tu phiến, Thư Hùng kiếm và Phất Chủ. Đầu đội mão vàng năm từng bát quái" (Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ)
Như vậy, Ngài Ngô kiên định lập trường CHƠN TRUYỀN VÔ VI mà Đức Cao Đài đã dạy. Thế mà có người truy phong Ngài Ngô là đệ nhứt Giáo Tông, Ngài Lê Văn Trung là đệ nhị Giáo Tông, kế đến Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, Nguyễn Bửu Tài và Cao Triều Phát.
Đức Hộ Pháp đã thuyết đạo (1948) rằng : " Mỗi vị tín đồ đều có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp, không lấy được là lỗi ở mấy em, chẳng lẽ đạo chỉ có một người cầm đầu mà người đó chết thì diệt tiêu nền đạo".
Nhưng phải lên ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp thế nào cho phù hợp với luật lệ đạo. Khi Ngài Ngô không tới thọ phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung, mãi đến ngày 29-10-1926 Đức Chí Tôn mới giao " quyền thưởng phạt đã vào tay Lý Thái Bạch". Sau đó Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc phàm trần nhanh chóng nên "ban quyền cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Q. Giáo Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có Lão" (Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ) .
Hãy lưu ý mấy chữ "Q. Giáo Tông về phần xác", tức là Ngài Lê chỉ được nửa Giáo Tông. Thế nên, Ngài Lê không bao giờ mặc áo đại phục Giáo Tông. Thiên phục mà Đức Q. Giáo Tông được tạc tượng trước lầu chuông Toà Thánh cũng chỉ là tiểu phục. Do đó, Ngài Lê không phải là đệ nhị Giáo Tông. Nếu có đời Giáo Tông khác thì tịch đạo THANH HƯƠNG phải đổi ra ĐAÏO TÂM.
Toà Thánh báo tin như sau :
Lễ tống chung định ngày 26-10-Giáp Tuất đúng 9 giờ sớm mai".
Suốt ngày đêm, mọi người gồm cả nam phụ lão ấu lập thành hàng ngũ chỉnh tề đến trước liên đài.
Cuộc lễ ban đêm được Bộ Lễ sắp đặt có trật tự. Chức sắc, chức việc và đạo hữu đứng có hàng ngũ chỉnh tề. Trước liên đài hàng hàng lớp lớp qùi giữa sân van vái thì thầm…
Sau lễ, người người lần lượt tan hàng. Bây giờ chỉ có 36 vị chức sắc phái Thượng hầu xung quanh liên đài.
Đến ngày thứ 12 là lễ an táng chánh thức. Số tín đồ đã đông lại càng đông hơn. Mọi người đều mặc y phục trắng, đầu bịt khăn trắng để tang, xen lẫn với những chức sắc mặc áo màu xanh đỏ vàng.
Sau đây là bài tường thuật của tạp chí Niết Bàn:
"Có trên năm ngàn tín đồ theo hộ tống Long mã kị liên đài đi khắp trong nội ô Toà Thánh. Ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc đứng lên đọc điếu văn lời lẽ rất bi ai cảm động. Kế đó là Nữ Chánh Phối sư Lâm Hương Thanh, Ông Chánh Phối Sư Trần Duy Nghĩa và ông Cao Đức Trọng, chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo. Mỗi người đều đọc một bài ai điếu dài".
Song tôi còn nhớ Chương Thái Viêm, một nhà bác học Trung Hoa mỗi khi thảo luận đến các vấn đề tôn giáo đều có nói: " Thiên trung điểu tích hoạ giả giai nan : dấu chân của con chim bay trên không, thợ vẽ nào cũng phải chịu là khó"
Thật thế người ta muốn tìm ra cội rễ của tôn giáo thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chân chim bay trên không.
Huống chi, Đạo Cao Đài mới xuất hiện ở Nam Kỳ chưa đầy 9 năm. Bao nhiêu lý thuyết hình thức của đạo hiện đương ở thời kỳ phôi thai và do cơ bút mà có thì chẳng thế chi nghị luận cho xác đáng.
Sự hoạt động của Đạo Cao Đài từ khi sáng lập đến nay không phải mỗi mỗi đều tận thiện tận mỹ . Song nếu xét thật công bình, Đạo Cao Đài chưa hề làm điều chi có hại đến nhân quần xã hội. Trái lại , Đạo Cao Đài truyền bá giỏi, tổ chức hay mà gây nên tình thân ái, đoàn kết hơn một triệu dân Nam Kỳ là một việc đáng làm, ai ai cũng nên kính phục".
Mộ đạo nhứt tâm kiên, ma bất lẫn, niết bất truy, thiên giả sanh chi, sanh bất qúi.
Tích đức vạn cổ trọng, sử do truyền, kinh do lục, nhơn thuỳ vô tử, tử do vinh.
(Yêu đạo bền một lòng, mài không mòn, nhuộm không đen, Trời sanh ra, sanh không hổ, hổ mà an.
Mến đức để muôn đời, sử còn trọng, sách còn truyền, lời không phục, ai người không chết, chết còn vinh).
Ông Diệp Văn Kỳ đã thấy rõ chân dung của Đức Q. Giáo Tông với chủ trương của nền đạo mới là đại đồng, không kỳ thị chủng tộc, tôn giáo và xã hội. Nhất là chống lại chính quyền Pháp hà khắc không cho nhân dân ta bảo vệ thuần phong mỹ tục, nên Đạo Cao Đài nêu cao "Nam phong thử nhựt biến nhơn phong". Năm 1908, Trần Qúi Cáp vì loạn "đầu bào" mà bị xử chém ngang lưng. Nhưng trong Tân Luật của Đạo Cao Đài, điều thứ 15 viết: "buộc chức sắc phải để râu tóc", là nhằm chống lại việc Pháp hoá dân tộc Việt Nam. Ông Kỳ coi đó như một cuộc cách mạng chống lại chế độ hà khắc của thực dân Pháp.
Bài thài dâng lễ vía hàng năm của Đức Q. Giáo Tông như sau: