LỜI NÓI ĐẦU

\

Chúng tôi ghi lại những bài thuyết giảng về Đạo-lý của Bổn-Tánh Thánh-Chủ và Diệu-Không Thiền Sư có mục đích để làm tư liệu trong gia đình và Tông-đường cho con cháu hậu sinh tham khảo tu học, chớ không có ý phổ biến ra ngoài. Tuy nhiên, nếu có Cao Đạo-hữu nào may duyên được cầm nó trong tay thì xin lưu ý mấy điều sau đây:

1. Trước khi đọc, xin hãy giải trừ kiến thức để Tâm được trống không và khách quan. Hay nói khác hơn là hãy dẹp bỏ cái Tâm tự mãn cao ngạo là cái bịnh chung của chúng ta.

2. Trong khi đọc, nếu gặp bài nào không vừa ý thì xin tạm thời bỏ qua và hãy đọc tiếp các bài kế. Xin đừng vì gặp một lóng mía "sâu" mà bỏ luôn cả cây mía!!!

3. Xin ngó Trăng. Chớ đừng nhìn ngón tay!!! Tức là xin đừng tìm hiểu BTTC và DKTS là ai, mà hãy đọc ngay những bài thuyết giảng này xem có chứa được những Đạo-lý gì!

4. Khi gặp những bài thuyết giảng trái ngược với quan điểm của mình thì cũng xin đừng vội cho là sai mà hãy bình tĩnh suy gẫm xem cái quan điểm mới mẽ này có hợp với đạo lý hay không!

5. Hãy đọc liên tiếp các bài giảng, vì chúng có nhiều liên-hệ mật thiết với nhau, mới thấy được rõ-ràng các "bí kíp" tụ tập ẩn chứa trong đó.

Quí Cao Đạo Hữu!

Nếu tập tư liệu này giúp ích được chút nào cho Quí Cao Đạo Hữu thì chúng tôi rất lấy làm hãnh diện vì đã tạo được một chút ít công quả.

Quí Cao Đạo Hữu!

Vì khả năng có giới hạn nên công việc ghi chép có nhiều điều sơ-suất! Chúng tôi thành thật kính xin Quí Cao Đạo Hữu, vì lợi ích chung mà bổ túc thêm các điều thiếu-sót đó.

Nay kính

C.T.

Kỷ niệm Tết thứ 70 của Đạo


 

KHO TÀNG BÍ-TẠNG CỦA NHƯ LAI

 

 

Mỗi người đều có 3 thể:

1. Đệ nhất thể: Đó là thể xác của chúng ta. Nó ví như cái khung xe ngựa vì nó cử động. Sở dĩ nó cử động là do cái tâm của chúng ta điều khiển. Cái Tâm (Chơn Thần) của chúng ta muốn đi đâu thì cái thể xác phải theo đến đó, ví như con ngựa chạy đến chỗ nào thì cái khung xe phải theo như hình với bóng vậy. Cái Tâm và cái xác luôn luôn đi đôi với nhau, không bao giờ tách rời nhau. Nếu tâm tách rời thể xác thì chúng ta phải chết !!! Cái thể xác được sơn màu đen tượng trưng nó hoàn toàn là phàm phu.

Cái thể xác còn tượng trưng là 92 ức chúng sanh mê muội (Cửu thập nhị tào chi mê muội). Cái thể xác tượng trưng là Cửu Trùng Đài và cái Tâm tượng trưng là Hiệp Thiên Đài. Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài luôn luôn hợp tác hiệp nhứt với nhau mà hành đạo cũng giống như là hình với bóng vậy. Muốn tu cái thể xác thì chúng ta phải ẩm thực tinh khiết!!! Cái thể xác cũng được ví như là cái nhà riêng của chúng ta nữa, cho nên chúng ta cũng nên săn sóc cái nhà này, đừng để cho nó bẩn, hôi hám hoặc xiêu vẹo!!!

2. Đệ Nhị Thể: Đây là cái Tâm của chúng ta! Đó là trung tâm Thần Kinh hệ hay là Trung Tâm Bộ Não. Nó còn được gọi là Chơn Thần. Người ta thường nói tu tâm, tức là tu cái Đệ Nhị Thể này đây, tu bằng cách đơn giản là tư tưởng tinh khiết!!! Cái Tâm làm trung gian giữa thể xác và Chơn Linh của chúng ta, nó thuộc về Bán hữu hình cũng như Hiệp Thiên Đài làm trung gian giữa Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài vậy. Cái Tâm của chúng ta thuộc về "Tâm viên ý mã" cho nên lúc nào nó cũng động. Cho nên cái Tâm được ví là con ngựa của chiếc xe ngựa. Hễ con ngựa chạy tới đâu là khung xe phải theo tới đó!!! Muốn cho con ngựa này (cái Tâm) đi đúng đường đúng hướng thì phải che 2 bên con mắt của nó lại (dùng Giới Luật giữ gìn cái Tâm) và phải có ông chủ (Chơn Linh) điều khiển nữa mới được. Cái Tâm được vẽ tượng trưng là một hình bầu dục để đứng như một quả trứng: Nửa phần trên màu trắng có chấm đen (Tượng trưng cái Tâm vẫn có bản chất thánh thiện của cái Chơn Linh Phật Tánh) và nửa phần dưới màu đen có chấm trắng (tượng trưng cho cái Tâm cũng có cái bản chất phàm phu mê muội của thể xác). Nói khác đi, cái Tâm của chúng ta là nửa người, nửa Phật vậy!!! cái Tâm này phải tiệm tu, tu làm sao cho hết màu đen thì chúng ta được siêu thăng. Nếu không tu thì cái màu đen lấn chiếm hết nửa phần trắng làm cho chúng ta phải trầm luân đọa lạc mãi mãi. Chúng ta phải tu theo cách của Thần Tú vì cái tâm của chúng ta đã có chứa quá nhiều tạp khí xấu xa từ vô lượng kiếp đến nay.

Do đó chúng ta phải "Giờ giờ cần phải sạch chớ để vướng trần ai". Hoặc là: "Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn". Cái Tâm này được ví như là cái Thánh Thất riêng của chúng ta. Mỗi chúng ta ai cũng đều có cái thánh thất riêng này để mà "tu bổ sơn phết" cái thánh thất bên trong này của chính chúng ta, đó mới là điều quan trọng hơn cái thánh thất hữu vi bằng xi măng gạch ngói ở bên ngoài.

3. Đệ Tam Thể: Đây là Điểm Linh Quang do Đấng Tạo hoá ban cho mỗi người người chúng ta. Điểm Linh Quang này còn được gọi là Bổn Lai Diện Mục, là Phật Tánh, là Chơn Linh, là Linh tâm... là kho tàng bí tạng của chúng ta!!! Cái kho tàng bí tạng này ai ai cũng có, đồng đẳng nhau, của Phật cũng như của chúng sanh không khác. Sở dĩ gọi nó là kho tàng bí tạng là vì nó có chứa đầy đủ tất cả các năng lực vô thường, thậm thâm, vi diệu cũng y như năng lực của Đấng Tạo Hoá vậy. Cho nên cái Chơn Linh Đệ tam thể này khỏi cần phải tu hành, y như lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: "Bổn Lai không một vật, lấy gì vướng trần ai!!!". Cái Chơn Linh này được ví như Bát Quái Đài và được vẽ tượng trưng là vòng tròn hoàn toàn trắng (tượng trưng là Bát Nhã: Chân không mà Diệu Hữu). Khi cái Tâm (Đệ Nhị Thể) của chúng ta hội nhập được vào cái vòng tròn Bổn Lai Diện Mục này thì thành Đạo!!! Cái Chơn Linh này bổn lai thanh tịnh cho nên nó cũng được ví là cái Tịnh Thất riêng của mỗi người. Chúng ta hãy nhập vào cái Tịnh Thất của chính mình mà tu luyện, chớ đừng chờ mong những cái tịnh thất hữu vi gạch ngói nữa!!! Cái Tịnh Thất của chính mình mà không hội nhập vào được thì đừng kiếm Tịnh Thất nào khác cho uổng công.

Tóm lại, mỗi người đều có 3 cái thể: Thể xác, Chơn Thần và Chơn linh, tức là: Tướng, Tâm và Tánh. Hay nói cách khác đi, mỗi người đều có một cái nhà riêng, một cái thánh thất riêng và một cái tịnh thất riêng của mình, mặc sức cho chúng ta tu bổ, sơn phết và sử dụng tự do thoải mái!!! Bài thuyết giảng này của Bổn Tánh Thánh Chủ Diệu Không Thiền Sư, do S.H. ghi lại để giữ gìn kho tàng bí tạng Như Lai!!!

BẢNG PHỤ LỤC TAM THỂ

THỂ XÁC

CHƠN THẦN

CHƠN LINH

Tinh

Khí

Thần

Cửu Trùng Đài

Hiệp Thiên Đài

Bát Quái Đài

Tướng = cái nhà

Tâm = Thánh thất

Tánh = Tịnh thất

Xác

Thức thần

Ngươn thần

Sanh hồn

Giác hồn

Linh hồn

Tăng

Pháp

Phật

Cái khung xe

Con ngựa

Ông chủ xe

Sa Ngộ Tịnh

Trư Ngộ Năng

Tôn Ngộ Không

Vạn Pháp Cung

Trí Giác Cung

Trí Huệ Cung

Âm

Dương

Thái Cực

Thể xác

Hạ trí

Thượng trí

Bất động

Năng động

Chủ động

Hóa thân

Báo thân

Pháp thân

Thể xác

Hồn

Thánh Linh

Tam Thập Lục Thiên

Cực Lạc Thế Giới

Bạch Ngọc Kinh

Thể xác

Tâm trí

Tâm linh

TÂM LÀ GÌ

Thánh Ngôn:

Dò theo đường chánh chớ sai lầm!

Biết Đạo cần trau một chữ Tâm!

Tiên Phật nơi mình đâu phải khó!

Khó do chẳng trọn tấm chơn thành!

\

Ai ai cũng nói đến tu tâm, nhưng Tâm là gì? Ở đâu? Xưa nay đã tốn rất nhiều giấy mực rồi !!! Bây giờ phải tốn thêm một lần giấy mực nữa!!!

Người xưa thường nói con người có tam hồn thất phách! Thất phách là 7 cái luân xa tức là 7 cái huyệt đạo trong thân của mình. Còn tam hồn là gì? Đó là Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn. Đó chính là 3 cái tâm của con người!!! Trời! Một cái tâm mà tu còn muốn chết! Nay lại nói có tới 3 cái Tâm lận!!! Thật lạ lùng.

1. Đệ nhất Tâm: Đây là quả tim bằng thịt cụ thể rõ ràng. Quả tim này có nhiệm vụ bơm máu đi nuôi dưỡng khắp cơ thể, lo sự sống, sự sanh tồn cho cơ thể, cho nên ta gọi nó là Sanh hồn! Thể pháp trong Đạo Cao Đài gọi nó là Vạn Pháp Cung. Đúng nó là Vạn Pháp Cung rồi bởi vì trong máu huyết có chứa đủ vạn pháp nào là rau quả, nào đậu hủ tương chao, nào là thịt cá gà vịt tôm cua đủ thứ không thiếu món nào!!! Cái Tâm thứ nhứt này có nhiệm vụ lo về TINH là một trong Tam Bửu Tinh Khí Thần. Cách tu Tâm này là ẩm thực tinh khiết!!!

2. Đệ nhị Tâm: Cái Tâm thứ nhì này là Trung tâm thần kinh hệ, hay là Trung tâm Bộ não. Cái Tâm này có tư tưởng, có tư duy, có phân biệt nên cổ nhân gọi là Giác hồn. Thể pháp trong Đạo Cao Đài gọi nó là Trí Giác Cung! Đúng nó là Cung Trí Giác vì nó có chứa sự hiểu biết, tri thức, giác ngộ! Thánh Ngôn dạy rằng: Bộ đầu chứa khí nên cái Tâm này vừa hữu hình, vừa bán hữu hình, có nhiệm vụ lo về KHÍ (Thần lực) là một trong Tam Bửu Tinh Khí Thần. Cách tu Tâm này là tư tưởng tinh khiết!!!

Thường thường người ta đề cập đến chữ TÂM trong lời nói hoặc trong Kinh điển, đó là ám chỉ cái Tâm thứ nhì này đây. Nói tu tâm cũng là nói tu cái Tâm thứ nhì này vậy!

Tu Tâm tức là huấn luyện cái trí não của mình, huấn luyện cái Chơn Thần của mình, huấn luyện cái Tâm thức của mình sao cho đạt được mấy yêu cầu sau đây:

- Tâm đạt được sáng suốt trí tuệ.

- Tâm đạt được thanh tịnh an lạc.

3. Đệ tam Tâm: Cái Tâm thứ ba này là Chơn Tâm, là Phật Tánh, là Bổ Lai Diện Mục, là Chơn Linh, là Lương Tâm... Cái Tâm thứ ba này rất huyền diệu linh thiêng nên được gọi là Linh hồn. Thể pháp trong Đạo Cao Đài gọi nó là Trí Huệ Cung! Đúng nó là Cung Trí Huệ vì tự nó có đầy đủ Trí Huệ Bát Nhã, không cần phải tu tập mới có!!! Khi nó (Chơn linh) ngự vào Chơn Thần (Tâm thứ nhì) thì Chơn Thần sẽ được an lạc sáng suốt. Tuy nhiên không dễ gì Chơn Thần (Tâm) được Chơn linh ngự vào một cách trọn vẹn đâu!!! Tại vì Chơn Thần của chúng ta còn quá nhiều tập khí xấu xa trọng trược!!! Do đó chúng ta cần phải tu Chơn Thần tức là tu Tâm thì mới mong Chơn Thần hiệp nhứt được với Chơn Linh mà thành Đạo vậy!!! Cái Tâm thứ ba này có nhiệm vụ lo về THẦN trong Tam Bửu Tinh Khí Thần.

Tóm lại mỗi người có 3 cái Tâm: Quả Tim, Tâm Bộ Não và Lương Tâm.

LƯỚI TRỜI

Thánh Ngôn:

Thầy đã nói rằng nơi thân phàm của các con, mỗi đứa đều được Thầy cho một Chơn Linh (Điểm Linh Quang, Lương Tâm) theo gìn giữ cái Chơn Mạng sinh tồn. Đấng Chơn Linh ấy vốn vô tư mà lại được phép thông công cùng cả Chư Thần Thánh Tiên Phật và các Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều được ghi chép không sai, đặng dâng lên cho Tòa phán xét!!! Bởi vậy cho nên một mảy cũng không qua được, dữ lành đều có trả!!! Chơn Linh ấy chẳng phải chỉ lo giữ gìn các con mà thôi, lại còn lo dạy dỗ các con nữa! Người đời thường gọi Chơn Linh ấy là Lương Tâm đó!!!

Kinh cúng:

Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo!

Nhờ ơn trên bổ báo phước lành!!!

\

? Sách xưa có câu: Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu!!! Lưới trời lồng lộng mà một mảy lông cũng khó lọt!!! Nói đến Lưới Trời thì ai cũng ngán nhưng không có ai thấy cụ thể Lưới Trời nên cứ mãi phạm lỗi lầm sa đọa mà không sợ Lưới Trời!!! Nghe nói thì ngán nhưng không thấy nên không sợ!!! Không sợ nên cứ mãi gây ra nghiệp chướng mà phải bị luân hồi mãi mãi!!!

Cứ đọa mãi ta bà!

Biết bao giờ thoát ra!!!

Mỗi một con người đều có 3 thể. Hai thể thấy được rõ ràng là thể xác và Chơn Thần (Bộ Não). Còn thể thứ ba vô hình, vô ảnh, không thấy được, rờ được, đó là Chơn Linh!!! Chơn Linh đó tức là Linh hồn của mỗi người! Nói khác đi thì mỗi người đều có một linh hồn riêng tức là có một Chơn Linh riêng. Chơn Linh đó chính là Điểm Linh Quang mà Thượng Đế ban cho mỗi người chúng ta. Chơn Linh đó chính là một vị Đại Sư rất chân chính có tên gọi là Lương Tâm vậy. Vị Đại Sư này có nhiệm vụ luôn luôn theo gìn giữ cái Chơn Thần và thể xác của chúng ta.

Đại Sư còn có nhiệm vụ dạy dỗ chúng ta nữa. Do đó, nếu chúng ta muốn học Đạo thì cứ tìm đến ngay vị Đại Sư này, đừng tìm đâu xa mà uổng công! Đại Sư này chính là Chơn Sư riêng của mỗi người chúng ta, có nhiệm vụ giữ gìn, dạy dỗ chúng ta, nhất là có nhiệm vụ ghi chép, thu thanh, thu hình tất cả các hành tàng thiện ác, lớn nhỏ của chúng ta để dâng lên đầy đủ cho Tòa phán xét!!! Nhiệm vụ của Đại Sư cũng giống y như nhiệm vụ của một điệp viên vậy!!! Ghi chép hết không sai một mảy cũng không bỏ sót một mảy lông! Mỗi người có một Lương Tâm riêng, nói khác đi thì mỗi người đều có một điệp viên của Thượng Đế theo dõi một kèm một!!! Như vậy chúng ta làm sao thoát được Lưới Trời chớ!!! Điệp viên đó chính là Lương Tâm của mỗi người vậy!!! Nói đến Lương Tâm là nói đến sự sáng suốt, là nói đến sự công bình chánh trực! Không có một điều gì mà qua khỏi được con mắt của Lương Tâm (Thiên nhãn)! Chúng ta đi đến đâu, Lương Tâm theo đến đó! Chúng ta ở trên lầu cao, ở trong rừng thẳm, ở trong hang sâu, ở một chỗ không có một bóng người thì cũng không tránh khỏi con mắt của Lương Tâm!!! Một kèm một mà!!! Hơn nữa, Lương Tâm là một Đấng Trọn Lành, có đầy đủ trí huệ, thần thông lại được Thượng Đế tức là Đại Từ Phụ giao cho 3 nhiệm vụ quan trọng:

1. Tiểu Từ Phụ: Thương yêu giữ gìn chúng ta.

2. Chơn Sư: Dạy dỗ chơn lý đạo đức cho chúng ta.

3. Điệp viên: Theo dõi ghi chép tất cả các hành tàng thiện ác của chúng ta.

Như vậy thử hỏi chúng ta có tài nào thoát khỏi được Lưới Trời không? Chắc chắn là không!!! Lưới Trời lồng lộng mà một mảy lông cũng khó lọt là như vậy!!!

Tâm kệ:

Nhân nào quả ấy!!!

Không cấy đừng trông!!!

Không gây đừng sợ!!!

 

VƯỜN NGẠN UYỂN

Kinh Đệ Nhất Cửu:

Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo!

Khối hình hài đã chịu rã tan!

Bảy dây oan nghiệt hết ràng!

Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương!

\

Quí Cao hữu đã biết cái Vườn Ngạn Uyển ở đâu chưa? Nếu chưa, chúng ta hãy cùng đi tham quan Vườn Ngạn Uyển để biết rõ mà ứng dụng vào việc tu hành, tránh điều mê tín.

Ý nghĩa thứ nhất: Vườn Ngạn Uyển ám chỉ chính là cái thể xác của chúng ta. Cái thể xác tức là khối hình hài của chúng ta, nó được ví như là một Vườn Ngạn Uyển. Đã mang danh là Vườn Ngạn Uyển thì chúng ta phải ẩm thực tinh khiết, toàn là kỳ hoa, dị thảo!!! Chúng ta đừng ăn cỏ dại, cỏ hoang cũng đừng để gà vịt trâu bò, rắn rít vào quậy phái cái Vườn Ngạn Uyển của chính chúng ta nữa!!! Nếu không khéo rào dậu giữ gìn, cái khối hình hài của chúng ta sẽ trở thành một cái vườn hoang đầy rắn rít cỏ dại, chớ không phải là một Vườn Ngạn Uyển đúng nghĩa. Chính nhờ cái khối hình hài này (Vườn Ngạn Uyển) mà chúng ta tu hành tạo được trí huệ, tạo được Bát Nhã (Sanh ra HOA). Nếu để nó héo tàn hoặc rã tan thì chúng ta không còn phương tiện để tu hành nữa. Vườn Ngạn Uyển đã héo tàn tan rã thì làm sao nó sanh ra HOA được nữa. Cho nên chúng ta phải chăm sóc giữ gìn Vườn Ngạn Uyển cho lắm mới được!!! Nói khác đi chúng ta phải chăm sóc giữ gìn cái sức khoẻ thể xác của chúng ta mới được!!!

Ý nghĩa thứ nhì: Vườn Ngạn Uyển ám chỉ cái Tâm của chúng ta. Cái Tâm đây là Bộ Não, là cái hạ trí, là cái Chơn Thần của chúng ta. Nếu cái Tâm của chúng ta chứa những tư tưởng tinh khiết, thanh cao, thương yêu, hỉ xã, chứa toàn là Phật thì cái Tâm đó mới xứng đáng là một Vườn Ngạn Uyển!!!

Còn như cái Tâm của chúng ta chứa đầy những tư tưởng nặng trược đê tiện rắn rít thì nó chính là một cái vườn bỏ hoang.

Do đó, ngoài việc giữ gìn sức khoẻ, chúng ta còn phải tu TÂM nữa mới được! Tu Tâm tức là tu Trí huệ, tu Thiên đạo hay nói cách khác là lo khai mở tầng Thiên của chính mình vậy!!!

 

BẢO SANH

Thánh Ngôn:

... Lòng đạo đức của con Thầy thấy rõ. Nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến. Thầy không muốn cho con hao tài, tốn của mà gìn giữ sự giả dối nữa! Chẳng cần chi con lo lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi tiết. Con hiểu bổn nguyên BẢO SANH là bổn nguyên Thánh Chất của Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho NHƠN SANH mà thôi, còn phần hồn để cho Thầy!

Thánh Thi:

Nghiệp thành: trước đã có ơn trên!

Công quả ĐỘ SANH khá vẹn đền!

Đạo đức gìn soi gương trí tuệ!

Nguồn đào đoạt vị mới hầu nên!

Kinh Đại Tường:

Tạo Đời, cải dữ ra hiền!

BẢO SANH nắm vững, diệu huyền Chí Tôn.

\

Vào cái thời mạt pháp này, thì không có cái gì là tồn tại cả!!! Vạn hữu tướng đều phải vô thường!!! Dù cho ngay tại Hộ Pháp Đường! Ngà voi và Mão quí cũng phải mất!!! Do đó, cái thời kỳ âm thanh sắc tướng giả dối đã qua và phải qua!!! Quí Cao hữu chẳng cần chi lo lập Thánh Thất hay sùng tu Phật tượng chi tiết, làm cho hao tài tốn của mà tạo ra sự giả dối nữa!!! Thời kỳ chân thật đã đến. Quí Cao hữu cần phải thực tế mới đúng là thời vị!!! Cái thực tế của thời kỳ này là gì?

Đó là công quả: ĐỘ SANH!!! Tức là công quả: Cứu đói con người!!! Bảo vệ sự sống cho mọi người là lo cho Nhơn Sanh, là Bảo Sanh vậy!!!

Bảo Sanh là bảo vệ sự sống của mọi người cho khỏi đói, đó là công quả thực tế nhất, có ý nghĩa nhất mà lại đúng với Bổn nguyên Thánh Chất của Thầy, nhất là ở trong cái thời kỳ hạ ngươn mạt pháp này!!!

Cái thực tế của thời kỳ mạt pháp này là mọi người sắp đói, đang đói và đã đói!!! Do đó cứu đói là công quả khẩn cấp nhất, thực tế nhất, ý nghĩa nhất và cao thượng nhất.

Tóm lại, Thầy bảo chúng ta hãy bỏ sự giả dối tức là bỏ lối tu theo âm thanh, sắc tướng, mà hãy lo tu chân thật!!! Tu chân thật tức là tu một cách thực tế có ích lợi thiết thực chớ không còn mơ hồ mộng ảo nữa!!!

Cách tu chân thật đó là:

+ Công quả: Bảo Sanh!!! (cứu đói)

+ Công phu: Tu Trí huệ (Tu tâm = mở tầng Thiên).

\

Tâm kệ:

Hãy nhìn vào thực tại!

Lo nuôi sống hình hài!

Chớ đừng có buông trôi!

Mà đói khổ có ngày!

 

BẢN CHẤT CỦA TÂM

Thánh Ngôn:

Thầy đến độ rỗi các con, thành lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi. Thầy nói cho các con nghe: Nếu chẳng đi đến Trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ! Muốn tu Tâm cho đúng cách thì trước hết chúng ta phải hiểu rõ Bản chất của Tâm. Có hiểu rõ thì việc tu Tâm mới không mơ hồ, không mê tín. Cái Tâm của chúng ta chỉ chứa được một bản chất duy nhất mà thôi!!! Chẳng hạn lúc ta vui vẻ thì dứt khoát là không có buồn!!! Cũng vậy, nếu Tâm chúng ta chứa Phật thì dứt khoát không có Ma; nếu Tâm chứa Ma thì dứt khoát không có Phật!!! Dứt khoát là như vậy!!! Phật và Ma không thể ở chung một nhà, không thể ở chung một Tâm được!!! Nhưng... Dường như (nói là dường như vậy, chớ không phải là sự thật) chúng ta thấy trong Tâm của chúng ta Ma Ma Phật Phật ở lẫn lộn với nhau chung một nhà!!! Sự thật thì không phải như vậy (Ở chung một nhà)! Tại sao? Tại vì Phật nhảy vào thì Ma nhảy ra. Ma nhảy vào thì Phật bỏ ra đi!!! Nhảy vào, nhảy ra mau lẹ quá làm cho chúng ta tưởng lầm rằng Ma Phật ở chung một nhà!!! Nhưng thật sự thì Ma Phật vẫn ở riêng!!! Do đó, áp dụng vào việc tu tập thì chúng ta cứ cho Tâm chứa Phật (niệm Phật, niệm danh Thầy, niệm Tâm Kinh, niệm Chánh Niệm...) mãi mãi thì lũ Ma phải tránh xa mà thôi!!! Chúng ta đừng "Ngưng tu 5 phút" thì lũ Ma không thể xen vào!!! Dễ ợt, chỉ cần "Hạ quyết tâm" mà thôi!!! Cho nên, Thánh Ngôn mới có dạy: "Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!" Nói thì dễ nhưng thực hành thì khó lắm!!! Nếu dễ thì ai cũng thành Phật hết rồi!!! Vậy phải làm sao đây??? Đề nghị với Quí Cao hữu một cách sau đây: "Bất cứ chỗ nào và bất cứ lúc nào Tâm chúng ta cũng phải luôn luôn chứa một Chánh niệm duy nhất mà Chánh niệm đó phải luôn luôn hiện tiền!!!". Chánh niệm có nhiều loại tùy Tâm mà chọn, chẳng hạn như: Câu chú Thầy, câu chú Phật Mẫu... một câu Kinh, một bài Tâm Kinh ngắn...!!! Tóm lại, lúc nào Quí Cao hữu cũng phải có Chánh niệm hiện tiền!!! Nói khác hơn là không được rời Đạo Tâm!!! Nói khác hơn nữa là Quí Cao hữu không được "Ngừng tu 5 phút!!!!!!"

 

TÂM TỨC PHẬT

Thánh Ngôn:

Đen trắng hai màu! Chánh tà đôi nẻo! Mạnh sức từ chí thì nhờ, còn yếu Tâm lơi bước thì chịu!!! Ma Ma Phật Phật hai chốn riêng phần!!! thưởng phạt rồi đây cũng tới!!!

Thánh Thi:

Đạo cao thâm!!! Đạo cao thâm!!!

Cao bất cao! Thâm bất thâm!

Cao khả xạ! Hề thâm khả điếu!

Cao thâm vạn sự tại nhơn TÂM!!!

\

Sư Hương Nghiêm có bài kệ chứng ngộ:

Tiếng trúc quên sở tri!

Chẳng cần phải tu trì!

Dứt bặt mọi dấu vết!!!

Tự tại ngoài sắc không!!!

Đối với Sư Hương nghiêm lúc đã chứng ngộ công án thì việc thành Phật hóa ra dễ dàng, vì theo ông chỉ cần dứt bặt mọi dấu vết, tự tại ngoài sắc không là xong ngay!!! Còn đối với Lục Tổ Huệ Năng thì càng dễ hơn nữa, Lục Tổ dạy rằng:

Bổn Lai không một vật!!!

Lấy gì vướng trần ai!!!

Đối với hai ông thì việc thành Phật quá dễ dàng!!! Tâm tức Phật là xong ngay, chẳng cần phải tu trì!!! Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật Thích Ca cũng dạy rằng: "Chính các ngươi cũng là Phật, y như ta vậy!!!". Đức Phật đã dày công KHAI THỊ cho chúng sanh thấy rõ mà NGỘ NHẬP vào cái PHẬT TÁNH của chính mình nhưng chúng sanh không chịu tin mà cũng không dám tin nữa!!! Thôi thì đành chịu vậy!!! Còn Quí Cao hữu thì sao? Có dám tin mình là Phật không?

Đức Cao Đài cũng dạy rằng: "Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!".

Nếu muốn thì Quí Cao hữu Tâm tức Phật liền ngay đi, tin tưởng mình là Phật và chắc chắn như vậy!!! Một điều nên nhớ là Quí Cao hữu phải giữ mãi PHẬT (Câu chú Thầy, chú Phật Mẫu, câu Kinh, Chánh niệm, Tâm kinh ngắn...) ở trong Tâm mình cho đến lúc: Tâm chính là Phật, Phật chính là Tâm, ngoài Tâm không Phật, ngoài Phật không Tâm, Quí Cao hữu không còn phân biệt Tâm Phật hay Phật Tâm nữa, thì lúc đó Quí Cao hữu tràn đầy niềm an lạc rồi vậy!!!

Nói thì dễ nhưng công phu rất khó, phải dày công và nhiều khổ hạnh!!! Ngoài ra cũng cần phải có ít nhất hai điều kiện sau đây: Thứ nhất là ĐỨC TIN, thứ nhì là Ý CHÍ, thiếu ý chí thì không đi tới đâu cả, thiếu đức tin thì không thể thành Đạo được. Ý chí và Đức tin cộng lại gọi là Bộ Lôi Công. Trong Kinh Tứ Cửu có câu:

"Trừ Quái khí roi thần chớp nhoáng!

Bộ lôi công giải tán trược oan!!!"

Quí Cao hữu cũng đã biết cái tâm của mình không thể chứa một lượt hai bản chất được, không thể chứa bản chất Phật và bản chất Ma được trong cùng một một lúc!!! Bạn phải chọn một trong hai: "Đen trắng hai màu! Chánh tà đôi nẻo! Phật Ma hai phía!!!". Chính bạn phải tự chọn, không ai có quyền ép bạn được:

Lành dữ hai đường vừa ý chọn!

Lành như tòng bá! Dữ tợ hoa tươi!!!

Quí Cao hữu cũng đã biết: "Cùng một pháp tu luyện mà kết quả lại khác nhau: Kẻ thành yêu tinh! Người thành Tiên Phật! Tại cớ sao? Cũng chỉ vì có kèm theo một cái TÂM!!! Tâm Ma thì luyện thành Ma!!! Tâm Phật thì luyện thành Phật!!!"

Như vậy, nếu chúng ta nói "Tâm tức Phật" thì chúng ta cũng phải nói "Tâm tức Ma" nữa mới đúng lẽ công bình chớ!!! Đã nói Tâm tức Ma thì chúng ta cũng có quyền nói thêm "Tâm tức Thiên Đường", "Tâm tức Địa Ngục", "Tâm tức Thiên Thai", "Tâm tức đủ thứ"!!! Bởi vì vạn pháp đều do Tâm tạo mà!!! Cao thâm vạn sự cũng tại Nhơn Tâm mà!!! Thôi thì tùy ý bạn chọn.

Tâm tức... cái gì cũng được!!!

Phụ lục về Tâm tức Phật:

Tây Du Ký:

Bởi chưng phúc đức nhân gian ít!

Thành thử yêu ma rừng núi nhiều!!!

Hai câu kệ này xem qua đơn giản nhưng rất là siêu tuyệt!!! Cái nhân gian ở đây cốt chỉ là cái Tâm của chúng ta! Vì cái Tâm của chúng ta chứa ít phúc đức (chứa Phật ít quá!!!) cho nên cái phần còn lại của Tâm dĩ nhiên là phải chứa yêu ma rừng núi mà thôi!!! Rừng núi ở đây ám chỉ là cái Vườn Ngạn Uyển (thể xác) của chúng ta vì không chịu chăm sóc cho nên nó biến thành cái vườn hoang y như rừng núi hoang dã có nhiều rắn rít (yêu ma) vậy.

Do vậy, chúng ta phải cương quyết đem phúc đức (Chánh niệm...) vào Tâm cho thật nhiều, cho thật đầy tràn để cho cái Tâm không còn một khoảng trống nhỏ nào cho yêu ma chen vào!!! Đến đây thì Tâm chúng ta đã chứa đầy bản chất Phật rồi đó!!! Đây là nói về cách tu cho những người không phải là thượng căn. Còn người thượng căn thì chỉ cần Tâm tức Phật là xong ngay!!!

Tóm lại, chúng ta chỉ có 2 con đường: Thiện hoặc Ác, Lành hoặc Dữ, Chánh hoặc Tà, Phật hoặc Ma!!! Hễ chúng ta quyết tâm chọn một con đường này thì tự nhiên con đường kia sẽ bị tiêu diệt không sớm thì chầy!!! Vì lẽ nhân sinh quí thích chí, cho nên Quí bạn cứ tự mình chọn lấy một trong hai con đường!!!

 

TÂM NÀO TÒA NẤY

Tây Du Ký:

Tôn Hành Giả đánh không lại Hồng Hài Nhi, nên đi cầu cứu Phật Bà Quan Âm. Phật Bà bay đến nơi rồi bay ra khỏi Tòa Sen. Tòa Sen được để trống Hồng Hài Nhi thấy vậy mới nhảy lên Tòa Sen ngồi rồi tự suy nghĩ: À! khoái quá!!! Ta không cần tu Phật mà vẫn có Tòa Sen để ngồi!!! Trong lúc Hồng Hài Nhi đang khoái chí thì bỗng nhiên chung quanh có tua tủa những ngọn dao bén nhọn đâm vào thân thể của Hồng Hài Nhi làm cho Hồng Hài Nhi cứng đơ, không cựa mình nhúc nhích gì được!!! Đó là do phép của Phật Bà tạo ra để chế tài và thu phục Hồng Hài Nhi.

\

Qua đoạn truyện Tây Du Ký nêu trên, chúng ta thấy rõ là Tâm nào thì được ngồi Tòa Sen nấy. Tâm Phật thì được ngồi Tòa Sen. Tâm Như Lai thì được ngồi Tòa Như Lai. Tâm Ma thì phải ngồi Tòa Ma mà thôi. Tâm ác trược bụng đầy gươm đao thì phải ngồi Tòa Gươm đao mà thôi. Nếu Tâm đầy gươm đao ác trược mà cưỡng chế cướp đoạt Tòa Sen để ngồi thì chính cái Tòa Sen đó cũng vẫn biến thành cái Tòa đầy gươm đao mà thôi!!!

Tóm lại, Tâm nào thì Tòa nấy!!! Hay nói khác hơn là: Nhân nào Quả nấy!!! Lưới Trời lồng lộng mà một mảy lông cũng khó lọt!!!

 

CHÁNH-NIỆM HIỆN-TIỀN

Di Lặc Chơn Kinh:

Nhứt thiết Chư Phật tùng lịnh Di Lặc Vương Phật năng chiếu Diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng!!!

\

Chúng ta đã biết cái Tâm của chúng ta chỉ chứa được một bản chất duy nhất mà thôi. Hễ chúng ta vui thì không có buồn. Cũng như vậy, hễ Tâm chứa Phật thì không có Ma, hễ chứa Ma thì không có Phật!!! Dứt khoát là như vậy và chúng ta cũng phải tin chắc là như vậy!!! Đức tin là trên hết!!! Nếu không có đức tin thì chúng ta đừng bàn đến việc tu Tâm làm chi nữa!!!

Nhưng Tâm chứa Phật là chứa làm sao? Lấy hình của ông Phật đốt rồi hòa với nước uống phải không? Hay là lấy hình ông Phật bỏ vào trong túi áo? Hay là lấy tượng Phật nhỏ xíu bằng ngà voi đeo vào cổ?

Không phải như vậy! Đó chỉ là những hình tướng của thể pháp mà thôi!!! Chúng ta phải tu bằng bí pháp, bằng Tâm pháp chớ không phải tu bằng thể pháp sắc tướng đâu!!!

Như vậy thì Tâm chứa Phật có ý nghĩa như thế nào? Cái chữ PHẬT ở đây không có nghĩa là ông Phật. Mà chữ PHẬT ở đây có nghĩa là một tư tưởng thiện lành hoặc một câu Kinh dạy Tâm hoặc một câu thần chú hoặc một bài Tâm chú hoặc một câu Niệm Danh Phật A Di Đà hoặc một câu Niệm Danh Đức Cao Đài Tiên Ông... Nói chung lại, tất cả gọi cùng một tên là Chánh Niệm!!! Phật là Chánh Niệm! Chánh Niệm là Phật!

* Thí dụ một Chánh Niệm sau đây: "Đệ tử nguyện noi gương theo Đức Cao Đài là luôn luôn thương yêu hết thảy chúng sanh và luôn luôn tha thứ, hỉ xã đối với hết thảy chúng sanh!!!".

* Thí dụ một Chánh Niệm:

"Thương yêu là công quả!

Thanh tịnh là công phu!

Công nào cũng được cả!

Miễn lòng mình hỉ xã!!!"

* Thí dụ một Chánh Niệm khác nữa:

"Không bất bình thế sự!!!

Không bàn chuyện thị phi!!!

Không động tâm ưa ghét!!!

Trắng nghiêm thanh tịnh!!!

An lạc thái bình!!!"

Chánh Niệm có rất nhiều cũng như có hằng ha sa số Phật vậy!!! Tùy theo cái Tâm của người mà lựa chọn một Chánh Niệm cho thích hợp! Miễn sao cái Chánh Niệm đó dạy được cái Tâm của mình về một phương diện còn yếu kém của mình. Khi đã chọn được một Chánh Niệm thích hợp rồi thì chúng ta cứ cho Chánh Niệm đó luôn luôn hiện tiền ở trong Tâm của chúng ta. Ngồi trên xe đò chúng ta cũng Tâm niệm cái Chánh Niệm đó. Ngồi tại quán cà phê, tại chợ hoặc tại bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng Tâm niệm cái Chánh Niệm đó!!! Cho nên mới có lời nói là: "Chỗ nào tu (Tâm) cũng được!!!". Thánh Ngôn có dạy: "Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!". Cũng như vậy nếu chúng ta muốn tu thì bất cứ chỗ nào tu cũng được cả!!!

Quí Cao hữu Tâm niệm một Chánh Niệm trong một thời gian nào đó rồi Quí Cao hữu có thể thay đổi một Chánh Niệm khác. Cũng như Quí Cao hữu thay đổi món ăn cho khỏi ngán vậy. Cũng như Quí Cao hữu thay đổi thuốc uống cho khỏi lờn thuốc vậy!

Chúng ta lúc nào cũng chọn các thức ăn vừa bổ cho thể xác ăn. Còn đối với cái Tâm của chúng ta, tại sao chúng ta không lựa chọn các Chánh Niệm "Vừa ngon vừa bổ" để cho cái Tâm của chúng ta ăn chớ!!!!!

 

NĂNG CHIẾU DIỆU QUANG

Kinh Phụ Tế:

Cửa Cực Lạc đón đường thẳng tới!

Tầm không môn đặng đợi Như Lai!

Hào quang chiếu diệu Cao Đài!

May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh!!!

Di Lặc Chơn Kinh:

Nhựt thiết Chư Phật tùng lịnh Di Lặc Vương Phật, năng chiếu Diệu Quang, tiêu trừ nghiệt chướng.

\

Diệu Quang là ánh sáng huyền diệu có công năng tiêu trừ được nghiệt chướng!!! Trong Đạo Cao Đài có rất nhiều diệu quang như vậy. (Hào quang chiếu diệu Cao Đài!!!). Ngày hôm nay chúng ta rất may duyên gặp được Đạo Cao Đài thì chúng ta phải rốt ráo tu hành đi thì chắc chắn sẽ được siêu thoát trong lúc còn sanh tiền!!! (May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh!!!).

Đức Di Lặc Vương Phật cũng dạy chúng ta hãy siêng năng chiếu diệu quang thì sẽ tiêu trừ được nghiệt chướng và sẽ thành Phật! (Nhứt thiết Chư Phật tùng lịnh Di Lặc Vương Phật, năng chiếu diệu quang, tiêu trừ nghiệt chướng!!!).

Nhưng! Diệu quang là ánh sáng gì? Ánh sáng đèn pin chăng? Ánh sáng đèn điện chăng? Ánh sáng mặt trăng, mặt trời chăng? Không phải hết! Ánh sáng đó là ánh sáng của Chánh Niệm, ánh sáng của tư tưởng thiện lành. Nội dung ý nghĩa của một tư tưởng là ánh sáng của tư tưởng đó! Nếu một tư tưởng ác trược nặng nề thì nó chiếu ra "Hắc quang" chớ không phải là bạch quang, cũng không phải là diệu quang!

Vậy thì chúng ta nên hiểu: "Chánh niệm chính là Diệu quang! Diệu quang chính là Chánh Niệm!".

Năng chiếu Diệu quang nghĩa là lúc nào chúng ta cũng tâm niệm một cái Chánh Niệm nào đó. Chiếu hoài, tâm niệm hoài thì đâu có kẻ hở để cho Tà Niệm (Tà niệm đồng nghĩa với nghiệt chướng) lọt vào!!!

Tóm lại, Kinh Di Lặc dạy chúng ta luôn luôn năng chiếu diệu quang thì mới tiêu trừ được nghiệt chướng và sẽ thành Phật!!! Mà trong Đạo Cao Đài đã có rất nhiều Diệu quang, mặc sức chúng ta lựa chọn và năng chiếu thường ngày!!! Đại Từ Phụ cũng dạy chúng ta: "Nếu chẳng đi đến Trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà Đắc Đạo bao giờ!!!"

 

THÁI-CỰC ĐĂNG

Kinh Cúng Tứ Thời:

Huệ đăng bất diệt

Chiếu Tam thập lục thiên chi quang minh!!!

Đạo pháp trường lưu

Khai cửu thập nhị tào chi mê muội!!!

---------------------

Công tham thái cực

Phá nhứt khiếu chi huyền quang!!!

\

Cái nhà của bất cứ Cao Đạo hữu nào cũng có thiên bàn thờ thánh tượng thiên nhãn. Thiên bàn nào cũng có đèn thái cực gọi là Thái Cực Đăng!

Thái Cực Đăng luôn luôn được thắp sáng và được khuyên là không nên để Đèn Thái Cực bị tắt!!! Đèn Thái Cực luôn luôn được thắp sáng, đó là thể pháp! Còn bí pháp thì sao? Chúng ta tu là tu bí pháp chứ không phải tu thể pháp! Thể pháp là một điều cần phải có để nói lên cái bí pháp. Một khi đã hiểu cái bí pháp nằm trong thể pháp rồi thì chúng ta nên dựa theo cái bí pháp đó mà tu!!! Như vậy thì Đèn Thái Cực tượng trưng cho cái gì? Và tại sao chúng ta không nên để cho Đèn Thái Cực bị tắt?

Đèn Thái Cực tượng trưng cho sự sáng suốt, tượng trưng cho trí huệ Bát Nhã, tượng trưng cho Điều Giác Ngộ của chính mình!!! Xa hơn nữa Đèn Thái Cực tượng trưng cho cái Điểm Linh Quang, tượng trưng cho cái Lương Tâm của chính mình!!!

Điểm Linh Quang là cái Lương Tâm, là Phật Tánh, là Huệ Đăng bất diệt luôn luôn chiếu sáng Tam Thập Lục Thiên mà nói đến Đèn Thái Cực bị tắt thì làm sao mà nói được? Mâu thuẫn quá!!! Như vậy thì nói tắt là tắt làm sao? Còn nói giữ cho Đèn cháy sáng mãi là giữ như thế nào?

Đèn Thái Cực là Lương Tâm, là Điểm Linh Quang thì không bao giờ tắt!!! Nói tắt ở đây là ám chỉ chúng ta bỏ quên cái Lương Tâm của chúng ta đi, bỏ quên cái Phật Tánh sáng suốt của mình mà chạy theo cái lục dục thất tình, chạy theo cái phàm phu mê muội! Càng xa Lương Tâm (Đèn Thái Cực) thì càng u tối mê muội!!! Do đó càng trầm luân đọa lạc!!! Giữ cho Đèn Thái Cực cháy sáng mãi đồng nghĩa với: "Luôn luôn năng chiếu Diệu Quang!!!", hay nói khác hơn là: "Giữ gìn Chánh Niệm luôn luôn được hiện tiền!!!".

Chánh Niệm đó chính là Diệu Quang!!! Diệu Quang đó chính là Đèn Thái Cực!!! Đèn Thái Cực đó là MỘT CÁI CHÁNH NIỆM DUY NHẤT! Nói tóm lại, giữ gìn một cái Chánh Niệm duy nhất luôn luôn được hiện tiền trong Tâm của chúng ta thì đó gọi là: Thắp sáng mãi Đèn Thái Cực! Nếu chúng ta "Ngừng tu 5 phút" thì Chánh Niệm liền mất, Đèn Thái Cực liền tắt và Phật cũng không còn ở trong Tâm của chúng ta nữa!!! Lợi dụng cái cảnh u tối đó, lũ Ma liền nhảy vào làm chủ tình hình, xúi giục chúng ta tạo nhiều nghiệt chướng!!!

Quí Cao hữu, câu: "Công tham Thái Cực" ngoài ý nghĩa bí kíp của những người luyện Đạo, nó cũng còn ý nghĩa là: "Giữ gìn Chánh Niệm" hoặc "Năng chiếu Diệu Quang" hoặc "Chưởng Đào Tiên" (Thủ giải trường tồn) hoặc "Trụ Nguyên Tánh" (Hồn linh nhàn lạc). Nếu Quí Cao hữu siêng năng chiếu Diệu Quang (Công tham Thái Cực) thì chắc chắn đến một lúc nào đó sẽ đạt được Huệ Quang (Phá nhứt khiếu chi huyền quang). Đạt được Huệ Quang là đạt được Thái Cực Đăng, rồi bạn dùng Đèn Thái Cực đó mà chiếu sáng luôn luôn khắp 36 cõi thiên tào để khai mở giải thoát cho 92 ức nguyên nhân được ra khỏi cảnh u tối mê muội !!! (Khai cửu thập nhị tào chi mê muội).

Khi bạn có Huệ Quang, có Thái Cực Đăng, có Bát Nhã rồi thì bạn nên tập làm một vị Bồ Tát lo cứu độ chúng sanh:

"Huệ quang chiếu thấu chánh tà!!!

Chèo thuyền Bát Nhã, Ngân Hà độ sanh!!!"

Hoặc là:

"Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh eo!!!"

 

THẦN-TÚ VÀ HUỆ-NĂNG

Bài kệ của Thần Tú:

Thân như cây Bồ Đề!

Tâm như Minh Cảnh đài!

Giờ giờ cần phải sạch!

Chớ để vướng trần ai!!!

Bài kệ của Huệ Năng:

Bồ Đề chẳng có thọ!

Minh Cảnh cũng không đài!

Bổn Lai không một vật!

Lấy gì vướng trần ai!

\

* THẦN TÚ: Thần = Chơn Thần (cái tâm).

Tú = Đẹp đẽ, sáng sủa.

Chủ trương của Thần Tú là tu sửa Chơn Thần (tu Tâm) một cách từ từ tiệm tiến sao cho Chơn Thần tức cái Tâm của mình đạt được trí huệ sáng suốt!!! Điều này rất đúng theo Kinh Cao Đài:

"Chớ thái quá cũng đừng bất cập!!!

Phép tu hành, luyện tập nhiều ngày!!!"

Hoặc là:

"Ngày ngày tập sửa Tánh thành!

Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn!!!"

Như vậy thì cách tu của Thần Tú giống cách tu của Đạo Cao Đài quá đi thôi!!! Thế mà có phần khá đông các Cao Đạo hữu lại phê bình chỉ trích Thần Tú và chỉ khen ngợi Huệ Năng trong khi chính họ chưa thấy rõ bề sâu của vấn đề!!!

Một danh ngôn có câu: "Chiến thắng một vạn quân trên chiến trường thì rất dễ. Còn chiến thắng trên chính bản thân mình thì rất khó!!!" Điều đó đã chứng tỏ cái phàm Tâm của mình rất là khó trị! Cho nên muốn trị cái phàm Tâm của mình thì chúng ta phải:

- Ngày ngày tập sửa tánh thành!

- Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn!

- Giờ giờ cần phủi sạch chớ để vướng trần ai!

- Năng chiếu Diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng!

- Luôn luôn giữa gìn Chánh Niệm hiện tiền!

Quí Cao hữu có ai dám tự xưng mình đã trị được phàm tâm chưa??? Có ai dám nói mình đã dẹp được hết tham sân si và thất tình lục dục chưa???

Thần Tú viết ra bài kệ trên là để dạy cho hạng tiểu thừa và trung thừa là một phần rất đông trong chúng sanh!!! Thánh Ngôn Cao Đài cũng có dạy: "Chúng sanh ngu muội thì nhiều, còn trí huệ thì rất ít!!!" Do đó Thần Tú khuyên chúng ta (ngoại trừ các Đạo hữu Đại căn): Giờ giờ cần phủi sạch, chớ để vướng trần ai, là một điều chánh đáng và rất đúng!!! Cho nên lúc nào chúng ta cũng phải cảnh giác, cũng phải thức tỉnh, cũng phải năng chiếu Diệu quang, cũng phải giữ gìn Chánh Niệm, cũng phải thắp sáng Đèn Thái Cực mãi mãi và mãi mãi.

Hơn nữa, bài kệ của Thần Tú đã được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (Thầy của Thần Tú) khen ngợi mà lại còn bảo tất cả mọi người trong Chùa biên chép và đọc tụng  thì có lợi ích!!!

Thần Tú là đại diện cho Phái tu Thiền QUÁN, tức là công phu quán tướng, quán xét để từ từ đạt đến Trí Huệ, rồi nhờ Trí Huệ đó mà tự xét mình, tự kiểm thảo, để rồi từ từ đạt đến Thánh Đức! Đó là lối tu Tiệm Ngộ!

Tóm lại chúng ta không nên phê bình chỉ trích Thần Tú mà nên đánh giá những hậu duệ (những học trò sau này) của Thần Tú sau này bày ra âm thanh và sắc tướng để lợi dụng lòng mê tín của tín đồ!

 HUỆ NĂNG: Huệ = Trí Huệ, Bát Nhã.

Năng = Khả năng.

Huệ Năng là khả năng đạt ngay Trí Huệ!!! Tâm tức Phật liền ngay!!! Không cần phải tu hành gì cả!!! Huệ Năng chủ trương đốn ngộ thành Phật, không cần phương tiện gì hết!!! Huệ Năng dẹp qua hết một bên và buông bỏ tất cả!!!

Bồ Đề chẳng có cây!

Minh Cảnh cũng không đài!

Bổn Lai không một vật!!!

Lấy gì vướng trần ai!!!

Huệ Năng là đại diện cho Phái tu Thiền CHỈ, tức là đình chỉ tất cả, là buông bỏ tất cả, là không cố chấp bất cứ điều gì cả, thì tất đắc giải thoát!!! Điều này quá đúng!!! (Chỉ đúng đối với Đại căn thôi).

Nhưng, liệu chúng ta buông bỏ được hết tất cả không? Chắc chắn là không!!! Như vậy thì chúng ta phải tập buông bỏ từ từ!!! Buông bỏ của cải vật chất, buông bỏ thất tình lục dục, buông bỏ những kỷ niệm quá khứ, buông bỏ kiến thức...!!! Nhiều thứ cần phải buông bỏ quá!!! Cho nên chúng ta phải buông bỏ từ từ, nghĩa là chúng ta cũng cần phải học bài học của Thần Tú, chớ không được nhảy bỏ lớp đâu!!!

Trong Đạo Cao Đài, cách tu cũng tiệm tiến như vậy, phải tu từ Nhứt Cửu, Nhị Cửu... Hiệp Cửu, rồi mới tới Tiểu Tường, Đại Tường!!! Cũng phải đi từ Tiểu ngộ rồi mới đến Đại ngộ chớ!!!

Tóm lại:

* Thần Tú nói kệ về Chơn Thần (Tâm)

- Huệ Năng nói kệ về Chơn Linh (Phật Tánh)

* Thần Tú chủ trương Tiệm Ngộ!

- Huệ Năng chủ trương Đốn Ngộ!

* Thần Tú dạy tu QUÁN!

- Huệ Năng dạy tu CHỈ!

Tổng kết lại, Thần Tú là nhơn vật tương trưng cho cái Chơn Thần (cái Tâm) của chúng ta, còn Huệ Năng là nhân vật tượng trưng cho cái Chơn Linh (Phật Tánh) của chúng ta. Chơn Thần thì cần phải tu, còn Chơn Linh Phật Tánh thì khỏi phải tu!!! Cho nên, chúng ta cần phải bình tĩnh, không nên đánh giá Thần Tú một cách bừa bãi được!!!

 

TẮM THÁNH

Kinh Tắm Thánh:

.............................

Xin giữ gìn Thánh hình thanh bạch!

Xin xá ân rửa sạch tiền khiên!

Căn xưa ví dữ cũng hiền!

Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu!!!

.............................

Đừng thối chí ngã lòng trở gót,

Để cho Đời chua xót tình thương.

Trăm năm thọ khảo vĩnh trường!

Thuận căn, thuận mạng đôi đường cao thăng.

\

Quí Cao hữu hãy tự xét mình xem coi từ khi mình nhập môn học Đạo cho đến giờ phút này mình được tắm thánh mấy lần? Phần đông đều nói là chưa được tắm thánh một lần nào hết!!! Còn một số nói là có tắm thánh chỉ được một lần duy nhất vào lúc đầy tháng hoặc vào lúc thôi nôi rồi thôi cho đến bây giờ!!! Bây giờ lớn tuổi rồi, nếu xin tắm thánh chung với mấy đứa nhỏ thì mắc cỡ chết!!! Tắm Thánh một lần vào lúc đầy tháng là đủ cho suốt cuộc đời hay sao? Còn như chưa tắm thánh thì chúng ta cam chịu "Ở dơ" cho tới chết hay sao? Như vậy thì Tắm Thánh là gì?

w Lễ Tắm Thánh tại Tòa Thánh

Khi hành lễ tắm thánh cho mấy đứa nhỏ thì Đồng Nhi phải đọc tới 2 bài kinh: Trước thì đọc bài Kinh Giải Oan rồi sau đó đọc bài Kinh Tắm Thánh. Đọc kinh tắm thánh là điều dễ hiểu, nhưng trước đó tại sao lại phải đọc bài kinh giải oan?  Đây là bí pháp không dám bàn sâu!!! Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể ví bài kinh giải oan như một cục xà bông cùng bàn chải kỳ cọ cho thật sạch đất hòm trên làn da trước khi xối nước tắm lên người vậy!

w Tắm Thánh là gì?

Trước khi định nghĩa tắm thánh là gì, chúng ta nên tìm hiểu cho thật rõ hai danh từ thường gặp: Âm chất và Thánh chất!!!

Mỗi con người có 2 thể trước mắt mà chúng ta có thể thấy được (còn một thể thứ ba vô hình nữa) đó là thể xác và trí não, hay nói cách khác đó là Âm chất và Thánh chất!!!

* Âm chất: Là thể xác, là vật chất hữu hình hữu tướng, thấy được, rờ được. Chẳng hạn, cái bàn, cái ly, cái nhà, con trâu, con bò, cọng cỏ... đều gọi chung là Âm chất!!!

* Thánh chất: Chỉ về tinh thần là trí não của chúng ta, thuộc về Bá hữu hình. Cái Thánh Chất này, mà mấy bài viết ở trước, chúng ta gọi là Chơn Thần, là Hiệp Thiên Đài, mà cũng chính là cái Tâm của chúng ta vậy.

Về Âm Chất tức là cái thể xác  thì chúng ta tắm rửa hàng ngày ít nhất là 1 lần trong ngày, có khi tới 3 lần tắm trong ngày mà chúng ta vẫn chưa thấy thỏa mãn!!!

Thế mà còn về Thánh Chất tức là phần trí não tinh thần (thường gọi là Tâm) thì chúng ta lại bỏ bê không lo tắm gì hết!!! Coi chừng cái tâm của chúng ta bị dơ bẩn lắm rồi đó!!! Coi chừng cái Tâm của chúng ta bị nhiễm trược quá nhiều rồi đó!!!

Hãy cảnh giác và luôn luôn nhớ:

"Cứ noi bóng CHÍ LINH soi bước!

Gội mê đồ tắm nước Ma Ha!!!"

Hoặc nhớ:

"Nước nhành dương! Tắm gội thường! thấy Thiên Đường!!!"

Đến đây, chúng ta có thể định nghĩa Tắm Thánh là gì được rồi! Tắm Thánh là tu Tâm, là tu Trí tuệ, là năng chiếu Diệu Quang, là giữ gìn Chánh Niệm!!

w Việc Tắm Thánh bên Tây Âu

Không phải chỉ trong tôn giáo mới có việc tắm thánh, mà ngoại giáo cũng có nữa. Những người đàn bà phương tây, khi biết mình có thai thì họ liền lo việc tắm thánh ngay cho đứa con còn đang ở trong bụng của mình, chớ họ không chờ cho đứa con được sanh ra rồi mới lo việc tắm thánh!!! Điều đó được gọi là THAI GIÁO!!! Nghĩa là giáo dục con cái ngay khi nó còn là một bào thai!!! Họ thai giáo bằng cách xem những hình ảnh đẹp đẽ, cao thượng, đọc những quyển sách có tính cách giáo dục cao, xem truyện các danh nhân...

Đến đây, Quí Cao hữu có thể nói là chúng ta đã lớn tuổi, đã già và có râu ria xồm xàm thì nói tắm thánh để làm cái gì nữa!!! Quí bạn lầm rồi!!! Bạn không nghe câu: "Bảy mươi chưa gọi rằng lành" sao!!! Hơn nữa, cái thân già của bạn cũng chỉ là "Một cái thai có râu mà thôi"!!!

Tóm lại, tắm thánh là lo tu sửa cái thánh chất của mình, tức là lo tu tâm, tu trí huệ, và chúng ta phải tắm thánh hoài hoài cho đến lúc đạt Đạo và thấy được thiên đàng mới thôi!!!

\

Tâm kệ:

Đạo trời soi khắp chốn!!!

Khá biết tỉnh mộng hồn!!!

Nếu chẳng sớm trau thân!!!

Ắt có ngày cùng tận!!!

 

TẠO ÂM CHẤT

Thánh Ngôn:

Thầy nói cho các con biết: Nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong thì không thể nào các con luyện thành đặng đâu mà mong! Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều là (lập ngôn, thuyết pháp) PHỔ ĐỘ chúng sanh mà thôi!!! Như không làm đặng thế này (lập ngôn, thuyết pháp) thì tìm cách khác làm Âm chất (Phước Thiện) thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu (tức là cũng phải có tu luyện mới được) cũng có thể đạt được địa vị tối cao!!! Dầu đi lối nào (thuyết pháp, lập ngôn hoặc làm phước thiện lập đức) cũng cần phải có cái đèn thiêng liêng (Trí Huệ, Bát Nhã, Thái Cực Đăng...) chiếu rõ mới đặng vững bước!!!

\

Quí Cao hữu thường nghe nói: Người tu cần phải lập Âm Chất, chớ ít khi nghe người ta nói: người tu cần phải lo tu tạo Thánh Chất!!!

Việc tu tạo Thánh Chất là một công phu rất quan trọng, rất căn bản trong việc tu hành, vì đó là việc tu tập trí huệ (Tu Tâm dưỡng tánh) để có khả năng thuyết pháp lập ngôn!!! (Là công quả cao nhất). Vì công phu thuyết pháp lập ngôn (tạo Thánh Chất) là một vấn đề rất quan trọng, cho nên trước khi bàn đến việc tạo lập Âm Chất, chúng ta cũng nên bàn đến vấn đề Thánh Chất. Vậy Thánh Chất là gì? Quan trọng ở chỗ nào?

* Như chúng ta đã nói ở trước, Thánh Chất là trí não, là Chơn Thần, là cái Tâm của chúng ta. Tâm là Thánh Chất. Thánh Chất là Tâm!!!

Vạn pháp do Tâm tạo!!! Tâm là quan trọng bậc nhất!!! Tam giáo đều nói là Tu Tâm dưỡng tánh là cốt tủy!!! Thánh Ngôn Cao Đài cũng nói: Cao thâm vạn sự tại nhơn Tâm!!! Hoặc: Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con (cái Tâm) muốn cùng chẳng muốn mà thôi!

Chính cái Tâm của chúng ta tạo ra luân hồi chuyển kiếp!!! Cũng chính cái Tâm của chúng ta tạo ra Địa Ngục hoặc Thiên Đường!!! Tâm tức Phật mà Tâm cũng tức Ma nữa!!! Tâm tức Thiên thai Ngọc Hư Cung mà Tâm cũng tức Miền âm cảnh Ngục Môn nữa!!!

Do đó, Tâm Phật là quan trọng mà lại là quan trọng bậc nhất nữa!!! Cho nên, việc ưu tiên số một là chúng ta cần phải tu Tâm. Tu Tâm là tu trí huệ, là tạo thánh chất, là tắm thánh, là năng chiếu diệu quang!!! (mới tiêu trừ được nghiệt chướng, mới khai giải được Ngục Môn).

Quí Cao hữu cũng đã biết phần đông chúng sanh có cái Tâm (Thánh Chất) mê muội, u tối và vô minh!!! Vì thế họ chìm đắm mãi trong biển trầm khổ.

"Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm!

Mùi đau thương đã thắm chơn linh.

Dây oan xe chặt buộc mình,

Nhớt nhơ lục dục thất tình nhiễm thân!

Chịu ô trược chơn thần nặng trịu!!!

Mảnh hình hài biếng hiểu Lương Tâm!

Phong trần quen thú cung âm!

Cảnh thăng ngơ ngẩn! Lạc lầm phong đô!!!

(Kinh Giải Oan)

Đối với vấn đề Thánh Chất, chúng ta có hai việc phải làm: Tu Thánh Chất và lập Thánh Chất.

+ Tu Thánh Chất: Là tu trí huệ cho chính bản thân mình. Tu làm sao cho cái tâm của mình được sáng suốt trí huệ, đạt được Bát Nhã, đạt được Thái Cực Đăng!!!

+ Lập Thánh Chất: Sau khi mình đạt được trí huệ Bát Nhã, đạt được Thái Cực Đăng rồi thì mình nên lấy cái Đèn Thái Cực đó mà rọi sáng cho các chúng sanh đang còn mê muội trầm luân. Công phu này gọi là lập Thánh Chất, hay nói rõ hơn là "Thuyết Pháp lập ngôn". Công quả có giá trị bậc nhất, cao thượng, độ người vô lượng, đó là công quả "Lập ngôn thuyết pháp"!!! Trong Kinh Cúng Tứ Thời có chứng minh điều đó:

Đa thi huệ trạch,

Vô lượng độ nhơn!!!

Trong bài Thánh Ngôn dẫn chứng ở trên cũng có nói: "Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều là PHỔ ĐỘ (thuyết pháp lập ngôn) chúng sanh mà thôi!!!

Tuy nhiên, công quả "Thuyết pháp lập ngôn" không phải là một việc dễ làm, nếu không muốn nói là một việc rất khó!!! Không phải bất cứ ai cũng có thể lập ngôn được!!! Nếu chúng ta chưa có đủ sáng suốt trí huệ, chưa có Thái Cực Đăng mà vội đi thuyết pháp lập ngôn thì hãy coi chừng: Kẻ mù dắt người đui đi sụp xuống hố hết cả đám thì nguy!!! Cũng như Thánh Ngôn có dạy: Kẻ dốt mà dạy người dốt thì cả hai đều nói tới tận thế cũng vẫn còn dốt!!!

Nếu chúng ta quá ham lập ngôn thuyết pháp để tạo công quả dâng lên cho Đại Từ Phụ thì chúng ta nên cảnh giác và coi chừng: "Nếu một câu thất đức thì thiên niên đọa!!!" (Thánh Thơ).

Đức Đại Từ Phụ cũng đã biết công quả PHỔ ĐỘ (thuyết pháp lập ngôn) quá khó khăn và vượt ra ngoài khả năng của hầu hết chúng ta, cho nên Ngài mới có dạy thêm: "Như không làm đặng thế này (tức là lập ngôn thuyết pháp) thì tìm cách khác mà làm Âm Chất (Phước Thiện lập đức) thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu (tức là cũng phải có tu luyện mới được) cũng có thể đạt địa vị tối cao!!!

Ngoài con đường PHỔ ĐỘ thuyết pháp lập ngôn ra, Đức Đại Từ Phụ còn chỉ cho chúng ta con đường làm Âm Chất nữa!!!

* Như chúng ta đã nói ở trước, Âm Chất là chỉ về vật chất hữu hình tướng. Cái gì có thể thấy được, rờ được gọi chung là Âm Chất. Thể xác của chúng ta thuộc về Âm Chất.

Đối với vấn đề Âm Chất, chúng ta có hai việc phải làm: Tu Âm Chất và lập Âm Chất.

+ Tu Âm Chất: Là tự mình lo tu bổ sức khoẻ thể xác của chính mình, lo nạn áo cơm cho chính mình. Tóm lại, tự lo sự sống cho bản thân của chính mình thì đó gọi là tu Âm Chất.

+ Lập Âm Chất: Chúng ta phụng sự đời sống vật chất cho chúng sanh, chẳng hạn chúng sanh đói thì chúng ta cho ăn, bịnh thì chúng ta cho thuốc, lạnh thì chúng ta cho quần áo, thậm chí có một chúng sanh chết đi thì chúng ta cũng có thể cho một quan tài để lo tẩn liệm chôn cất nữa!!! Tóm lại, các việc lo cho người khác về phần vật chất, tiền bạc... thì đó gọi là LẬP ÂM CHẤT.

Lập Âm Chất tương đối dễ làm hơn lập Thánh Chất, vì chúng ta chỉ cần có tiền bạc, có sức khoẻ và có Đạo Tâm là chúng ta làm được!!! Phương tiện có bao nhiêu thì chúng ta làm bấy nhiêu, miễn sao chúng ta có Đạo Tâm là được rồi!!!

Lập Âm Chất còn được gọi là làm phước thiện để lập Đức nữa! Công quả Làm Phước Thiện Lập Đức cũng có một giá trị thật quan trọng, cao thượng, không thua gì công quả Thuyết Pháp Lập Ngôn!!!

Làm Phước Thiện Lập Đức (Lập Âm Chất) là một công quả cần kíp nhất mà cũng là thiết thực nhất trong cái thời đại Hạ ngươn mạt pháp đầy đau khổ này!!! Cho nên Đại Từ Phụ mới nói: Làm Âm Chất cũng có thể đạt địa vị tối cao!!!

Nói tóm lại, tạo lập Âm Chất là lo bảo vệ sự sống vật chất của con người. Hay nói rõ hơn là lo cứu đói, cứu bịnh và cứu nạn cho chúng sanh!!!

Tùy theo phương tiện và khả năng của mỗi người mà chúng ta lo tạo lập công quả cho mình. Hoặc là Âm Chất (lập Đức). Hoặc tạo Thánh Chất (Lập Ngôn). Hoặc tạo lập luôn cả hai: Âm Chất lẫn Thánh Chất, nếu chúng ta có đủ khả năng!!!

Lập Âm Chất           = Lập Đức       = Làm phước thiện     = Tu Phước.

Lập Thánh Chất       = Lập Ngôn     = Thuyết pháp             = Tu Huệ

\

Tâm kệ:

Có tiền lập Âm Chất!

Có Huệ lo Thánh Chất!!!

Âm Chất hưởng phước bồi!

Thánh Chất khỏi luân hồi!!!

 

TỊCH ĐẠO THANH HƯƠNG

Thánh Ngôn:

Thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến, chẳng cần chi con lo lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết!!! Con hiểu bổn nguyện BẢO SANH (bảo vệ sự sống cho muôn loài) là bổn nguyên Thánh Chất của Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho NHƠN SANH (bảo vệ sự sống của con người) mà thôi, còn phần Hồn để cho Thầy!

Kinh Đại Tường:

Tạo Đời cải dữ ra hiền!

BẢO SANH nắm giữ, diệu huyền Chí Tôn!

\

w Quí Cao hữu hãy đọc kỹ bài "Bảo Sanh" đã viết ở trước rồi hãy đọc tiếp bài này.

Ø Định nghĩa Thanh Hương: Thanh là âm thanh. Hương là hương sắc. Cái gì có âm thanh và hương sắc? Chỉ có vật chất hữu hình, hữu tướng mới có âm thanh và sắc tướng mà thôi!!!

Như vậy, tu Thanh Hương là tu theo âm thanh sắc tướng. Hay nói khác hơn là tu về vật chất!!! Tới đây, chúng ta thấy có hai lối tu Thanh Hương.

* Cách tu Thanh Hương thứ nhứt: Đó là lối tu theo cách các đệ tử hậu duệ của Thần Tú, tức là tu áo mão, tu địa vị, tu danh vọng, bày ra âm thanh sắc tướng để lợi dụng lòng tín ngưỡng cúng dường của các tín đồ!!!

* Cách tu Thanh Hương thứ nhì: Đạo Cao Đài đang ở thời kỳ Tịch Đạo Thanh Hương. Như vậy, Thanh Hương phải hiểu như thế nào đây? Như đã nói, chỉ có vật chất mới có âm thanh và hương sắc. Như vậy ở đây tu Thanh Hương phải hiểu là tu vật chất hay nói cho rõ hơn là tu Âm Chất (xem bài lập Âm Chất) tức là lo bảo vệ đời sống vật chất cho con người (Bảo Sanh).

Tóm lại, tu Thanh Hương là lo lập Âm Chất, là lo làm Phước Thiện, lo cứu đói, cứu bịnh, cứu nạn!!! Đây mới là cách tu Thanh Hương đúng nghĩa chân thật của nó. Theo ý nghĩa này thì tu Thanh Hương không phải là dễ tu!!! Chẳng hạn một số người giàu có hàng trăm cây vàng mà bảo họ mua một bao gạo, thậm chí chỉ một thùng gạo để cho những người già cả, họ cũng không làm!!! Thí dụ như vậy thì có vẻ hơi bi quan. Chớ thật ra cũng đã có rất nhiều người Đạo Tâm!!! Những người đạo tâm này thấy có người đói là cho ăn, thấy có người chết thì họ vẫn dám cho quan tài để lo tẩn liệm nữa!!! Những người tu Thanh Hương theo nghĩa này thì thật là đáng khâm phục!!! Tu Thanh Hương như vậy là tạo được một công quả thực tế nhất, có ý nghĩa nhất và cao thượng nhất, mà lại đúng với Thánh Chất Bảo Sanh của Thầy nhất!!! Cho nên Đại Từ Phụ mới có nói: "... Như không làm đặng thế này (Thuyết pháp lập ngôn) thì tìm cách khác mà làm Âm Chất (tu Thanh Hương đúng nghĩa) thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu (tức là cũng phải có tu luyện mới được) cũng có thể đạt tới địa vị tối cao!!!"

Quí Cao hữu cũng đã biết Thầy là Năng lực vô đối tạo ra sự sống cho cả càn khôn vũ trụ!!! Thầy chính là sự sống! Sự sống chính là Thầy!!! Ai dám hủy hoại sự sống hoặc làm tổn thương sự sống tức là người đó dám đụng tới Thầy (tức là Đấng Tạo Hóa) mà đụng tới Thầy thì không phải dễ!!!

Còn như Quí Cao hữu lo giữ gìn, lo bảo vệ sự sống (Bảo Sanh) của chính mình cũng như của muôn loài thì Quí bạn đó đã làm đúng theo Thánh Chất BẢO SANH của Đấng Hóa Công nhất!!! Việc làm này gọi là tu tạo Âm Chất hoặc gọi là tu Thanh Hương đúng theo nghĩa chơn thật của nó!!!

Để kết thúc bài này, xin Quí Cao hữu hãy đọc bài kệ của Đức Phật Như Lai sau đây:

Bài kệ:

Bài dịch:

Nhược dĩ Sắc Kiếm Ngã!

Nếu lấy Sắc Kiếm ta!

Dĩ âm thanh Cầu Ngã!

Lấy âm thanh tìm ta!

Thị chơn hành tà đạo!

Là người tu hành sai!

Bất năng kiến Như Lai!!!

Thì không thể thấy ta!!!

 

TỊCH ĐẠO ĐẠO-TÂM

Kinh Cúng Tứ Thời:

Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp!

Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra!

Thánh Ngôn:

Gắng sức trau dồi một chữ Tâm!

Đạo Đời muôn việc khỏi sai lầm!

Tâm thành ắt đạt đường tu vững!

Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm!

\

Trong bài trước đã nói về Tịch Đạo Thanh Hương, giờ đây phải nói đến Tịch Đạo Đạo Tâm thì mới mong không có sự thiếu sót!

Phần đông chúng ta đang chờ đợi và mong mỏi Đạo Cao Đài sớm bước qua một thời kỳ có Tịch Đạo mới, đó là thời kỳ của Tịch Đạo ĐẠO TÂM!!!

Mong mỏi Tịch Đạo Đạo Tâm để làm gì? Chắc là để đến lúc đó chúng ta lo tu Tâm dưỡng Tánh chớ gì? Tu Tâm dưỡng Tánh ngay bây giờ không được sao? Tại sao lại phải chờ tới lúc đó mới lo tu tâm? Nếu thời kỳ Tịch Đạo Đạo Tâm có đến đi nữa liệu chúng ta còn sống sót để mà tu không chớ!!!

Quí Cao hữu!!! Hai chữ Đạo Tâm đã có từ lúc mới khai Đạo Cao Đài vào năm 1926!!! Cho nên chúng ta đừng có chờ đợi, mà hãy tu Tâm ngay liền bây giờ, kẻo không kịp giờ đối với Tử thần đâu!!! Trong Kinh Cúng Tứ Thời có câu: Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp. Chữ lòng ở đây không phải là cái ruột non, ruột già hoặc là cái bao tử của chúng ta đâu. Chữ Lòng chính là cái Tâm của chúng ta đó! Như vậy thì "Đạo gốc bởi lòng" chính là "Đạo Tâm" đó. Đạo Tâm rất quan trọng cho nên nó được để trong câu kinh đầu tiên của một thời cúng!!!

Đến đây, chúng ta cũng cần bàn đến hai chữ “thành tín” trong câu kinh vì chúng nó rất là quan trọng trong Đạo tu Tâm!!!

* Chữ Thành: Thành ở đây có nghĩa là lòng nhiệt thành, là cái quyết tâm của chính mình!!! Phàm làm bất cứ việc gì, kể cả việc Đời lẫn việc Đạo, mà không có quyết tâm thì làm sao thành công được!!!

* Chữ Tín: Là đức tin, là tin tưởng. Đức tin có hai loại: Tha tin và tự tin. Tha tin là tin tưởng vào Trời Phật và các Đấng Thiêng Liêng. Còn tự tin là tin tưởng vào chính bản thân mình, tin tưởng vào chính khả năng của mình. Phàm làm bất cứ việc gì mà mình không tin có thể làm được thì chúng ta bị thất bại là một điều chắc chắn!!!

Nói tóm lại, THÀNH và TÍN là hai yếu tố, hai điều kiện thành công thật là quan trọng!!! Lại là quan trọng nhất trong việc tu Tâm dưỡng Tánh!!!

Phải có đủ hai yếu tố nói trên cộng lại thì mới chắc chắn thành công trong cái Đạo tu Tâm vậy!!!


 

CÔNG QUẢ VÀ CÔNG PHU

Thánh Ngôn:

Công quả tuy nhọc nhằn nhưng địa vị cao thượng cũng chẳng phải dễ đoạt được! Quên được bậc phẩm vô vị ở cõi trần này và có vất vả nẻo gai chông mà lần theo bước đường hạnh đức thì mới có ngày vui vẻ bất tận, mới có buổi an hưởng địa vị thiêng liêng, tránh điều phiền não, thoát đọa luân hồi, mới hưởng được non cao suối lặng với động mát rừng thanh. Nhơn sanh phải thiện tâm và hết lòng vì đạo đức mới đặng thần thánh chứng minh!!! Do đó mới thấy được ngày kết quả đặng!!!

Thánh Ngôn:

Nói tóm lại, ngày chung qui chỉ đem về dâng Thầy một chữ TÂM và những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng!!!

\

Đức Thượng Đế tức là Đại Từ Phụ có dạy rằng: "Buổi lâm chung nếu muốn về cùng Thầy thì phải có đủ hai điều kiện: Một cái TÂM (Trí huệ sáng suốt) và một SỰ NGHIỆP đã tạo ra thành cho sanh chúng!!!"

Muốn có một cái TÂM trí huệ sáng suốt thì phải có Công phu. Muốn có một SỰ NGHIỆP cho sanh chúng thì phải có lập Công quả! Muốn được về cùng Thầy thì phải có cả Công Phu lẫn Công Quả mới được!!!

Vậy Công Phu là làm sao? Còn lập Công Quả là làm cái gì?

Trước khi thảo luận rành rẽ, chúng ta có thể nói vắn tắt: Công quả là lo cho mọi người. Công phu là lo cho chính bản thân mình!

w Công quả: Là lo bảo vệ sự sống của vạn loài (Bảo Sanh) nói chung và của loài người nói riêng (Nhơn Sanh). Đó là công tác lập Âm Chất, tức là lập Đức, là làm Phước Thiện. Trong Đạo Cao Đài có cơ quan Phước Thiện. Ngoài công quả làm Phước Thiện lập Đức ra, chúng ta cũng có thể tạo lập một công quả khác: Công quả thuyết pháp lập ngôn do cơ quan hành chánh Cửu Trùng Đài đảm nhận!

Tóm lại:

Công quả = Lập Đức + Lập ngôn = Sự nghiệp về cùng Thầy.

w Công phu: Như đã nói, Công phu là lo cho chính bản thân của mình. Lo là lo những cái gì? Thứ nhất là lo sức khoẻ của bản thân được đầy đủ!!! Công tác này cũng chính là công tác làm Phước Thiện (lập Đức, Âm Chất) nhưng làm phước thiện cho chính bản thân mình (tức là lo cho vạn loại chúng sanh trong bản thân mình). Thứ nhì là công tác lo thuyết pháp lập ngôn cho 92 ức chúng sanh còn mê muội trong bản thể của chính mình!!! (Khai Cửu Thập Nhị tào chi mê muội!!!). Công việc quan trọng nhất trong Công phu là tu Trí Huệ, là tu Tâm, là tu Thánh Chất, là tắm thánh, là năng chiếu Diệu Quang!!! (xem những bài viết ở trước).

Đến đây, chúng ta có thể có một nghi vấn: Chỉ cần Công phu thôi, không đủ để đắc Đạo hay sao? Tại sao lại cần phải có Công quả nữa? Quí Cao hữu!!!

Ở vào cái thời Hạ ngươn mạt pháp này thì toàn là ác trược và khổ đau bao trùm nhơn loại!!! Biển trần khổ vơi vơi trời nước!!! Cái khổ tràn ngập không thấy đâu là bờ bến!!! Do vậy mà Đức Đại Từ Phụ khai mở Đạo Trời: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ!!!

Ngoài mở Đạo để cứu vớt sanh linh đang chơi vơi chìm đắm giữa biển khơi và để giải bớt khổ nạn cho toàn thể nhơn loại. Do lòng đại từ bi đó mà Ngài mới đặt điều kiện tiên quyết cho những ai muốn tu giải thoát là bắt buộc phải có Công quả! Có Công quả mới đặng thần thánh chứng minh, mới được Ngải điểm Đạo!!! Bài Kinh Phụ Tế có câu: "Trường sanh mầu nhiệm nơi Lò Hóa Công!!!".

Câu Kinh đó chứng tỏ cho chúng ta biết là muốn được giải thoát, muốn được trường sanh mầu nhiệm thì chỉ có Đấng Hóa Công điểm Đạo mà thôi!!! Do vậy mà các Cao hữu dù có đạt được Công phu siêu tuyệt thượng thừa đi nữa mà thiếu Công quả thì đừng có mong đạt Đạo hay Trường Sanh mầu nhiệm làm gì cho uổng công!!!

Tóm lại, nếu muốn được hội hiệp cùng Thầy thì chúng ta cần phải có cả Công Phu lẫn Công Quả mới đặng!!!

Công quả = Lập Đức + Lập Ngôn = Sự nghiệp về cùng Thầy.

Công phu = Tu Trí Huệ + Tu Thánh Chất = Cái Tâm dâng lên Thầy.

Tâm kệ:

Thương yêu là Công Quả!

Thanh tịnh là Công Phu!

Công nào cũng được cả!

Miễn lòng mình hỉ xã!!!

PHỔ ĐỘ VÀ TẾ ĐỘ

Kinh Cúng Tứ Thời:

..............................

Tiên Thiên, Hậu Thiên

Tịnh Dục ĐẠI TỪ PHỤ.

Kim ngưỡng, Cổ ngưỡng,

PHỔ TẾ Tổng Pháp Tông!!!

Thánh Ngôn (Chơn Cực Lão Sư):

... Đạo chẳng phải một hội để lo chôn thây, cũng chẳng phải mối hàng để nhóng giá, mà chư Đạo hữu hiện thời chỉ thấy Đạo có ích về hai sự ấy mà thôi!!!

\

Sau đây là mấy điều cần nhớ trước khi đọc suốt hết bài này:

* Được ý hãy quên lời: Đừng kẹt lời mà bỏ ý!

* Bất lập văn tự: Đừng cố chấp vào văn tự!

* Giải trừ kiến thức: Bỏ hết thành kiến, định kiến, sở kiến, để Tâm trống không và khách quan.

* Tập tin thư bất như vô thư: Đừng cố chấp vào cái quyển sách mà mình đã đọc!

* Chấp chỉ vọng nguyệt: Hãy ngó mặt trăng chớ đừng lo ngó ngón tay.

Một số ít Quí Cao hữu (không dám nói phần đông) chưa nhận thấy được giá trị Siêu Việt của Đạo Cao Đài nên đã bỏ Tòa Thánh Tây Ninh mà đi qua các chi phái khác!!! Thậm chí họ chạy theo các môn phái ở ngoài Đạo Cao Đài nữa!!! Tại sao vậy? Tại vì họ chỉ thấy Đạo Cao Đài chỉ là một hội lo chôn thây mà thôi!!! Thật đáng tiếc!!!

Họ không biết "Tân Pháp" của Đạo Cao Đài là bao gồm hết các pháp của tất cả các tôn giáo mà câu kinh gọi là TỔNG PHÁP TÔNG!!! Đạo Cao Đài chấn hưng và tổng hợp hết tất cả các giáo lý của mọi tôn giáo!!!

Đúng là Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi mà!!! Có cả một quyển Kinh Vô Tự (Bạch Ngọc Kinh) khổng lồ chứa toàn là Bí Pháp và Tâm Pháp!!! Chẳng những có kinh Vô Tự mà còn có kinh Hữu Tự nữa!!! (Kinh Thiên và Thế Đạo). Trong quyển Kinh Hữu Tự cũng có chứa đầy Bí Pháp và Tâm Pháp nữa!!!

Ngày xưa, trong truyện Tây Du Ký Thầy Tam Tạng đi Tây phương chỉ thỉnh được kinh hữu tự mà thôi. Còn ngày nay trong Đạo Cao Đài có đầy đủ hai loại kinh: Hữu Tự và Vô Tự. Như vậy thì chúng ta rất có may duyên gặp được Đạo Cao Đài mà không chịu ở lại tại đây để tu, lại chạy Đông chạy Tây để tìm cái gì nữa!!!

Sở dĩ, chúng ta chưa thấy được Bí Pháp, chưa thấy được Tâm Pháp là tại vì chúng ta chưa có trọn lòng tin (chữ TÍN đã nói ở bài trước) và thiếu lòng chí thành (chữ THÀNH). Trong Thánh Ngôn có dạy: "Thầy không bao giờ không cảm ứng đối với những lời cầu nguyện chơn thành... Con chỉ cầu nguyện Thầy với danh hiệu CAO ĐÀI thì sẽ có sự cảm ứng chấp thuận".

Bây giờ chúng ta nói đến hai chữ PHỔ TẾ trong cái Tổng Pháp Tông của Đạo Cao Đài.

PHỔ ĐỘ: Là thuyết pháp lập ngôn, thuộc nhiệm vụ của Chức Sắc Cửu Trùng Đài. Thuyết pháp làm sao cho mọi người ngoại đạo thấy được chơn lý mà nhập môn vào Đạo tu hành. Công quả phổ độ rất lớn vì nó giúp cho chúng sanh thấy được Đạo Trời mà được giải khổ rồi sau đó đi tới được giải thoát!!!

TẾ ĐỘ: Là cứu đói, là cứu bịnh, là cứu khổ, là cứu nạn, là bảo vệ sự sống của Nhơn sanh. Có thực mới vực được Đạo! Có tế độ Nhơn sanh được no ấm thì họ mới đủ sức để nghe lời thuyết pháp Phổ Độ được!!! Còn như họ đang bị đói (tức là chúng ta không lo tế độ họ) mà thuyết pháp phổ độ họ thì cũng vô ích mà thôi!!! Cho nên, Tế Độ và Phổ Độ phải hợp tác chặt chẽ với nhau: tế độ đi trước, Phổ độ tiếp liền theo sau. Do đó, mà trong Đạo Cao Đài có lập một cơ quan được gọi tên là "Cơ quan Phổ Tế".

Tóm lại, việc Phổ độ là nhiệm vụ của Chức Sắc Cửu Trùng Đài. Việc Tế độ là nhiệm vụ của Chức Sắc Phước Thiện. Một điều quan trọng là chức sắc hai bên (Phước Thiện và Cửu Trùng Đài) phải đồng tâm hiệp lực lại thành một khối để cùng chung lo việc phổ tế chúng sanh. Điều này đúng với Thánh Ý của Đại Từ Phụ nhất!!!

BẠCH NGỌC KINH

Kinh Cầu Hồn:

Dù đường thoát tục nắm phan,

Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn!

Kinh Cầu Siêu:

Cửa Tây Phương khá bay đến chốn!

Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu!

Tiên phong, Phật cốt mỹ miều!

Vào Kinh Bạch ngọc lễ triều Chí Linh!

Kinh Ngũ Cửu:

Lần vào cung Ngọc diệt hình,

Khai kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên!

Kinh Nhập Hội:

Thuận Nhơn Tâm ắt thuận Trời,

Câu kinh Vô Tự độ người thiện duyên!!!

Thánh Ngôn:

Thầy chỉ có một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh Đức của Thầy! Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Tam Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh!!! Kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi đặng!

\

Như trong bài trước đã nói, Đạo Cao Đài có tới hai loại kinh:

1/ Kinh Hữu Tự: là Kinh có chữ, đó là quyển Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

2/ Kinh Vô Tự: là Kinh giấy trắng, không có chữ, đó là quyển "Bạch Ngọc Kinh".

Trong bài này, chúng ta sẽ bàn đến quyển Kinh Vô Tự này!!! Nếu có quyển Kinh Vô Tự thì nó ở đâu và ai đang gìn giữ quyển kinh Vô Tự này?

Trước khi đọc suốt bài này, Quí Cao hữu phải thật khách quan, thật bình tĩnh và bỏ hết các định kiến, thành kiến, kể cả các thiên kiến cùng các kiến thức có sẵn. Nói gút lại, Quí Cao hữu phải "Giải trừ kiến thức" trước khi đọc bài này.

Bạch: Là trắng, là không có gì hết!

Ngọc: Viên ngọc thì trong suốt, không có lợn cợn một thứ gì hết!!!

Kinh: Là quyển Kinh.

Như vậy thì Bạch Ngọc Kinh là một quyển kinh trắng bạch, trong suốt!!! Hay nói rõ hơn, Bạch Ngọc Kinh chính là Quyển Kinh Vô Tự!!! Câu Kinh Vô Tự độ người thiện duyên mà bạn!!!

Quyển Kinh Vô Tự này hiện đang được một vị chức sắc cao cấp nắm giữ. Đó là Đức Quyền Giáo Tông của Đạo Cao Đài!!! Quí Cao hữu không tin ư? Hãy bình tĩnh mà đọc tiếp!!!

Quí Cao hữu khi đi ngang qua Tòa Thánh, hãy nhìn lên mặt tiền Tòa Thánh, bên tay mặt, có thánh tượng Đức Quyền Giáo Tông mà trong tay của Ngài có cầm một quyển sách. Bất cứ một ai đó ngang qua Tòa Thánh, đặc biệt đối với các tín đồ Cao Đài, Đức Quyền Giáo Tông cũng đều nhắn nhủ: "Này các em, Tòa Thánh mà các em thấy trước mắt đây chính là một Quyển Kinh Vô Tự, trong đó có chứa đựng rất nhiều Bí pháp và Tâm pháp để giúp các em biết đường mà qui hồi về cựu vị".

"Nhập Thánh Thể dò đường cựu vị,

Noi Chơn Truyền khử quỉ trừ ma!!!"

(Kinh Giải Oan)

Sau đây là một số câu kinh hoặc thánh thi để chứng minh Tòa Thánh chính là Vô Tự Kinh.

" Đưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó!

Theo chơn giỏi bước níu sau Thầy!!!"

(Phép sanh tồn = Bí pháp giải thoát trong Tòa Thánh)

"Dìu đường thoát tục nắm phan!

Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn!"

(Trông Kinh Bạch Ngọc = Đọc quyển Kinh Vô Tự: Để thấy được Bí pháp mà lo định thần giải căn)

"Lần vào Cung Ngọc diệt hình!

Khai Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên!!!"

(Khai kinh Vô Tự = Đọc được kinh Vô Tự = Khai mở được trí huệ = Cho nên nhìn thấy được quả duyên)

"Thuận nhơn Tâm, ắt thuận Trời!

Câu Kinh Vô Tự độ người thiện duyên!"

(Chỉ có người thiện duyên mới đọc được Câu Kinh Vô Tự mà thôi!!! Người thiện duyên là người có Tâm thánh đức thiện lành và có duyên gặp được Đạo Trời!!! Còn những kẻ ác trược, ích kỷ thì làm sao đọc được Vô Tự Kinh!!! Đối với kinh Hữu Tự có in chữ rõ ràng mà họ đọc còn không hiểu thay thì nói chi đến đọc Kinh Vô Tự!!!).

Quí Cao hữu!

Kinh Vô Tự rất là khó đọc, khó hơn tất cả ngoại ngữ trên thế giới nữa!!! Anh ngữ, Pháp ngữ, Hoa ngữ... Quí bạn có thể tìm Thầy, tìm trường để học, chớ còn đối với Vô Tự ngữ thì chúng ta phải chào thua thôi!!! Nói như vậy có bi quan lắm không?

Quí Cao hữu đừng có vội bi quan!!! Quí bạn vẫn có thể học được Vô Tự ngữ, nếu Quí bạn nhiệt thành muốn học!!! (Thánh Ngôn có dạy: Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi).

Chúng tôi sẽ giới thiệu cho Quí bạn một Trường dạy Vô Tự ngữ và có Thầy hướng dẫn nữa.

Trường dạy Vô Tự ngữ: Đó là "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ", gọi tắt là Đạo Cao Đài.

Ông Thầy của Trường: Là ông Thầy trời! Là Đức Thượng Đế, Là Đức Cao Đài Tiên Ông!!! Là Giáo Chủ của Đạo Cao Đài!!! Mở Đạo lần ba kỳ này, chính bản thân Đức Chúa Trời xuống thế, không giao chánh giáo cho tay phàm nữa!!! Đức Thượng Đế cũng dạy: Thầy hằng ở bên các con để giữ gìn và dạy dỗ các con. Thầy luôn luôn cảm ứng đối với những lời cầu nguyện chơn thành của các con!!!

Quí bạn thấy chưa, chúng ta cứ đăng ký ghi danh vào Trường đi thì sẽ có ông Thầy Trời hướng dẫn dạy dỗ chúng ta liền!!! Nhưng Quí bạn phải đăng ký với lòng chí thành và trọn vẹn Đức tin mới được!!!

Khi Quí bạn đã ghi danh vào Trường để xin được học Vô Tự ngữ thì ông Thầy Trời sẽ dạy Quí bạn liền một điều đầu tiên: "Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh".

Cái câu dạy đầu tiên đó, Đại Từ Phụ có ý muốn nói với chúng ta rằng:

Muốn đọc được Kinh Vô Tự, tức là muốn đọc được Bạch Ngọc Kinh thì hãy thương yêu đi, hãy đại từ đại bi hỉ xã đi!!! Mà phải thương yêu thật sự, thương yêu bằng con tim chớ không phải bằng lý luận!!! Thương yêu không điều kiện!!! Thương yêu do lòng đại từ đại bi mà có!!!

Đến đây, Quí Cao hữu có thể đặt ra một nghi vấn; Tại sao sự thương yêu thì đọc được Bạch Ngọc Kinh? Còn sự thù hận thì sao? Có đọc được Bạch Ngọc Kinh không?

Quí Cao hữu!!!

Sự thù hận làm cho chúng ta nổi giận, làm cho chúng ta lo lắng, bực dọc, ăn ngủ không yên!!! Sự thù hận làm cho chúng ta tản thần, tạo ra sự ngu si thì làm sao đọc được kinh! Kinh có chữ còn không đọc được thì đừng nói chi đến kinh không chữ!!!

Còn khi chúng ta thương yêu hỉ xã thì chúng ta được thoải mái, nhẹ nhàng, không có điều chi lo sợ, nên chúng ta luôn luôn được bình tĩnh, sáng suốt và phát triển trí huệ!!! Có trí huệ thì kinh gì cũng đọc được kể cả Bạch Ngọc Kinh!!! Nói cho cùng thì khi chúng ta thật sự thương yêu mà chưa đọc được Bạch Ngọc Kinh thì các Đấng cũng mặc khỏi cho chúng ta thấu hiểu được các Bí Pháp cũng như Tâm pháp trong cuốn Bạch Ngọc Kinh đó.

Thầy cũng có dạy: Sự thương yêu cũng là chìa khóa mở cửa Tam Thập Lục Thiên và Cực Lạc Thế Giới!

* Tam Thập Lục Thiên: Chính là cái thể xác của chúng ta mà bên Đạo Phật gọi là 36 khối bất tịnh! Cái thể xác của chúng ta có chứa 92 ức chúng sanh còn mê muội (Cửu Thập Nhị tào chi mê muội) mà chúng ta phải có nhiệm vụ khai sáng chúng nó vượt qua khỏi vòng cửa hắc ám mê muội!!! Việc đó gọi là "Mở cửa Tam Thập Lục Thiên"!!! Chỉ có sự thương yêu mới khai sáng được "Tam Thập Lục Thiên" mà thôi!!!

* Cực Lạc Thế Giới: Chính là cái Tâm, cái Chơn Thần của mình. Tâm chính là Cực Lạc Thế Giới! Cực Lạc Thế Giới chính là Tâm!!! Ngoài Tâm, không có Cực Lạc Thế Giới, cũng như ngoài Tâm không có Phật vậy!!! Muốn khai mở Tâm cho trở thành Cực Lạc Thế Giới thì không có phương tiện (phương pháp, tâm pháp) nào hơn "Sự thương yêu"!!!

Tuy nhiên, trước khi mở cửa Cực Lạc Thế Giới (khai mở Tâm) thì chúng ta phải mở cửa Tam Thập Lục Thiên trước (tức là phải khai sáng 92 ức chúng sanh mê muội trong thể xác trước).

Tóm lại sự thương yêu là phương tiện (chìa khóa) chánh nhứt để khai sáng Tam Thập Lục Thiên, để mở cửa Cực Lạc Thế Giới và để nhập vào Bạch Ngọc Kinh!!! Đến đây chúng ta cũng nên nhắc lại một vài điều trong bài "Kho tàng bí tạng Như Lai" đã có nói về 3 thể của con người.

Đệ nhứt thể = Thể xác = 92 ức mê muội – Tam thập lục thiên!

Đệ nhị thể = Chơn Thần = Cái Tâm = Cực Lạc Thế Giới!

Đệ tam thể = Chơn Linh = Bổn Tánh = Bạch Ngọc Kinh!

Trong 3 thể của con người, chỉ có thể thứ ba mới được ví như là "Kho tàng bí tạng chứa đựng trí huệ của Như Lai". Kho tàng trí huệ đó chính là Bạch Ngọc Kinh vậy!!!

Tổng tóm lại, TÒA THÁNH là quyển Kinh Vô Tự, là quyển Bạch Ngọc Kinh, được đặt tại trần thế để cho toàn thể chúng ta nhìn thấy mà tu học, hầu đạt được những "bí kiếp võ lâm" để biết đường qui hồi cựu vị mà hội hiệp cùng Thầy!!! Hội hiệp cùng Thầy có nghĩa là về được cõi thiêng liêng hằng sống, nếu không muốn nói là chúng ta đã thành đạo!!!

\

Tâm kệ:

Cầu Siêu lúc sanh tiền!

Đừng đợi chết rồi khiêng!

Lúc đó siêu sao kịp!

Vẫn phải xuống Cửu Tuyền!!!

Bài Tâm kệ trên có ý nhắn nhủ chúng ta rằng: "Chúng ta sống là để sửa soạn chết, chớ không phải để ngồi đó mà chờ chết!!!".

HUỲNH ĐÌNH KINH

Truyện phong thần:

Nơi Bích Du Cung có câu liễn: "Đóng cửa tụng Huỳnh Đình, thiệt số thành Ngôi Chánh Quả!!!".

Kinh Di Lặc:

Hiệp chúng đẳng Chư Phật, tạo định thiên thi, tận độ chúng sanh đắc qui Phật Vị!!!

\

Đã bàn đến quyển Bạch Ngọc Kinh mà không bàn đến quyển Huỳnh Đình Kinh là một thiếu sót lớn! Tại sao? Tại vì nhờ tụng kinh Huỳnh Đình Kinh mà chúng ta được thành Ngôi Chánh Quả!!!

Như vậy, Huỳnh Đình Kinh ở đâu có? Và nội dung Huỳnh Đình Kinh như thế nào?

Khi nghe nói tụng Huỳnh Đình Kinh sẽ thành Ngôi Chánh Quả thì chúng tôi cũng MÊ lắm!!! Quyết lục lạo khắp nơi, khắp các Giáo phái, để tìm ra cho được Huỳnh Đình Kinh. Nhưng, chúng tôi thất vọng không thấy được cả xác lẫn hồn của quyển Huỳnh Đình Kinh đâu cả!!!

Huỳnh Đình Kinh có hai loại:

* Huỳnh Đình Kinh Vô Tự: Là kho tàng trí huệ Như Lai! Là Phật Tánh! Là Chơn Linh Bổn Tánh của mỗi người!!! Đó cũng gọi là Bạch Ngọc Kinh nữa!

- Đóng cửa: Dẹp lục căn của mình mà quay vào bên trong để làm bạn với Phật Tánh của chính mình.

- Tụng Huỳnh Đình: Lúc nào cũng làm bạn với Phật Tánh của mình, hay nói cách khác là lúc nào cũng thường trụ vào nguyên Tánh (Ngươn Thần) của mình dẹp lục căn (đóng cửa) và tụng Huỳnh Đình (Trụ nguyên Tánh) luôn luôn thì không thành Chánh Quả sao được!!!

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!!!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

(Kinh Phụ Tế)

 

* Huỳnh Đình Kinh Hữu Tự: Thật ra thì không có quyển Huỳnh Đình Kinh Hữu Tự. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tạo ra một quyển Huỳnh Đình Kinh Hữu Tự để phổ độ chúng sanh chớ!!! Vì phần đông chúng sanh mê muội thì rất nhiều, còn trí huệ thì rất ít. Cho nên chúng sanh rất cần có một quyển Huỳnh Đình Kinh Hữu Tự để đọc thường ngày.

Huỳnh = Màu vàng, tượng trưng cái Tâm của chúng ta.

Đình = Là đình chỉ, là thanh minh, là an lạc...

Kinh = Là quyển kinh, là câu kinh...

Huỳnh Đình Kinh là quyển kinh dạy Tâm của chúng ta. Huỳnh Đình Kinh cũng được gọi là Tâm Kinh. Tâm Kinh hay Huỳnh Đình Kinh có mục đích giúp cho chúng ta có được một cái Tâm trí huệ, thanh tịnh, an lạc và nhẹ nhàng siêu thoát!!! Nói thì nghe "Khoái" quá!!! Nhưng làm thế nào để tạo được một quyển Huỳnh Đình Kinh đây???

w Cách tạo quyển Huỳnh Đình Kinh: Trong Di Lặc Chơn Kinh có dạy: "Hiệp chúng đẳng Chư Phật, tạo định thiên thi, tận độ chúng sanh đắc qui Phật Vị!!!"

Ø Hiệp chúng đẳng Chư Phật: Ai hiệp Chư Phật đây? Chính mỗi người chúng ta tự mình phải lo hiệp chúng đẳng Chư Phật để chúng ta làm bạn với Chư Phật, thì lâu ngày tháng chúng ta sẽ thành Phật!!! Hay ít ra chúng ta cũng gần giống như Phật!!! Hễ gần mực thì đen, gần đèn thì sáng là lẽ tự nhiên!!! Nhưng làm sao hiệp được Chư Phật???

Xin đề nghị đến Quí Cao hữu một cách để hiệp Chư Phật lại. Đó cũng là cách tạo quyển Kinh Huỳnh Đình Hữu Tự!!!

Trước hết, Quí Cao hữu ra chợ mua một cuốn tập giấy trắng càng dày càng tốt, rồi Quí bạn ghi ở chính giữa trang đầu ba chữ lớn HUỲNH ĐÌNH KINH, hàng kế dưới bạn viết hai chữ nhỏ Tâm Kinh trong 2 dấu ngoặc đơn!!!

Ở trang kế Quí bạn bắt đầu hiệp Chư Phật như sau: Thí dụ, bạn đọc Quyển Kinh Kim Cang, bạn ngộ được câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Bạn thấy ý nghĩa siêu tuyệt quá thì bạn tức tốc ghi ngay liền câu kinh đó vào tập giấy trắng nói trên!!! Bạn ghi dấu chấm đen ? hoặc đánh dấu hoa thị S ở trước câu kinh đó!!! Thế là bạn đã hiệp được một ông Phật rồi đó!!! Cứ như thế bạn cứ tiếp tục hiệp thêm những ông Phật khác!!!

Ở đây, ông Phật được hiểu theo nghĩa bóng là một lời nói của Phật, hoặc một lời dạy của Phật, hoặc một câu kinh, hoặc một bài kệ...

Bạn cứ tiếp tục hiệp chúng đẳng Chư Phật cho đến khi nào cuốn tập giấy trắng của bạn không còn một khoảng trống nào hết, thì lúc đó bạn đã tạo được một quyển Huỳnh Đình Kinh rồi đó! Tức là bạn đã tạo được một quyển TÂM KINH rồi vậy!!! Lúc đó, bạn mặc sức tụng Huỳnh Đình để thành Ngôi Chánh Quả, nhưng nhớ đóng cửa lại nhé! (nhớ dẹp lục căn thì mới tụng được).

Trong Huỳnh Đình Kinh chứa toàn là lời dạy của Chư Phật. Những lời dạy đó ví như Diệu Quang của Phật, chiếu ánh sáng trí huệ huyền diệu để khai mở Tâm thức cho chúng ta. Do đó, tụng Huỳnh Đình Kinh đồng nghĩa với "Năng chiếu Diệu Quang tiêu trừ nghiệt chướng"!!! (xem lại các bài ở trước).

Ø Tạo định thiên thi: Quyển Huỳnh Đình Kinh mà bạn tạo được ở trên, đó chính là một quyển thiên thơ!!! Bạn ngạc nhiên lắm phải không? Xin bạn bình tĩnh và nhớ "Giải trừ kiến thức" để tiếp tục đọc!

Thiên chính là Tâm!!! Tâm chính là Thiên!!! Thơ là thi, là kinh, là sách. Thiên thơ được dịch ra là quyển sách dạy Tâm, là quyển kinh dạy Tâm. Hay nói cách khác hơn, quyển thiên thơ chính là quyển Tâm Kinh!!! Mà Tâm Kinh cũng chính là Huỳnh Đình Kinh!!! Như vậy:

Huỳnh Đình Kinh = Tâm Kinh = Thiên Thơ!!!

Thiên là Tâm: Đến đây, cần phải chứng minh rõ cho Quí bạn thấy chữ THIÊN có nghĩa là TÂM để Quí bạn khỏi nghi ngờ!!!

Trong Đạo NHO có dạy: "Khi Nhơn, tức khi Thiên. Khi Thiên tức khi Tâm". Do đó, THIÊN tức là TÂM vậy!!!

Trong Thánh Ngôn Đạo Cao Đài cũng có dạy:

"Nhãn thị chủ tâm

Lưỡng quang chủ tể

Quang thị thần

Thần thị thiên

Thiên giả, ngã giã!!!

Đoạn Thánh Ngôn đó cũng xác nhận THIÊN tức là TÂM!!! Đại Từ Phụ cũng có dạy: "Thầy tức là các con. Các con tức là Thầy". Hoặc: "Tâm ấy là Tòa Sen của Lão ngồi".

Như vậy Quí Cao hữu không còn nghi ngờ THIÊN tức là TÂM rồi phải không? Quí bạn phải nhớ kỹ chỗ này để sau này đọc đến bài "Thiên đạo" thì sẽ không còn "Lấn cấn" nữa!!!

Tận độ chúng sanh: Quí Cao hữu đã tạo được quyển Thiên Thơ rồi thì nên nhớ: "Đóng cửa, tụng thiên thơ (Huỳnh Đình) để tận độ chúng sanh trong bản thể của chúng ta (92 ức chúng sanh mê muội) cho chúng nó đắc qui Phật Vị hết. Chúng nó đắc qui Phật Vị hết thì điều đó có nghĩa là chính chúng ta thành Phật vậy!!!

Tóm lại, khi đã có quyển Thiên Thơ trong tay rồi thì chúng ta đừng cất kỹ trong tủ, mà hãy tụng đọc thường xuyên để tận độ chúng sanh đồng đắc qui Phật Vị!!! Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta năng chiếu Diệu Quang để tiêu trừ hết nghiệt chướng của tất cả chúng sanh!!!

ALADIN VÀ CÂY ĐÈN THẦN

Truyện Ngàn lẻ một đêm:

Ngày xưa có một vị phù thủy già, có nhiều phép thần thông, biết được ở trong cuối cùng của một cái hang sâu có một Cây Đèn Thần! Có được Cây Đèn Thần thì muốn gì có nấy!!! Cho nên vị phù thủy đó rất muốn lấy Cây Đèn Thần. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều phép tắc thần thông nhưng lão phù thủy không có đủ sức khoẻ để xuống hang sâu. Thế nên lão phù thủy mới dụ dỗ Aladin là một thanh niên trẻ tuổi và khỏe mạnh để xuống hang lấy cây đèn.

Trước khi xuống hang sâu, Aladin được lão phù thủy trao tặng một Chiếc Nhẫn Thần! Lão căn dặn Aladin: Khi gặp bất cử trở ngại nào trên đường hầm thì cứ lấy tay chà lên chiếc nhẫn thần đeo ở ngón tay áp út thì Vị thần Nhẫn sẽ hiện ra ngay và sẽ giúp cho nhà ngươi vượt qua được mọi khó khăn!!!

Aladin liền xuống hang và đi sâu vào đường hầm tối tăm, chật hẹp, đầy rẫy ma cỏ, yêu quái!!! Nhưng Aladin nhờ có chiếc nhẫn thần mà vượt qua được hết mọi khó khăn chướng ngại và cuối cùng lấy được Cây Đèn Thần!!!

Aladin trở lên miệng hang với Cây Đèn Thần!!! Nhưng khi trèo lên khỏi miệng hang thì lão phù thủy liền chiếm đoạt Cây Đèn Thần! Nhưng vật nào có chủ nấy, cho nên sau cùng Cây Đèn Thần cũng lại trở về với Aladin!!!

Aladin nhờ có Chiếc Nhẫn Thần, lại được thêm Cây Đèn Thần nữa nên Aladin càng ngày giàu sang sung sướng, an lạc và cưới được một nàng công chúa.

\

Bất cứ một người nào khi nhập môn làm Tín đồ Đạo Cao Đài, đều được Đức Đại Từ Phụ ban cho một Chiếc Nhẫn Thần!!! Quí Cao hữu còn giữ Chiếc Nhẫn Thần đó ở ngón tay áp út hay không? Hay là Quí bạn đã để lạc mất Chiếc Nhẫn Thần đó rồi!!! Hãy lục lạo tìm kiếm lại xem!!! Nó còn hay mất!!!

Đức Đại Từ Phụ đã ban riêng cho mỗi Tín đồ một Chiếc Nhẫn Thần để làm phương tiện đi lấy Cây Đèn Thần!!! Cho nên Chiếc Nhẫn Thần thật là quý báu và rất cần thiết!!! Nếu mất Chiếc Nhẫn Thần thì chúng ta không còn mong gì lấy được Cây Đèn Thần!!!

* Chiếc Nhẫn Thần: Lấy ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào ngón áp út ngay chỗ đeo nhẫn là chúng ta có ngay Chiếc Nhẫn Thần!!! Đó gọi là Ấn Tý!!! Mỗi người khi nhập môn vào Đạo là được cho Chiếc Nhẫn Thần!!! Ấn Tý là Chiếc Nhẫn Thần. Chiếc Nhẫn Thần chính là Ấn Tý!

Nếu chúng ta chỉ biết bắt Ấn Tý suông mà không biết  "Bí Kíp" của nó thì không có ích lợi nhiều trong việc tu học! Như vậy thì Ấn Tý dạy chúng ta điều gì?

Ấn Tý dạy chúng ta phải nhẫn nại (chỗ đeo nhẫn mà), phải kiên trì mới đi đến được tận cùng con đường đạo học đầy cam go, gian khổ mà lấy được Cây Đèn Thần!!! Việc tu học cũng như việc đời thường cũng đều cần đến đức tính kiên trì nhẫn nại, thì mới mong có sự thành công. Cho nên bất cứ lúc nào hoặc bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng đều có quyến bắt Ấn Tý được cả!!! (Miễn thấy cần thiết khi chúng ta gặp việc khó khăn phiền não).

Đại Từ Phụ đã ban cho chúng ta Chiếc Nhẫn Thần (Không bao giờ đòi lại) để cho chúng ta được toàn quyền, được tự do sử dụng trong bất cứ trường hợp nào!!! Ngài không hạn chế chúng ta trong việc cúng tế mà thôi đâu!!!

Chiếc Nhẫn Thần giúp chúng ta vượt qua được mọi việc khó khăn, trở ngại!!! Vậy khi chúng ta gặp việc khó khăn, trở ngại, thì chúng ta có quyền bắt Ấn Tý, không cần phải chờ đến đi cúng mới bắt!!!

* Cây Đèn Thần: Là Thái Cực Đăng, là Đèn Thái Cực ở trên thiên bàn thờ Thánh Tượng Thiên Nhãn. Cây Đèn Thần cũng chính là Huệ Quang, là Trí Huệ, là Bát Nhã, là Phật Tánh, là Bổn Lai Diện Mục của mỗi người!!! Đó gọi là Điểm Tiểu Linh Quang. Tiểu Linh Quang của mỗi người gọi là Cây Tiểu Đèn Thần! Còn cây Đại Đèn Thần chính là khối Đại Linh Quang của Đức Thượng Đế, được tượng trưng là THIÊN NHÃN!

Tóm lại, Đèn Thái Cực ở thiên bàn tượng trưng là Điểm Tiểu Linh Quang của con người (Tiểu Đèn Thần), còn THIÊN NHÃN ở Thánh Tượng thì tượng trưng là khối Đại Linh Quang của Đức Thượng Đế (Đại Đèn Thần).

Khi có được Chiếc Nhẫn Thần thì trước sau gì chúng ta cũng sẽ lấy được Cây Đèn Thần. Mà Cây Đèn Thần chính là Huệ Quang, là Trí Huệ của chính chúng ta, là kho báu vật của chính mình thì không có bất cứ ai ở cõi phàm trần này mà có thể cướp đoạt được, dù cho người đó là một Vị Phù Thủy có nhiều phù phép đi nữa!!! Cho nên, Cây Đèn Thần lại trở về với chủ của nó là Aladin, thật là một điều rất hợp lý!!!

Kho trí huệ báu vật của chúng ta không những chẳng có ai cướp đoạt được, mà trái lại, chúng ta có thể ban rãi báu vật tặng không cho mọi người, kho báu vật chẳng những không vơi đi một món nào, mà lại còn càng ngày càng đầy thêm lên!!!

Tổng tóm lại, Đức Đại Từ Phụ đã ban cho chúng ta cứ mỗi một Tín đồ là được một Chiếc Nhẫn Thần và nhiều Đạo pháp (Tâm pháp) để chính mình tự đi tìm Cây Đèn Thần!!! Có Cây Đèn Thần mới rọi đường được sáng tỏ để mà đi về hướng Giải Thoát và không còn lầm lạc nữa!!!

Nắm cây Huệ Kiếm, Gươm Thần!

Dứt tan sự thế, nợ trần từ đây!!!

(Kinh khai cửu)

 

THUYỀN BÁT NHÃ

Kinh Giải Oan:

Nhập Thánh Thể dò đường Cựu Vị,

Noi Chơn Truyền khử quỉ trừ ma.

Huệ quang chiếu thấu chánh tà!

Chèo thuyền Bát Nhã Ngân Hà độ sanh!!!

Thánh Ngôn thi:

Có thân ắt phải khổ vì thân!

Nào có sướng chi cái kiếp trần!

Kẻ trí phải lo phương giải khổ!

Tìm thuyền Bát Nhã lánh mê tâm!!!

Thánh Ngôn thi:

Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh eo!!!

\

Khi có một người thân từ trần thì chúng ta cố xin cho được chiếc thuyền Rồng (thường gọi là Thuyền Bát Nhã) để đưa linh cửu của người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng với một hy vọng là linh hồn của người quá cố được siêu thoát!!! Điều này có thật không? Chắc chắn đó là một điều mơ hồ!!! Tại sao? Là vì nếu đi thuyền Bát Nhã mà được siêu thoát thì lúc còn sanh tiền, chúng ta lo tu chi cho tốn công!!! Cứ đợi cho đến khi chết rồi cố xin cho được đi thuyền Rồng là xong việc!!! Siêu thoát hay không là do Công Phu và Công Quả mà chúng ta tạo lập được lúc còn sống kìa! Nếu lúc còn sống mà chúng ta không lo Công phu (tu Tâm) cũng không lo lập Công quả (lập Âm chất hoặc Thánh chất) thì đến lúc chết, đừng mong siêu thoát uổng công!!!

Quí Cao hữu hãy đọc bài kệ sau đây:

Cầu siêu lúc sanh tiền!

Đừng đợi chết rồi khiêng!

Lúc đó siêu sao kịp!

Vẫn phải xuống Cửu Tuyền!!!

Trước khi nói rõ con Thuyền Bát Nhã, chúng ta cũng nên nói những con sông mà thuyền Bát Nhã chèo ở trên đó: Sông NGÂN HÀ và Sông LƯU SA HÀ.

* Sông Ngân Hà:

Huệ quang chiếu thấu Chánh Tà!

Chèo thuyền Bát Nhã Ngân Hà độ sanh!!!

Nói đến con sông Ngân Hà thì phần đông ai cũng nghĩ đến dãy sao Ngân Hà trên vòm trời ban đêm, hoặc nghĩ đến truyện tích "Ngưu Lang, Chức Nữ" đứng cách xa nhau ở hai bên bờ sông Ngân!!! Nếu hiểu như vậy thì chắc chắn không có một chiếc thuyền Bát Nhã nào chèo ở trên đó đâu!!! Như vậy, sông Ngân Hà là gì và nó đang ở đâu?

Ngân: Là ngọc ngà châu báu, là vật chất, là tiền bạc... Quí bạn không có nghe câu: "Đa kim ngân phá luật lệ" sao?

Như vậy, Ngân Hà là con sông tiền bạc, là con sông vật chất, là nhà cửa ngựa xe, là cơm ăn áo mặc... là Biển trần khổ vơi vơi trời nước!!! Ai ai cũng phải lội qua sông Ngân Hà này dù lớn tuổi hay nhỏ tuổi, dù đàn ông hay đàn bà, dù biết lội hay không biết lội!!! Tất cả phải nhào xuống sông Ngân Hà mà lội!!! Không có ai được quyền đứng trên bờ sông!!! Hình ảnh một bà cụ già bưng rổ rau đi bán! Một ông già đi bán vé số! Một đứa bé đi bán cà rem! Một người mù đi xin ăn...

Sông Ngân Hà lại có bề ngang quá rộng, sóng quá to, gió quá lớn, đã nhận chìm vô số con người xuống tận đáy sông sâu ba ngàn dặm!!! Hiện đang còn hằng hà sa số con người đang chới với giữa dòng sông, chưa biết số phận của họ sẽ ra sao?

Nói như vậy chắc Quí bạn đã biết con sông Ngân Hà ở đâu rồi! Nó chính là cuộc sống của chúng ta!!! Chúng ta bị bắt buộc phải luôn luôn đấu tranh để được sinh tồn!!!

* Sông Lưu Sa hà: trong truyện Tây Du, sông Lưu Sa hà chặn ngang con đường đi Tây phương thỉnh kinh của Tam Tạng. Nơi đây Tam Tạng thu nhận một đệ tử thứ ba tên là Sa Tăng có đeo một xâu chuỗi 9 cái đầu lâu!!! Phải vượt qua được con sông Lưu Sa này, mới đi Tây phương thỉnh kinh được!!! Ngặt một nỗi, con sông Lưu Sa này bề ngang rộng không thua gì con sông Ngân Hà, cũng gió quá to, sóng quá lớn!!! Còn hơn thế nữa, nước sông Lưu Sa hà không có áp suất, bất cứ thứ gì rớt xuống đều bị chìm, kể cả chiếc lông ngỗng cũng vậy!!! Do đó, không có thuyền bè nào có thể qua sông được!!! Do không có áp suất của nước, cho nên sông Lưu Sa còn được gọi là Sông Nhược Thủy (Sông nước yếu). Hai đệ tử Ngộ Không và Ngộ Năng của Tam Tạng thì có thể đằng vân bay qua sông được! Còn Tam Tạng thì phải chào thua.

Nhưng không sao, Thầy trò Tam Tạng được Đức Phật Bà Quan Âm bay đến chỉ vẽ cho Thầy trò Tam Tạng cách đóng một chiếc thuyền đặc biệt qua được sông Nhược Thủy mà không bị chìm. Chiếc thuyền đó Đức Phật Bà gọi là THUYỀN BÁT NHÃ!!!

* Cách đóng thuyền Bát Nhã: Đức Phật Bà bảo Sa Tăng lấy 9 cái sọ người kết lại làm một cái bè. Khi làm xong, mấy thầy trò Tam Tạng đều xuống bè nhưng bè không chìm!!! Tuy chiếc bè không bị chìm nhưng chỉ nổi lềnh kềnh tại chỗ mà thôi, cũng không qua bờ bên kia được!!! Đức Phật Bà mới cho thêm một cái bầu phép màu đỏ, bảo đặt ở giữa chiếc bè.

Huyền diệu thay, sau khi chiếc bè sọ người có đặt thêm cái bầu phép màu đỏ thì nó chạy như tên bắn, phút chốc đã qua đến bờ bên kia.

Chín cái sọ người cộng với một bầu phép màu đỏ thì biến thành một chiếc thuyền Bát Nhã!!! Ý nghĩa 9 cái sọ và bầu phép màu đỏ như thế nào?

Chín cái sọ người: Một cái sọ người là một cái đầu óc, tượng trưng là một khối sáng suốt được kết tập rất lâu ngày tháng (cái bộ đầu để lâu quá chỉ còn xương sọ thôi nên gọi là cái đầu lâu!!!) Cái đầu bị mới chém còn tươi thì gọi là Thủ Cấp!!! (Thủ = Đầu, Cấp = Mới). Một cái đầu lâu tượng trưng là một khối sáng suốt thì 9 cái đầu lâu cộng lại chính là trí huệ, là Bát Nhã. Một người có trí huệ Bát Nhã thì trong cuộc sống đấu tranh sinh tồn sẽ được vươn lên, ít khi nào (nếu không muốn nói là không khi nào) bị nghèo khổ, bị đọa đày chìm đắm trong cuộc sống. Một con người có Bát Nhã trí huệ thì đó gọi là Một thuyền Bát Nhã.

Khuôn thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm!!!

Nổi quá như bông, nặng quá kim!!!

(Thánh Ngôn)

Cái bầu phép màu đỏ: Là tượng trưng cái bầu nhiệt huyết, cái lòng nhiệt thành, cái ý chí kiên cường của chúng ta. Phàm khi làm bất cứ việc gì nếu có ý chí, có nhiệt thành thì nhất định thành công!!! Nếu muốn giữ cho cái lòng nhiệt thành, cái bầu nhiệt huyết được bền vững lâu dài thì cần phải có một cái Đức tin và cái ý chí vững chắc mới được!!!

Tóm lại, sau đây là các phương tiện đóng thuyền Bát Nhã:

Trí huệ Bát Nhã + Ý chí và đức tin = Thuyền Bát Nhã!

 

9 cái sọ người + Bầu phép màu đỏ = Thuyền Bát Nhã!

Quí Cao hữu!!!

Muốn có được trí huệ Bát Nhã (9 cái sọ người) thì chính Quí bạn phải hiệp chúng đẳng Chư Phật lại (xem bài Huỳnh Đình Kinh). Chính Quí bạn phải tự làm mà thôi, không ai làm dùm cho bạn cũng không ai tu dùm cho bạn!!!

Còn muốn có được cái bầu phép màu đỏ (ý chí và đức tin) thì cũng chính Quí bạn phải tự mình rèn luyện. Ý chí và đức tin cũng phải rèn luyện thì mới có. Càng rèn luyện thì ý chí và đức tin càng vững chắc.

Tóm lại, muốn có được đầy đủ phương tiện để tạo được một chiếc thuyền Bát Nhã thì chính Quí bạn (chớ không ai khác) phải tự mình lo liệu, tự mình rèn luyện, tự mình tu tập!!! Ai tu nấy đắc, cũng như ai ăn nấy no vậy!!!

Khi chưa tu tập thì bản thân của chúng ta chính là một chiếc thuyền chài nặng nề ô trược!!! Chúng ta tu hành là để biến chiếc thuyền chài đó thành một thuyền Bát Nhã!!!

Chúng ta mỗi người phải tự tạo cho riêng mình một chiếc thuyền Bát Nhã để có mà chèo trên sông Ngân Hà, chèo trên sông Lưu Sa hà, chèo trên Biển trần khổ vơi vơi trời nước!!! Thuyền của ai nấy đi, không thể "Quá giang" thuyền của ai được!!! Nếu chúng ta thương hại chúng sanh mà cho họ "Quá giang" thì cũng không thể được là vì Thánh Ngôn có dạy: Vô duyên một đứa cũng là chìm! (Vô duyên = Không biết đạo, không lo tu hành).

Biết Đạo trăm muôn ngồi cũng đủ!!!

Không duyên, một đứa cũng là chìm!!!

(Thánh Ngôn)

 

Tổng tóm lại, tất cả chúng ta không phân biệt nam nữ, già trẻ lớn bé gì hết, ai ai cũng phải vật lộn với cuộc sống, phải đấu tranh sinh tồn. Nói cách khác, ai ai cũng phải vượt qua sông Ngân Hà, sông Lưu Sa hà, cũng phải vượt qua Biển trần khổ vơi vơi trời nước!

Không biết trải qua bao nhiêu kiếp rồi, chúng ta vẫn bị chìm đắm lặn hụp trong cái biển Trần Khổ này mà chưa lên bờ được!!! Do vậy mà Đức Thượng đế vì lòng đại từ đại bi nên khai mở Đạo Trời (Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ) để cứu vớt chúng ta!!! Đạo Trời thường được gọi là Đạo Cao Đài!!! Đạo Cao Đài chính là một chiếc THUYỀN BÁT NHÃ!!! Đạo Cao Đài sẽ giúp chúng ta tu tạo mỗi người được riêng một chiếc thuyền Tiểu Bát Nhã, rồi nhờ chiếc thuyền Tiểu Bát Nhã này mà chúng ta chèo ra đến được chiếc thuyền Đại Bát Nhã, cũng như nhờ chiếc canô mà ra đến được chiếc tàu lớn vậy!!!

Khi lên được chiếc THUYỀN ĐẠI BÁT NHÃ, tức là chúng ta đã vượt qua biển mà lên bờ vậy! Điều đó có nghĩa là chúng ta đã được Giải Thoát!!!

XÂU CHUỖI BỒ ĐỀ

Kinh Di Lặc:

* Hiệp chúng đẳng Chư Phật, tạo định thiên thi, độ tận chúng sanh đắc qui Phật Vị!

* Năng chiếu Diệu Quang tiêu trừ Nghiệt Chướng!

Bích Du Cung:

Đóng cửa tụng Huỳnh Đình!

Thiệt bậc số thành Ngôi Chánh Quả!!!

\

Quí Cao hữu đã đọc bài "Năng chiếu Diệu Quang" và "bài Huỳnh Đình Kinh" nên đã hiểu thế nào là Hiệp chúng đẳng Chư Phật để tạo định thiên thi mà độ tận chúng sanh đắc qui Phật Vị.

Hôm nay chúng ta bàn đến "Xâu chuỗi Bồ Đề" về ý nghĩa và công dụng của nó. Nội dung xâu chuỗi bồ đề cũng chính là thiên thi, sau khi chúng ta hiệp chúng đẳng Chư Phật mới có!!!

Có được xâu chuỗi bồ đề cũng như có được một quyển thiên thơ, chúng ta nên Năng chiếu Diệu Quang (lần chuỗi) để tiêu trừ được Nghiệt Chướng!!! Và chúng ta cũng nên Đóng cửa tụng Huỳnh Đình (lần chuỗi) để thành Ngôi Chánh Quả.

Trong truyện Tây Du Ký, Sa Tăng là đệ tử thứ ba của Tam Tạng, có đeo một xâu chuỗi 9 hột!!! (9 cái sọ người).

Còn trong Đạo Cao Đài, ở trong Tòa Thánh ngay chỗ Tòa Chữ Khí, có các Thánh Tượng của ba Cao Đồ của Đức Thượng đế, đó là Đức Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Cao Thượng Sanh. Cả ba Ngài đều có cầm mỗi vị một xâu chuỗi Bồ Đề, đặc biệt là Đức Cao Thượng Sanh.

Không biết mỗi xâu chuỗi nói trên có được mấy hạt bồ đề. Nhưng hôm nay, chúng tôi sẽ gởi tặng cho Quí Cao hữu một xâu chuỗi gồm có 12 hạt bồ đề!!!

Tuy nhiên, trước khi nói rõ 12 hạt bồ đề chúng tôi cũng xin định nghĩa sơ qua vài từ ngữ.

* Bồ đề: Là một loại cây có tên gọi là Bồ Đề. Chính nơi gốc cây Bồ Đề này mà Đức Thích Ca khai mở được trí huệ Bát Nhã và thành Đạo.

Do đó, hai chữ Bồ Đề được hiểu theo nghĩa rộng là sự sáng suốt, là trí huệ, là Bát Nhã, là Diệu Quang...!!! Như vậy mỗi một hột Bồ Đề tượng trưng cho một Diệu Quang, tượng trưng cho một điều sáng suốt trí huệ!!!

* Xâu chuỗi: Là lấy một sợi dây xỏ xâu các hột lại với nhau. Nếu chúng ta xỏ xâu các viên ngọc lại với nhau, thì chúng ta có một "xâu chuỗi ngọc", còn nếu chúng ta xỏ xâu các hột của cây Bồ Đề lại với nhau thì chúng ta có một "xâu chuỗi Bồ Đề"!!!

* Xâu chuỗi Bồ Đề: Hiểu theo nghĩa rộng là tập hợp lại các Diệu Quang, tập hợp lại các điều sáng suốt, là tập hợp lại các lời dạy của Phật... Hay nói rộng hơn nữa là Hiệp chúng đẳng Chư Phật để tạo định thiên thi (xâu chuỗi Bồ Đề) mà tận độ 92 ức chúng sanh còn mê muội trong bản thể của chính mình!!!

Đến đây, chúng tôi có thể giới thiệu rõ ràng 12 hột bồ đề trong xâu chuỗi mà chúng tôi hứa gởi tặng cho Quí Cao hữu đã nói ở trên:

1. TÝ          * Đệ tử cúi lạy Đức Cao Đài!!!

Xin Đại Từ Bi tha tội cho đệ tử!!!

Và xin Cứu vớt đệ tử thoát khỏi trần mê này.

2. SỬU       * Đệ tử nguyện noi gương theo Đức Cao Đài!!!

Là luôn luôn thương yêu hết thảy chúng sanh!!!

Và luôn luôn tha thứ, hỉ xã đối với hết thảy chúng sanh!!!

3. DẦN       * Được sự hỗ trợ của Đức Cao Đài!!!

Là nhất định có được một thần lực thật là Đại dũng mãnh của Bậc Đại Bồ Tát!!! Cho nên vượt qua được hết mọi chướng ngại, mọi dục vọng!!! Dứt bỏ được hết mọi phiền não!!! Và xóa tan được hết mọi ác tâm và tà niệm chung quanh.

4. MẸO      * Được hiệp nhứt với Đức Cao Đài!!!

Là đương nhiên trở thành một Đại Bồ Tát và đương nhiên đắc giải thoát!!!

5. THÌN      * Cho nên đối với ta, tất cả đều vô nghĩa!!!

Chẳng có điều chi làm cho ta động tâm!!!

6. TỴ          * Đại Bồ Tát luôn luôn bình tĩnh và thản nhiên

trước mọi biến cố và trước mọi sự cám dỗ!!!

7. NGỌ      * Đại Bồ Tát luôn luôn trang nghiêm thanh tịnh!!!

Cho nên không có gì có thể cảm nhiễm hay phiền não được cả!!!

8. MÙI       * Đại Bồ Tát là bậc Đại Giác Ngộ!!!

Nên không còn si mê hay còn vướng mắc điều gì nữa hết!!!

9. THÂN    * Đại Bồ Tát là bậc Đại Hỉ Xã!!!

Nên đã buông bỏ hết tất cả!!!

Không còn một chút gì vướng bận!!!

10. DẬU    * Cho nên vị Đại Bồ Tát luôn luôn kết bạn với Như Lai mà từ giã cảnh đọa đày.

11. TUẤT   * Thoát trần ta bước siêu nhiên!!!

Tâm không dính cảnh là Tiên trên đời!!!

12. HỢI      * Cho nên ta luôn luôn được an lạc thái bìnhnhẹ nhàng siêu thoát.

Xâu chuỗi Bồ Đề này (tức là một bài Tâm kinh, một bài Huỳnh Đình Kinh...) được ví như là cây Huệ Kiếm, là cây Gươm Thần, là cây Thiết bảng, là Phướn truy hồn, là Phan Tiếp dẫn, là Thuyền Bát Nhã, là Cầu Sông Ngân, là Cơ thoát tục, để đưa rước các Cao Đạo hữu nào hữu duyên, hữu căn, hữu phước cho thoát khỏi Bến Sông Mê mà được lên bờ Giác Ngộ!

Quí Cao hữu có thể lấy bài Tâm kinh này làm một xâu chuỗi Bồ Đề 12 hột ngay trên bàn tay của mình tính theo thập nhị địa chỉ mà khỏi cần tạo ra một xâu chuỗi có hình tướng!!! Quí bạn bấm Ấn Tý thì Quí bạn tụng nội dung của hột thứ nhứt; kế đó ngón tay cái bấm gốc ngón giữa đó là hột Sửu và Quí bạn cũng tụng nội dung của hột thứ nhì; rồi ngón tay cái bấm gốc ngón trỏ đó là hột dần và Quí bạn cũng tụng nội dung của hột thứ ba. Và cứ thế mà ngón cái bấm tiếp tục chỗ Mẹo, Thìn, Tỵ... cho đến chữ Tuất, Hợi là xong!!!

Đến đây, Quí bạn đã có một xâu chuỗi thật sự trên bàn tay của mình rồi đó!!! Đó là một xâu chuỗi kín đáo, dường như vô hình vì đâu có ai biết, chỉ có một mình bạn biết mà thôi!!! Do đó, bạn được tự do thoải mái lần hạt chuỗi trong Tâm mình trước mặt mọi người mà khỏi sợ "Bị mắc cỡ"!!! Bạn có thể lần hạt chuỗi ngay chỗ đông người, trên xe đò, tại quán nước... hay tại bất cứ chỗ nào nếu bạn muốn!!!

Lần hạt chuỗi cũng có nghĩa là năng chiếu Diệu Quang, là giữ gìn Chánh Niệm, là tụng Huỳnh Đình, là Tắm Thánh, là làm bạn với các vị Đại Bồ Tát, là kết bạn với Như Lai, là từ giã cảnh đọa đày!!!

Cứ noi bóng CHÍ LINH soi bước,

Gội mê đồ tắm nước Ma Ha.

Liên đài nay nở thêm hoa,

Lão Đam cũng biết, Thích Già cũng quen!!!

(Kinh Giải Oan)

 

Tóm lại, khi có xâu chuỗi trong tay rồi thì chúng ta cũng nên biết cách lần hạt đúng theo "Bí kíp" mới được!!! Đó là "Khẩu tụng Tâm hành"!!! Khi ý niệm tới đâu thì Tâm phải tưởng tới đó và phải Hành theo như vậy! (Phải có lòng Chí Thành và Đức Tin trọn vẹn).

Lần hạt chuỗi cũng là một cách Thiền định để trị phòng Tâm hoặc Tà Tâm của mình nữa!!!

GIÓNG CHUÔNG U MINH

Bài Kệ Chuông:

Văn Chung khấu hướng Huệ trưởng càn khôn!

Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn!

Án dà ra đế, dạ ta bà ha!!!

\

Trong Đạo Cao Đài, mỗi năm có 3 lần gióng chuông u minh: vào tháng giêng gọi là Thượng ngươn, vào tháng bảy gọi là Trung ngươn, vào tháng mười gọi là Hạ ngươn.

Chuông u minh có ý nghĩa như thế nào? Tại sao chỉ gióng chuông vào 3 tháng đó thôi?

U = Là tối, là mê muội, là say đắm...

Minh = Là sáng, là giác ngộ, là tỉnh thức...

Tiếng chuông u minh: Là tiếng chuông được gióng lên vang rộng ra khắp không gian trên cái cõi ta bà nặng trược này để cho những con người (nhất là cho những con người còn sống!!!) đang còn mê muội, đang còn say đắm, nghe được tiếng chuông mà tỉnh thức, mà giác ngộ để trở về con đường chánh đạo!!! Thí dụ, có một người đánh bài đến quá nửa đêm, tinh thần mỏi mệt; bỗng nhiên nghe được tiếng chuông chùa ngân lên êm ái như nghe được lời dạy của Đức Từ Mẫu, người đó như thức giấc tỉnh ngộ và bỏ luôn cái tật xấu đánh bài!!!

Tóm lại, Tiếng chuông u minh là tiếng chuông làm cho con người đang u tối được trở thành minh mẫn sáng suốt, không còn tạo nghiệp chướng bể dâu nữa!!!

? Nghĩa rộng của tiếng chuông u minh:

Thí dụ, Quí Cao hữu có một người bạn rượu chè bê bết, say xỉn đánh đập vợ con mỗi ngày. Nếu Quí Cao hữu sử dụng cái trí huệ Bát Nhã của mình đến gặp người bạn đó mà "Thuyết pháp lập ngôn" làm cho người bạn bỏ được cái tật xấu uống rượu của mình thì chính bạn đã gióng được một Tiếng Chuông U Minh rồi đó!!!

Như vậy thì vào bất cứ lúc nào, thời nào vào bất cứ chỗ nào chúng ta cũng đều có thể gióng chuông u minh được cả, nếu chúng ta có đủ khả năng "Thuyết pháp lập ngôn"!!! (đủ trí huệ Thánh Chất).

Tuy nhiên, chúng ta phải gióng chuông u minh cho chính bản thân của mình nghe trước để cho mình sạch hết "U" đi thì lúc đó mình mới có đủ "Minh" mà vác "Cái Chuông" đi gióng cho người khác nghe!!!

Tự mình gióng chuông u minh cho mình nghe cũng có nghĩa là Năng chiếu Diệu Quang, là Tắm Thánh, là tụng Huỳnh Đình, là giữ gìn Chánh Niệm, là lần hạt chuỗi bồ đề, là làm bạn với Chư Phật!!! (Quí bạn nhớ xem kỹ lại mấy bài trước).

? Tại sao lại phải gióng chuông u minh trong 3 ngươn

Thi sĩ Nguyễn Công Trứ có nói: "15 tuổi, 50 già không kể!!!". Điều đó, thi sĩ muốn nói rằng đời sống của mỗi một con người được chia ra làm 3 giai đoạn, tức là được chia ra làm 3 ngươn:

Thượng ngươn Thánh Đức: Là giai đoạn thứ nhứt của đời sống: Từ 1 tuổi cho đến 15 tuổi!!! Thời gian của khoảng tuổi này đúng là thời Thánh Đức!!! Tuổi này chỉ biết vui chơi thỏa thích, không biết lo lắng phiền não gì cả, chỉ mong sao cho mau tới Tết để được mặc áo mới đi chơi mà không cần biết đến nhà đang thiếu gạo!!! Cũng thấy rất thương các bậc cha mẹ mặc dù chạy ăn từng bữa, cũng ráng tìm đủ cách may quần áo mới cho con mình được hưởng trọn cái thời Thượng Ngươn Thánh Đức của nó!!! Thật đáng thương và cũng thật đáng kính trọng thay!!!

Do đó, chúng ta không nên đàn áp hay đánh đập trẻ con thái quá, mà nên cố gắng tạo điều kiện và các phương tiện cho trẻ con được hưởng trọn vẹn cái tuổi Thượng Ngươn Thánh Đức của chúng nó. Điều đó, cũng không có nghĩa là buông trôi, thả lỏng chúng nó quá!!!

Trung ngươn Tranh Đấu: Là giai đoạn thứ hai của đời sống: Từ 15 tuổi cho đến 50 tuổi!!! Đối với thi sĩ Nguyễn Công Trứ, giai đoạn thứ hai này mới là đáng kể!!! (15 tuổi, 50 già không kể!!!) vì giai đoạn này đã đến tuổi lập gia đình, trai có vợ, gái có chồng: chính là giai đoạn phải đấu tranh, sinh tồn!!! Tranh đấu với nạn áo cơm, tranh đấu với thất tình, lục dục!!! Tranh đấu với cuộc sống đầy cạm bẫy!!! Theo Nguyễn Công Trứ thì cái thời đấu tranh sinh tồn này mới thật là có giá trị, mới thật là đáng kể!!! Cho nên, giai đoạn thứ hai của đời sống được gọi là Thời "Trung Ngươn tranh đấu"!!!

Hạ ngươn Điêu Tàn: Là giai đoạn thứ ba của đời sống: Từ 50 tuổi cho đến lúc từ trần!!! Ai ở vào giai đoạn này thì phải từ từ bị răng long, tóc bạc, da nhăn, tai lãng, mắt mờ... Cho đến cả cái thể xác này cũng không còn hơi thở nữa!!! Đây là cái tuổi của thời mạt pháp, thời điêu tàn, là giai đoạn sau cùng của đời sống, cũng được gọi là thời Hạ ngươn điêu tàn!!!

Tóm lại, đời sống của một người được kéo dài từ Thượng Ngươn Thánh Đức (15 năm) qua Trung ngươn tranh đấu (35 năm) cho đến hết cái thời Hạ Ngươn điêu tàn (số năm sống sau cùng). Do đó, Đạo Cao Đài có lễ Gióng Chuông U Minh trong 3 ngươn thì điều đó cũng có ý nghĩa là Gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh con người trong suốt cuộc đời rồi, chúng ta còn đòi hỏi hay thắc mắc làm chi nữa chớ!!!

Tâm kệ:

Hoàng hôn sắp tắt Mặt Trời!

Lại gặp mưa bão làm Đời hết vui!!!

Đệ Huynh ơi!!! Hỡi Đệ Huynh!!!

Sao còn mê đắm mùi Trần!!!

Sao chưa thức tỉnh Định Thần giải căn!!!

 

TAM THẾ PHẬT

Kinh Xuất Hội:

Cửa Địa Ngục, chóng lánh xa!!!

Mượn hình Thánh Thể cất nhà cõi thiên!!!

Kinh Vào Ăn Cơm:

Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên,

Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh!!!

Kinh Ăn Cơm Rồi:

Con cầu xin mảnh hình tráng kiện!!!

Giúp nên công xây chuyển cơ Đời!!!

Trên theo pháp luật Đạo Trời!

Dưới thương sanh chúng, một lời đinh ninh!!!

\

Trên nóc Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây Ninh có đúc tượng 3 vị Phật, gọi là Tam Thế Phật. Đó là Brah-ma Phật, Civa Phật và Chistma Phật. Tam Thế Phật cũng tượng trưng cho 3 giai đoạn cuộc sống của một đời người: Thánh Đức, Tranh Đấu và Điêu Tàn (xin xem kỹ bài Gióng Chuông U Minh Tam Ngươn trước).

* Brah-ma Phật: Tượng trưng giai đoạn Thượng Ngươn Thánh Đức từ 1 tuổi đến 15 tuổi. Đây là tuổi thiếu nhi chỉ biết vui chơi thỏa thích, không biết lo lắng hay phiền não gì cả, tượng trưng là Brah-ma Phật mặc áo khôi giáp đẹp đẽ cỡi con Thiên Nga hướng về Tây phương mà bay rong chơi một cách thoải mái!!! Do đó, chúng ta hãy cố gắng tạo điều kiện và các phương tiện cho các em thiếu nhi được hưởng trọn vẹn cái thời tuổi Thương Ngươn Thánh Đức của chúng nó!!! Chúng nó chính là các "Brah-ma Phật" vậy!!!

* Civa Phật:  Tượng trưng giai đoạn Trung Ngươn Tranh Đấu từ 15 tuổi đến 50 tuổi. Đây là tuổi thanh niên, tuổi đấu tranh để sinh tồn, tuổi đấu tranh với nạn áo cơm, tuổi đấu tranh với thất tình lục dục! Tuổi thanh niên được tượng trưng là Civa Phật đứng trên con rắn 7 đầu!!! (Thất tình). Tuổi thanh niên là tuổi tự lập, cho nên phải sống mãnh liệt, làm việc hết mình, với một tinh thần trung chánh, nhân nghĩa và kiên cường bất khuất thì mới xứng đáng là một Vị Civa Phật!!! Các thanh niên như trên chính là các "Civa Phật" vậy!!!

* Christma Phật: Tượng trưng giai đoạn Hạ Ngươn Điêu Tàn (còn gọi là thời mạt pháp) từ 50 tuổi trở lên cho đến lúc từ trần!!! Cái tuổi ở vào cái Thời Hạ Ngươn thì phải bị mạt pháp, phải bị điêu tàn, phải bị tiêu diệt!!! Do vậy chúng ta phải chấp nhận cái tuổi Hạ ngươn này một cách vui vẻ, chớ đừng phiền trách tại sao chúng ta bị tai lãng, mắt mờ, tóc bạc, da nhăn nữa!!! Cái thời điêu tàn được tượng trưng là Christma Phật ở trần không có mặc áo (bị mạt pháp rồi thì áo đâu mà mặc nữa).

Tóm lại, chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với Brah-ma Phật, Civa Phật và Chistma Phật!!!

THẬP TAM MA

Thánh Ngôn:

... Những sự phàm tục (sắc tài...) đều là những mưu kế của tà mị yêu quái cốt để ngăn trở bước đường thành Đạo của các con! Mà những mưu quỉ quyệt ấy đều do chính lịnh Thầy truyền ra để thử các con!!! Ngày nay, Đạo đã khai tức là Tà khởi!!! Vậy thì các con phải hết lòng, hết sức mà tự gìn giữ lấy mình!!!... Thầy cho yêu quái được quyền lấy danh Thầy mà cám dỗ!!! Các con chớ buồn vì Thiên Cơ phải vậy!!! Thi nhiều đậu ít là lẽ hằng!!! Các con liệu phương thế mà nâng đỡ ĐỨC TIN của môn đệ cao lên hàng ngày! Đó là công quả đầu hết!!! (Tức là công quả Thuyết Pháp Lập Ngôn)...

... Cả Chư Thần Thánh Tiên Phật thảy đều náo động vì Quỉ vương đến trước Bạch Ngọc Kinh để xin hành xác và thử thách các con!!! Thầy chẳng chịu cho hành xác. Chúng nó liền hiệp Tam Thập Lục Động toan hại các con, cho nên Thầy sai Quan Thánh và Quan Âm đến giữ gìn các con nhưng phần đông chưa lập Minh Thệ nên Chư Thần Thánh Tiên Phật không muốn nhìn nhận!!!

\

Quí Cao hữu!

Khỏi cần nói thì ai cũng biết là lục dục là 6 cái muốn cho được!!! Đó là Nhãn dục, Nhĩ dục, Tỷ dục, Thiệt dục, Thân dục và Ý dục. Sở dĩ có lục dục là tại vì có 6 cái cội nguồn sanh ra: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý!!! Sáu cái cội nguồn này gọi là lục căn!!! Do đó, ta cứ dẹp bỏ 6 cái cội nguồn này thì làm gì có sanh ra lục dục chớ!!! Nhưng khốn nỗi, sáu cái cội nguồn này lại là sáu cơ quan của thể xác, dẹp bỏ chúng nó tức là phải hủy diệt cái thể xác này sao?

Điều này không thể thực hiện được!!! Vì ai ai cũng muốn sống!!! Mà hễ sống thì phải còn thể xác, tức là phải còn 6 cái nguồn sanh ra lục dục! Do đó sống là phải tranh đấu với lục dục! Có lục dục lại nảy sinh ra thất tình: Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục!!! Như vậy sống là phải tranh đấu với cả thất tình cùng lục dục!!! Lục dục cộng với thất tình thành ra THẬP TAM MA!!!

Thập Tam Ma được sanh ra cùng một lúc với loài người xuất hiện trên trái đất này!!! Thập Tam Ma sống mãi cho tới ngày hôm nay và cho tới ngay giờ phút này!!! Chúng sống trường sinh bất diệt!!! Chúng sống càng lâu thì càng dẻo dai, càng lẫy lừng!!! Mọi loại thuốc "Trụ sinh" đều bị chúng nó xem thường!!! Già trẻ lớn bé hay nam nữ đều bị chúng nó hoành hành!!! Người nào có tu hành thì được chúng nó nương tay chút ít nhưng cũng vẫn không buông tha!!!

Vậy loài người phải chào thua hay sao? Đừng lo vì có Quan Thánh và Quan Âm hộ trì nếu chúng ta chịu lập Minh Thệ!!!


 

LẬP MINH THỆ

Thánh Ngôn:

Ta nói chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ này mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi!!!

\

Như trong bài trước đã nói, Thập Tam Ma đang hoành hành mọi người một cách rất là lẫy lừng mà cũng rất là khó trị!!! Tuy nhiên, Đức Đại Từ Phụ có sai Quan Thánh và Quan Âm đến để giữ gìn chúng ta nếu chúng ta chịu lập Minh Thệ nhập môn Cầu Đạo!!! Hơn nữa, cả Chư Thần Thánh Tiên Phật cũng nhìn nhận và bảo vệ chúng ta nữa!!!

Tuy nhiên, trước khi lập Minh Thệ nhập môn vào Đạo, thì chúng ta cần phải biết rõ tôn chỉ của Đạo Cao Đài như thế nào. Rồi sau đó, nếu hợp ý với tôn chỉ thì chúng ta xin lập Minh Thệ. Còn không thì thôi. Đạo không có ép buộc!!! Tự do tín ngưỡng mà!!!

? TÔN CHỈ ĐẠO CAO ĐÀI

Tôn chỉ của Đạo Cao Đài được đặt ngay cửa chánh của Tòa Thánh, đó là Nội dung của Bức Tượng Tam Thánh: Đức Tôn Dật Tiên, Đức Victor Hugo và Đức Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Tôn chỉ Đạo Cao Đài có hai bậc:

+ Bậc một: Bác ái và công bình!

+ Bậc hai: Thiên nhơn hiệp nhứt!

* Bậc một: có tính cách bình dân, phổ thông, rộng khắp cả các chúng sanh, ai ai cũng được, miễn lo thực hiện tôn chỉ bậc một là Bác ái và Công bình!!! (Amour et Justice). Một xã hội mà ai ai cũng thương yêu nhau và cư xử với nhau đúng theo sự công bình thì đó là một xã hội Thánh Đức!!!

* Bậc hai: là thiên nhơn hiệp nhứt (Dieu et humanite). Tôn chỉ này mới đúng là cứu cánh của Đạo Cao Đài, để dành riêng cho các bậc nguyên nhân có đại chí và có đầy đủ phước đức!!! Nói rộng hơn đây là Tôn chỉ Đại thừa để dành riêng cho các Cao đồ nào muốn tu siêu thoát luân hồi!!! Trong bức tường có vẽ hình của tam thánh, Tam Thánh tức là Tam Thanh. Tam Thanh tức là Tam Bửu vậy!

Đức Tôn Dật Tiên tượng trưng cho                 : TINH

Đức Victor Hugo tượng trưng cho                  : KHÍ

Đức Nguyễn Bỉnh Khiêm tượng trưng cho     : THẦN

Tinh và Khí đó là thể xác và trí não, luôn luôn đi kèm nhau, không thể nào tách rời ra được! Nếu tinh khí bị tách rời ra thì chúng ta phải chết!!! Cho nên Đức Tôn Dật Tiên (thể xác) và Đức Victor Hugo (bộ não, cái Tâm) đứng chung một bên tượng trưng cho tinh khí lúc nào cũng đi kèm song đôi với nhau Xem lại bài Kho tàng bí tạng Như Lai có nói về 3 cái thể của con người).

Ngoài cái thể xác và cái Tâm (trí não) chúng ta còn một cái thể thứ ba, đó là Chơn Linh, là Lương Tâm!!! Lương Tâm đó chính là THẦN, là Bửu thứ ba của Tam Bửu: Tinh Khí Thần!!! Chơn Linh ở bên ngoài hai cái thể kia, cho nên Đức Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng riêng một mình ở bên phải của bức tường Tam Thánh. Đức Nguyễn Bỉnh Khiêm tượng trưng cho THẦN (Chơn Linh) làm chủ cả Tinh và Khí, cho nên mới có nói: Đức Nguyễn Bỉnh Khiêm là Thầy của Victor Hugo và Tôn Dật Tiên!!!

? Đạo Cao Đài thực hiện Tôn chỉ như thế nào?

Đạo Cao Đài dùng phương tiện nhân nghĩa để thực hiện Tôn chỉ nêu trên. Do đó, Đạo Cao Đài có hai cơ quan:

1. Cơ quan Phước Thiện: Là cơ quan chuyên lo việc tế độ chúng sanh. Tế độ là cứu đói, là cứu bịnh, là cứu khổ, là cứu nạn, là bảo vệ sự sống của Nhơn Sanh. Đây là Công quả Lập Đức!!!

2. Cơ quan Cửu Trùng Đài: Là cơ quan chuyên lo việc Phổ độ chúng sanh. Phổ độ là Thuyết pháp Lập Ngôn, giúp cho chúng sanh được sáng suốt trí huệ, từ đó không còn tạo Nghiệt chướng bể dâu nữa: Cầm Gươm Huệ chặt tiêu oan trái!!! Đây là Công quả Lập Ngôn!!!

Hai công việc Tế độ và Phổ độ phải đi song song với nhau, do đó, Đạo Cao Đài lại có một cơ quan thứ ba để kết hợp thống nhất hai cơ quan trên, có tên là "Cơ quan Phổ Tế"!!! Tế độ thuộc về Tu Phước. Phổ độ thuộc Tu Huệ. Cho nên Phước Huệ cần phải song tu mới được cũng như Tế độ và Phổ độ cần phải được song hành!!! (Cơ quan Phổ Tế: Phổ tế Tổng Pháp Tông mà!!!).

? LẬP  MINH THỆ

Mọi chúng sanh khi đến tham quan Tòa Thánh nếu thấy được rõ ràng Tôn Chỉ cũng như thấy được cách thực hiện tôn chỉ đó của Đạo Cao Đài, thì cứ xin nhập môn vào Đạo Cao Đài để tu hành và lập công nếu muốn!!!

Xin nhập môn có nghĩa là xin ký tên vào "Bảng hợp đồng" với các Đấng thiêng liêng vậy!!! Ký hợp đồng thì phải cẩn thận làm cho đúng theo Bảng hợp đồng tức là phải thực hiện cho đúng theo tôn chỉ của Đạo. Nếu làm trái lại là phản tôn chỉ, là phản Đạo thì phải bị Thiên tru Địa lục!!!

Những Bảng hợp đồng ở cõi trần mà chúng ta thực hiện sái thì phải bị Tòa Án xử phạt chúng ta!!! Còn ký hợp đồng với các Đấng thiêng liêng thì chúng ta phải rất cẩn thận mới được!!! Không dễ gì bẻ gãy hợp đồng đâu vì Lưới Trời tuy lồng lộng mà một mảy lông cũng khó lọt!!! coi chừng bị Thiên tru, Địa lục!!!

? Việc ký tên vào bảng hợp đồng: Đây là nói về nghĩa bóng, nghĩa rộng. Chứ không phải có một tờ giấy rồi chúng ta cầm cây bút ký tên vào đó đâu!!!

Các công việc mà chúng ta phải làm sau đây gọi chung lại là "Ký tên vào bảng hợp đồng". Một người ngoại Đạo muốn xin nhập môn thì kiếm mặc một bộ đồ dài trắng rồi đến Tòa Thánh hoặc Thánh Thất, nhờ vị Chức Sắc sở tại giúp cho việc lập Minh Thệ. Người đó phải quì trước Thiên Bàn xưng rõ họ tên, tuổi tác và phải thề rằng:

Lới Minh Thệ:

Từ đây tôi biết:

Một Đạo Cao Đài Ngọc Đế!

Chẳng đổi dạ, đổi lòng!!!

Hiệp đồng chư môn đệ!

Gìn luật lệ Cao Đài!!!

Như:

Sau tôi có lòng hai!

Thì Thiên tru, Địa lục!!!

\

Lời Minh Thệ mà chúng ta đã thề trước thiên bàn đó chính là chữ ký tên của chúng ta đó!!! Còn bảng hợp đồng chính là bảng Tôn chỉ của bức tường Tam Thánh vậy!!!

Việc ký tên vào Bảng hợp đồng là do chính chúng ta tự ý muốn; chớ không một ai có quyền ép buộc chúng ta, cũng không một ai có quyền ký tên thế cho chúng ta!!!

Sau khi Minh Thệ xong, chúng ta đã trở thành một tín đồ Cao Đài và sẽ được các vị Chức Sắc, Chức Việc hướng dẫn việc tu hành, cũng như sẽ được các Đấng thiêng liêng và Chư Thần hộ trì đêm ngày!!! (Nên nhớ kỹ các Đấng thiêng liêng và Chư Thần chỉ hộ trì cho các tín đồ có Tâm chí thành tu hành thuần túy mà thôi).

Ngoại trừ các tân tín đồ, chúng ta là các Cựu Tín Đồ lâu năm thì rất cần phải nhớ lại chữ ký tên của mình (nhớ lại Minh Thệ để cố gắng thực hiện cho đúng "Bảng hợp đồng Tam Thánh"!

Ăn năn sám hối tội tình!

Xét câu Minh Thệ, gởi mình cõi thăng!!!

Muốn gởi mình cõi thăng thì chúng ta phải:

Rắp nhập cảnh thiêng liêng hằng sống!

Chốn quê xưa giải mộng trần gian!!!

Quí Cao hữu!

Lời Minh Thệ chỉ vỏn vẹn có 36 chữ thôi!!!

Làm đúng là Tam Thập Lục Thiên!!!

Làm sai là Tam Thập Lục Động!!!

Quí Cao hữu hãy cẩn thận, hãy cảnh giác, đừng có thờ ơ với "Bảng Hợp đồng Tam Thánh" nữa!!! Chúc thành công!!!

THIÊN NHÃN

Thánh Ngôn:

... Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao về Thánh Tượng con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:

Nhãn thị Chủ Tâm

Lưỡng quang Chủ Tể

Quang thị Thần

Thần thị Thiên

Thiên giả, Ngã giã!

Thánh Thi:

Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà!

Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra!

Sao ra Tiên Phật, người trần tục!

Trần tục muốn thành, phải đến TA!!!

\

Chưa phải hồi các con biết đặng thì cho đến bao giờ chúng ta mới hiểu được tường tận Thiên Nhãn? Tính đến giờ này thì chúng ta đã thờ Thiên Nhãn trên 60 năm rồi, chúng ta cũng vẫn chỉ biết sơ lược chút đỉnh như Thầy đã giảng? Tại sao lúc đó Thầy không giảng tường tận luôn mà chỉ nói sơ lược thôi?

Ngày xưa, Đại Từ Phụ chỉ nói thờ Thiên Nhãn là thờ Trời, vì con Mắt đó tượng trưng cho ông Trời! Chỉ đơn giản thế thôi, chớ không gì thêm nữa! Nhờ đơn giản như vậy mới thích hợp với căn cơ bình dân của toàn thể chúng sanh lúc đó!!! Nhờ vậy mới có nhiều người nhập môn xin làm tín đồ. Đạo Cao Đài mới phát triển một cách mau lẹ không lường trước được!!!

Quí Cao hữu!

Cho đến hôm nay, chúng ta cũng nên hiểu thêm như sau: Thiên Nhãn chính là tượng trưng cho sự sáng suốt, trí huệ, cho Huệ Quang, cho Bát Nhã!!! Đức Chúa Trời ngày trước (Đạo Thiên Chúa) cũng đã dạy TA chính là sự sáng đời đời!!! Chúng ta tu là để đạt được Thiên Nhãn, để trở về với SỰ SÁNG ĐỜI ĐỜI!!!

Đức Thượng Đế mở Đạo kỳ ba lần này cũng để ban cho chúng ta có Trí Huệ mà trở về hiệp nhứt với "Sự sáng đời đời"

"Thiên Ân Huệ chiếu giáng thiền minh"

Đại Từ Phụ cũng có dạy: "Lần này ta đem THẦN (sự sáng suốt, trí huệ) đến cho các con hiệp cùng TINH KHÍ mà đắc Đạo!!! Đây là một việc có thật, chớ không phải là một việc mơ hồ!!!".

"Phong THẦN đừng tưởng chuyện mơ hồ!!!"

(Phong thần = Ban cho sự sáng suốt trí huệ).

Chúng ta cũng nên hiểu thêm nữa: Thiên Nhãn cũng chính là Chiếc Đèn Thần, là Cây Huệ Kiếm, là Cây Gươm Thần, là Cây Gián Ma Xứ, là Cây Kim Tiên, là Cầu Sông Ngân, là Bát Nhã, là Thiền Trượng, là Cơ thoát tục, là Phướn truy hồn, là Phan Tiếp Dẫn, là Thuyền Bát Nhã để đưa rước các Cao đồ hữu duyên, hữu căn, hữu phước, hữu phần cho thoát khỏi SÔNG MÊ mà được lên bờ GIÁC NGỘ!

Muốn vượt khỏi bến SÔNG MÊ, muốn phân biệt được CHÁNH TÀ, chúng ta cần phải xin Minh Thệ nhập môn vào Đạo Cao Đài để được Đức Thượng Đế ban ân huệ cho chúng ta!!! ( Thiên Ân huệ chiếu giáng thiền minh). Rồi nhờ Cây Huệ Kiếm đó mà chúng ta: Cầm Gươm Huệ chặt tiêu oan trái!!! Hoặc chặt lìa trái chủ đặng tầm Ngôi Thiên!!! Hoặc là nắm cây Huệ Kiếm Gươm Thần, dứt tan sự thế nợ trần từ đây!!!

Tóm lại, THIÊN NHÃN chính là Cây Kim Tiên, là Cây Huệ Kiếm, là Chiếc Đèn Thần soi rọi cho chúng ta thấy được Nẻo Chánh, đường tà; soi rọi cho chúng ta thấy được con đường trở về với quê xưa cảnh cũ, trở về với Ngọc Hư Cung, trở về với Cực Lạc Quốc mà hưởng An Lạc Thái Bình!!!


 

NHỤC NHÃN

Bên Phật Giáo có Ngũ Nhãn như sau:

Nhục Nhãn

Thiên Nhãn

Huệ Nhãn

Pháp Nhãn

Phật Nhãn

\

Bên Đạo Phật thì Nhục Nhãn là thấp nhất, còn Phật Nhãn là cao nhất. Còn Thiên Nhãn bên Phật Giáo thì sao? Có giống với THIÊN NHÃN bên Cao Đài không?

\

Trong bài này chúng ta chỉ bàn đến Nhục Nhãn và Thiên Nhãn của Phật Giáo, mà không bàn đến Ngũ Nhãn.

* Nhục Nhãn: Chúng ta thường nghe nói: "người phàm mắt thịt", chữ mắt thịt đây là dịch hai chữ "Nhục Nhãn" của Đạo Phật ra tiếng Việt. Mắt của ai cũng bằng thịt cả, kể luôn các bậc vĩ nhân!!! Như vậy thì Nhục Nhãn có ý nghĩa gì ?

Nhãn: Là con mắt, sự thấy, là cái Tâm!

Nhục: Là thịt, là vật chất, là tiền bạc!

Một con người có cái Tâm chỉ chạy theo vật chất tiền bạc, sống hiện sinh duy vật, chỉ biết có tiền bạc vật chất là trên hết, không cần đếm xỉa gì đến tinh thần đạo đức nhân nghĩa thì chúng ta gọi người đó có con mắt thịt, tức là Nhục Nhãn!!! (Con mắt chỉ thấy có vật chất!).

* Thiên Nhãn: Một con người, ngoài công việc phải lo đời sống vật chất ra, còn lo trau dồi trí huệ, lo đến phần tinh thần nhân nghĩa đạo đức, lo tu Tâm dưỡng tánh thì chúng ta gọi người đó có Thiên Nhãn (Thiên là Tâm, xin xem kỹ mấy bài trước).

Tóm lại, đời sống của một người chỉ thuần về duy vật thì gọi là Nhục Nhãn. Nếu cộng thêm phần duy tâm nữa thì được gọi là Thiên Nhãn.

Thiên nhãn bên Đạo Phật được viết bằng chữ thường (thiên nhãn). Còn Thiên Nhãn bên Đạo Cao Đài được viết bằng chữ Hoa (THIÊN NHÃN). Bởi vì ý nghĩa Thiên Nhãn của 2 bên khác nhau rất xa! THIÊN NHÃN của Đạo Trời cao hơn cả Phật Nhãn nữa, huống gì là Nhục Nhãn và Thiên Nhãn là hai bậc dưới của Ngũ Nhãn!!!

\

Tâm kệ:

Người đời trọng của báu!!

Ta quý điều thanh tịnh!!!

Thanh tịnh thấy thần minh!

Của báu phải điêu linh!!!


 

NẠN ÁO CƠM

Thánh Ngôn:

Thầy cho các con đến Thế Giới này với một thánh thể thiêng liêng như hình ảnh thật, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ĂN cho phải bị đọa, DÂM cho phải bị đày, nên phải chịu NẠN ÁO CƠM!!!

Thơ Hàn Mặc Tử:

Trời hỡi! Biết nhờ ai cho khỏi đói!

Gió trăng có sẵn làm sao ăn?

Làm sao giết được người trong mộng?

Để trả thù: Duyên kiếp phủ phàng!!!

\

Quí Cao hữu!

Mỗi người trong tất cả chúng ta, ai ai cũng phải bị một chứng bịnh nan y theo suốt cuộc đời của mình!!! Đó là chứng bịnh đói!!! Trong các điều khổ của loài người thì cái khổ nặng nề nhứt, đày đọa nhứt đó là cái khổ đói!!!

Kẻ nghèo khổ khi nghĩ đến cái đói thì phải lo âu, buồn thảm, tâm thần bất an và trí não chỉ còn biết một vấn đề duy nhất là làm sao cho khỏi đói!!!

Một người đang đói thì đầu óc mê mờ, quay cuồng, không còn nhớ điều gì hết, cả Kinh Kệ hay câu chú niệm danh Thầy!!!

Một người đang đói thì chúng ta đừng có thuyết pháp lập ngôn gì cả, mà chỉ nên lo cứu đói vì có thực mới vực được Đạo thôi!!!

Một người bị đói thì thú tánh trong con người của họ sẽ nổi lên và họ dễ dàng bị rơi vào các hành động đọa lạc, trầm luân, có khi họ bị chìm xuống đến tận đáy sông Ngân Hà!!!

Do đó, Đạo Cao Đài có mở ra Cơ quan Phước Thiện chuyên lo việc cứu đói, cứu khổ tất cả chúng sanh. Đạo Cao Đài cũng lo việc Quan Hôn Tang Tế cho các chúng sanh nữa. Công việc thực tế nhứt của Đạo Cao Đài là lo bảo vệ sự sống (bảo sanh) của chúng sanh. Đạo pháp không lìa thế gian pháp là như vậy!!! Kinh Đại Tường có câu:

Tạo Đời cải dữ ra hiền!

BẢO SANH nắm giữ, diệu huyền Chí Tôn!!!

Quí Cao hữu!

Làm sao cho khỏi đói? Đó là câu hỏi mà mỗi người đều phải tự mình giải đáp!!! Giải đáp cách nào cũng được miễn sao khỏi bị đọa tận đáy sông Ngân Hà là được!!! (không phạm tội ở tù!!!).

Làm sao cho khỏi đói? Đó cũng là điều trước tiên mà chúng ta phải lo!!! Đây cũng là kinh nghiệm đắt giá của thi sĩ Hàn Mặc Tử!!! Ngày xưa, lúc còn tuổi học trò, Hàn Mặc Tử không chịu lo học hành để sau này thành tài mà tự lo nuôi sống mình. Hàn Mặc Tử cứ mãi lo mơ trăng, mộng gió, chỉ lo làm thơ mà không lo học, không lo nạn áo cơm sau này!!! Cuối cùng, cũng là lẽ tất nhiên, Hàn Mặc Tử trở thành nạn nhân thật là đáng thương của NẠN ÁO CƠM!!! Qua kinh nghiệm đó, Hàn Mặc Tử khuyên chúng ta đừng có mơ trăng, mộng gió nữa vì trăng và gió không thể thay thế cho gạo cơm được!!! Hàn Mặc Tử khuyên chúng ta hãy giết ngay người trong mộng đi thì mới tránh được một duyên kiếp phủ phàng!!! (Ý nói: Trong mỗi người có hai bản chất: Bản chất sống thực tế và bản chất mơ mộng không tưởng!!!)

Người trong mộng của Hàn Mặc Tử chính là bản chất mơ mộng không tưởng đó, chớ không phải là người yêu đời thường của Hàn Mặc Tử đâu.

Tóm lại, làm sao cho khỏi đói đã là một việc quá khó! Cứu đói người khác thì lại càng khó hơn!!! Tự cứu mình rồi cứu người khác, đó là phương hướng của chúng ta!!!

\

Tâm kệ:

Tôi nói bạn đừng cười!

Không tiền, mặt chẳng tươi!

Giác ngộ mà thiếu gạo!

Thì coi chừng mất Đạo!!!

\

Hãy nhìn vào thực tại!

Lo nuôi sống hình hài!

Chớ đừng có "ba gai"!

Mà đói khổ có ngày!!!

 

NHƠN ĐẠO

Thánh Ngôn:

Một Trời, một Đất, một nhà riêng!

Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền!

Cầm mối thiên cơ lo cứu chúng!

Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên!!!

Thánh Giáo:

Dục tu Tiên Đạo,

Tiên tu Nhơn Đạo.

Nhơn Đạo bất tu,

Tiên Đạo viễn hỉ!!!

\

Có một lần, một số Cao hữu gặp nhau bàn luận học Đạo và nói về Nhơn Đạo. Có hai ý kiến hoàn toàn mâu thuẫn nhau!!!

Ý thứ nhứt: Nhơn Đạo tròn thì Ngôi Vị mất!!!

Ý thứ hai: Nhơn Đạo tròn thì Tiên Vị mới yên!!!

Dĩ nhiên là hai bên đều có lập luận riêng của mình. Quí Cao hữu thử xem ý kiến nào đúng!!! Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận từng ý kiến một.

* Nhơn Đạo tròn thì Ngôi Vị mất: Nhơn Đạo biết tới chừng nào mới lo cho tròn!!! Lo cho Cha Mẹ, lo cho vợ con, lo cho cháu chít, lo cho nhân quần xã hội; Lo cho đến lúc chết nằm xuống lòng đất cũng vẫn chưa tròn nữa!!! Lúc đó thì còn thể xác đâu mà tu Tiên Đạo chớ!!!

Do vậy, thì làm sao mà có Ngôi Vị được!!! Khi chúng ta chết nằm xuống lòng đất thì cũng chưa yên mồ mã đâu!!! Con cháu tranh giành đất đai tài sản với nhau rồi kêu réo tên ông bà cha mẹ đã chết lên để mà phân bua để mà trách móc!!! Như vậy thì Nhơn Đạo làm sao mà tròn được!!! Đến lúc đã chết đi cũng vẫn chưa tròn được!!! Cứ mãi cố chấp lo cho Nhơn Đạo thì Ngôi Vị mất là phải lắm!!! Nói như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta phải phế bỏ nhơn đạo, bỏ mặc nhơn đạo!!!

Nhơn Đạo!!! Nhơn Đạo chúng ta vẫn phải cứ lo, vì đây là một công việc "Triệt buộc", không lo cũng không được!!!

Phế bỏ Nhơn Đạo thì không có sự nghiệp dành cho sanh chúng tức thiếu điều kiện công quả để được về hiệp nhứt với Đại Từ Phụ. Còn cố chấp Nhơn Đạo thuần túy không chịu tu Tâm dưỡng Tánh (tu Tiên Đạo, tu Thiên Đạo) thì cũng thiếu điều kiện về cùng Thầy. Đại Từ Phụ đã dạy: "Các con muốn về cùng Thầy thì phải có hai điều kiện: Một là cái Tâm và hai là sự nghiệp dành cho sanh chúng!!!" Thiếu một trong hai điều kiện trên thì không thể về được!!!

Tóm lại, cố chấp lo Nhơn Đạo thuần túy thì ngôi vị mất là phải lắm!!! Hơn nữa, Nhơn Đạo cho đến lúc nào mới tròn được!!!???

* Nhơn Đạo tròn thì Tiên Vị có: Hai đoạn Thánh Ngôn và Thánh Giáo dẫn chứng ở trên đã xác định rằng: Nhơn Đạo tròn mới thành Tiên!!! (Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên) (Nhơn Đạo bất tu thì Tiên Đạo viễn hỉ!!!)

Ở ý kiến trên thì Nhơn Đạo không bao giờ tròn và Ngôi Vị mất. Còn ở đây thì dạy Nhơn Đạo phải tròn mới đạt được Ngôi Vị!!! Hai ý kiến mâu thuẫn nhau quá!!! Phải giải quyết làm sao đây???

Quí Cao hữu!

Muốn giải quyết vấn đề, chúng ta phải hiểu thật rõ và thật đúng bốn câu thơ Thánh Ngôn đã dẫn chứng ở trên.

? Một Trời, một Đất, một nhà riêng:

Câu thơ này chỉ rõ cái nhà riêng đó là cái thể xác của mỗi người. Thể xác của chúng ta cũng có CÀN là Trời ở Bộ Đầu, và cũng có KHÔN là Đất ở dưới bụng! Tóm lại, thể xác của chúng ta là một tiểu Vũ Trụ, là một cái nhà riêng trong đó có rất nhiều chúng sanh mê muội mà chúng ta phải có nhiệm vụ dạy dỗ chúng!!!

? Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền:

Chúng ta phải có nhiệm vụ dạy dỗ nhơn sanh trong cái tiểu vũ trụ riêng của mình cho chúng nó đạt được thanh tịnh (đặng dạ hiền)!!! Nói khác hơn thì chúng ta phải tu Tâm dưỡng Tánh sao cho đạt được trí huệ Bát Nhã, đạt được Cây Đèn Thần!!!

? Cầm mối thiên cơ lo cứu chúng:

Khi chúng ta đạt được trí huệ Bát Nhã, đạt được Cây Đèn Thần mới soi rọi cho nhơn sanh của chúng ta thấy được Thiên cơ, thấy được con đường giải thoát, thấy được con đường qui hồi Cựu vị!!!

? Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên:

Khi chúng ta thực hiện xong nội dung của ba câu thơ trên thì kể như Đạo người (Nhơn Đạo) của chúng ta đã được lo tròn vẹn vẻ!!! Đến đây, chính chúng ta được thành Tiên đây!!!

Quí Cao hữu!

Bây giờ, chúng ta phải định nghĩa cho thật rõ hai chữ Nhơn Đạo thì mới nắm vững được vấn đề.

Nhơn Đạo của ý kiến thứ nhứt là nói về Nhơn Đạo ở ngoài bản thân của chúng ta (lo cho cha mẹ vợ con nhơn quần xã hội...). Đó là Nhơn Đạo thuộc về thể pháp!!! Nhơn Đạo thể pháp cũng rất cần thiết vì nó là một trong hai điều kiện để được về hội hiệp cùng Thầy!!!

Còn Nhơn Đạo của ý kiến thứ hai là nói về Nhơn Đạo ở trong bản thân của chúng ta (lo cho nhơn sanh do chính mình cai quản). Đây là Nhơn Đạo thuộc về Bí pháp!!! Đó là tu Tâm dưỡng Tánh!!!

Tổng tóm lại, chúng ta cần phải song tu:

Tu Nhơn đạo ở ngoài, tức là chúng ta lập công quả!!!

Tu Nhơn Đạo ở bên trong, tức là chúng ta công phu!!!

\

Kệ:

Công Phu, Công Quả cho đầy đủ!

Chẳng gặp Phật Đà, cũng gặp Tiên!!!

\

Tâm kệ:

 

Một ngày thỏa mãn: Một ngày qua!!!

Tinh khí hao mòn: Tiên Phật xa!!!

Phải ráng gom gìn Tam Bửu lại!

Mới mong thành Phật, khỏi thành Ma!!!

 

TU  THIÊN ĐẠO

Kinh Dâng Rượu:

Thiên Ân huệ chiếu giáng thiền minh!

Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh!

Lạc hứng, khấu cung giai miễn lễ,

Thoát tai bá tánh ngưỡng Ân Sinh!!!

Thánh Ngôn:

Thuyền khơi đợi gió lướt dòng Ngân!

Dẫn khách nam qua khỏi bến trần!

Nhuộm áo nâu sồng về Cực Lạc!

Trau gương trí huệ, phủi đai cân!!!

Kinh Tế Tổ Phụ:

Dâng gươm huệ kiếm xin cầm!

Chặt lìa trái chủ, đặng tầm Ngôi Thiên!!!

\

Quí Cao hữu!

Bài trước đã nói về tu Nhơn Đạo, thì bây giờ chúng ta cũng nên nói về tu Thiên Đạo mới hợp lý. Như vậy Thiên Đạo là gì? Tu Thiên Đạo là tu làm sao??? Còn Hành Thiên Đạo là hành thế nào???

Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào Thiên Đạo, chúng ta cũng nên bàn sơ qua về Thiên Ân.

* Thiên Ân: Là cái ân mà trời ban cho chúng ta. Trời sẽ không ban cho chúng ta những thứ của cải vật chất hữu hình, hữu hoại đâu!!! Trời chỉ ban cho chúng ta một món quà tinh thần có giá trị vĩnh cửu: Đó là TRÍ HUỆ!!! Trí Huệ là THẦN!!! Ban cho chúng ta trí huệ cũng có nghĩa là Phong THẦN cho chúng ta vậy!!!

Cho nên trong Thánh Ngôn mới có bài thi sau đây:

Phong THẦN đừng tưởng chuyện mơ hồ!

Giữa biển, ai từng gặp Lão Tô?

Mượn thế, đặng toan phước Giác thế!

Cho nên mượn bút của Chàng Hồ!!!

Phong THẦN cho chúng ta tức là ban cho chúng ta trí huệ!!! (Thần = Trí Huệ = thuộc Tam Bửu). Đó là một điều có thật hoàn toàn, không phải là việc giả dối mơ hồ!!! Quí Cao hữu nào có hưởng được Thiên Ân thì mới thấy được phong THẦN là một điều có thật!!!

Đại Từ Phụ cũng đã từng nói: "Lập "Tam Kỳ Phổ Độ" này duy Thầy cho THẦN hiệp TINH KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh!!!"

Như vậy, nếu chúng ta muốn được phong THẦN tức là muốn được Đại Từ Phụ ban cho trí huệ Bát Nhã (Muốn được hưởng Thiên Ân) thì chúng ta phải làm sao? Không lẽ đương nhiên mà chúng ta được hưởng Thiên Ân!!! Đây đúng là vấn đề chánh mà chúng ta cần phải thảo luận: Đó là vấn đề Tu Thiên Đạo!!!

* Tu Thiên Đạo:

(Xin xem kỹ bài Huỳnh Đình Kinh).

Thiên là Tâm, Thiên Đạo là Đạo tu Tâm!!! Tu Tâm là tu trí huệ, tu Bát Nhã, là tu Thánh Chất, là Tắm Thánh, là Năng chiếu Diệu Quang, là hiệp chúng đẳng Chư Phật, là giữ gìn Chánh Niệm, là Trung Huỳnh Đình, là lần hạt chuỗi bồ đề... Nói tóm lại, tất cả công phu giúp cho cái TÂM (Thiên = Tâm) của chúng ta đạt được sáng suốt trí huệ, đạt được THIÊN NHÃN... thì các công phu đó gọi là THIÊN ĐẠO!!!

Tu Thiên Đạo đã có kết quả rồi thì chúng ta mới dám nói đến Hành Thiên Đạo!!!

* Hành Thiên Đạo:

Thông thường khi một người tu Thiên Đạo đạt được Bát Nhã trí huệ rồi (Trí Huệ Cung) thì họ đoạn trần luôn (Đoạn Trần Kiều) rồi tắm ao Thất Bửu, xong nhập Trường Lưu (nhập Đạo luôn, không thèm ngó trở lại cõi đời ô trược nữa) để về hội hiệp cùng Thầy mà sống mãi trên con đường thiêng liêng hằng sống (Thiên Thọ Lộ).

Tuy nhiên, Thầy không cho người này nhập Trường Lưu đâu. Khi đến Đoạn Trần Kiều, Thầy đã bảo người này phải quày đầu trở lại rồi:

Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh eo!!!

\

Huệ Quang chiếu thấu chánh tà!

Chèo thuyền Bát Nhã, Ngân Hà độ sanh!!!

\

Khi đạt được trí huệ Bát Nhã rồi, chúng ta mới có đủ khả năng Thuyết Pháp Lập Ngôn, đó chính là việc Hành Thiên Đạo vậy!!! Công việc thuyết pháp được thực hiện tại Tòa Thánh hoặc tại các thánh thất do các chức sắc Cửu Trùng Đài đảm nhiệm!!! Sau mỗi kỳ đàn Cúng Sóc Vọng, Quí vị cai quản thánh thất có nhiệm vụ thuyết pháp cho các tín đồ đạo hữu nghe. Hoặc đọc nhắc lại một bài Thánh Ngôn hay một bài Thánh Giáo!!! Hoặc có khả năng trí huệ thì có thể thuyết pháp về đạo lý, về chơn lý!!!

Việc làm này của Quí vị cai quản chính là Quí vị đang Hành Thiên Đạo đó!!! Thuyết pháp chính là Đa thi huệ trạch!!! Đa thi huệ trạch thì sẽ được Vô lượng độ nhơn!!! Do đó, nếu chúng ta có khả năng Hành Thiên Đạo (Thuyết Pháp) thì công quả độ người thật là vô lượng!!!

Tuy nhiên, không dễ gì đâu!!! Sai một li đi một dặm!!! Một câu thất đức (Thuyết pháp sai chơn lý) thì thiên niên đọa!!! Cho nên, chúng ta đừng có ham công quả vô lượng mà thuyết pháp bậy bạ theo ý riêng của mình!!!

Nếu vì nhiệm vụ Hành Thiên Đạo mà phải thuyết pháp thì chúng ta có thể đọc nguyên văn một bài Thánh Ngôn để nhắc lại cho các tín đồ đạo hữu nghe thôi, mà không cần phải thêm vào ý riêng của mình!

Tóm lại, Tu Thiên Đạo chín là tu TÂM!!! Hành Thiên Đạo chính là thuyết pháp lập ngôn!!!

Kinh Thích Giáo:

Huệ đăng bất diệt!!!

Chiếu Tam Thập Lục Thiên, chi quang minh!!!

Đạo pháp trường lưu!

Khai Cửu Thập Nhị Tào chi mê muội!!!

......................................

Công tham Thái Cực!

Phá nhứt khiếu chi huyền quang!!!

......................................

ĐA THI HUỆ TRẠCH!!!

Vô lượng ĐỘ NHƠN!!!

 

TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH

Giới Tâm Kinh:

Tề Thiên Đại Thánh để lời!

Thiện nam, Tín nữ nghe lời phải vưng!

Chớ tự phụ cũng đừng khinh ngạo!

Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai!!!

Lời khuyên già trẻ gái trai,

Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành!!!

\

Chắc hẳn, ai ai cũng biết Tề Thiên Đại Thánh là một nhân vật hư cấu (tưởng tượng) trong truyện Tây Du Ký!!! Đã là hư cấu thì không có thật!!! Thế mà, tại sao trong Đạo Cao Đài có Tề Thiên Đại Thánh giáng cơ? Trong Giới Tâm Kinh cũng có Tề Thiên Đại Thánh nữa? Lạ thật!!! Đạo Cao Đài là Đạo của ông Trời, không lẽ có sự giả dối!!! Chúng ta giải quyết vấn đề này ra sao đây??? Nếu không giải quyết thỏa đáng thì người ngoại đạo sẽ không nhập môn cầu Đạo, và người ở trong Đạo (các tín đồ) sẽ mất cả đức tin mà bỏ Đạo!!! Vấn đề thật là quan trọng!!!

Quí Cao hữu!

Trước khi bàn thẳng sâu vào Tề Thiên Đại Thánh, chúng ta cũng nên bàn qua Chiêu Huệ Tiểu Thánh, cũng là là một nhân vật khác nữa của Tây Du Ký!!!

* Chiêu Huệ Tiểu Thánh:

Có Tiểu Thánh rồi mới có Đại Thánh, chúng ta cũng nên hiểu nghĩa chữ THÁNH trước. Ở đây, chữ Thánh có nghĩa là trí huệ, là sự sáng suốt!!! Như vậy, Tiểu Thánh có nghĩa là sự sáng nhỏ, chưa bằng được với Đại Thánh, nhưng Tiểu Thánh cũng hơn rất xa phàm nhơn!!!

Còn hai chữ Chiêu Huệ có ý nghĩa gì? Chiêu là chiêu tập lại, là chiêu hồi lại, là sưu tập lại!!! Huệ là một tư tưởng sáng suốt, là một lời dạy của Phật, là ánh sáng Diệu Quang, là một Chánh Niệm! Như vậy Chiêu Huệ là hiệp chúng đẳng Chư Phật, là sưu tập tất cả các lời Phật dạy để ghi vào một quyển tập mà tạo thành được một quyển Thiên Thơ!!!

Vạn Linh trổi tiếng mừng thầm!!!

Thiên Thơ Phật tạo độ phàm giải căn!!!

(Kinh Tiểu Tường)

Chiêu Huệ Tiểu Thánh có thể gọi là Tiểu Huệ! Tề Thiên Đại Thánh có thể gọi là Đại Huệ!!!

* Tề Thiên Đại Thánh:

Trong truyện Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân mượn một nhân vật hư cấu để ngụ ngôn dạy Đời, lại được mọi người hoan nghinh tán thưởng không một chút nghi ngờ thắc mắc!!! Một người phàm mượn hư cấu để dạy đời thì ông Trời sao không được quyền mượn hư cấu để dạy Đạo chớ? Cũng đồng thời mượn hư cấu để ngụ ngôn thì tại sao chúng ta chỉ tán thưởng Ngô Thừa Ân, mà lại thắc mắc với ông Trời chớ!!! Thật là không công bình chút nào!!! Ông Trời mượn cái Giả để chỉ cái Chơn, mượn ngón tay để chỉ mặt trăng!!! Tại sao chúng ta không lo nhìn mặt trăng (Chơn lý, Đạo lý) mà chỉ lo phê bình ngón tay (Nhân vật hư cấu)? Điều quan trọng là chúng ta tìm hiểu xem Đức Thượng Đế muốn dạy chúng ta điều gì trong bốn chữ: Tề Thiên Đại Thánh!!! Tuy nhiên trước khi nói rõ Đạo lý trong bốn chữ Tề Thiên Đại Thánh, chúng tôi cũng xin dẫn chứng một đoạn Thánh Ngôn để cho Quí Cao hữu không còn một chút thắc mắc nào nữa về vấn đề hư cấu hoặc không hư cấu!!!

Đức Thượng Đế có dạy:

Thích Ca Mâu Ni thị Ngã!

Thái Thượng Đạo Tổ thị Ngã!

Quan Thế Âm Bồ Tát thị Ngã!

.................................. thị Ngã!!!

Đến đây thì Quí Cao hữu liền nhận thấy rằng: Tề Thiên Đại Thánh cũng là thị Ngã!!! Tất cả đều do Đức Thượng Đế (thị Ngã). Tề Thiên Đại Thánh giáng cơ cũng chính là (thị Ngã). Đức Thượng Đế giáng cơ!!! Đức Thượng Đế muốn dạy chúng ta điều gì mà mượn bốn chữ Tề Thiên Đại Thánh? Đây mới đúng là một điều quan trọng mà chúng ta cần phải tìm học, chớ đừng để mất thời giờ về vấn đề hư cấu nữa!!!

Tề: Trị (tề gia)

Thiên: Là Tâm, thường là Phàm Tâm.

Tề Thiên: Là trị được cái phàm Tâm của mình!

Cái Phàm Tâm rất là khó trị vì nó chính là Thập Tam Ma, là lục dục thất tình!!! Cho nên danh ngôn có câu nói: Thắng được vạn quân thì rất dễ, còn thắng được chính mình thì quả thật là khó!!! Do đó, ai thắng được chính mình, thắng được Phàm Tâm của mình, thắng được Thập Tam Ma (tức là Tề Thiên được) thì người đó mới xứng đáng là Đại Thánh!!! (Đại Huệ!!!).

Chỉ có Đại Thánh, Đại Huệ mới trị được Thập Tam Ma, mới "Tề Thiên" được hay sao? Còn Chiêu Huệ Tiểu Thánh thì sao, có Tề Thiên được hay không?

Cũng đồng thời là Trí huệ, sao lại có sự phân biệt Đại Thánh và Tiểu Thánh? Đại Thánh khác hơn Tiểu Thánh ở điểm nào? Xin Quí Cao hữu đọc tiếp bài "Bộ Lôi Công" thì sẽ rõ!!!

\

Tâm kệ:

Giác là Chơn Lý Đạo!

Tiền là Chơn Lý Đời!

Giác không tiền: Thiếu gạo!

Tiền không Giác: Tơi bời!!!

Tiếp theo >

Top of Page

      HOME