NGÀI PHỐI SƯ THƯỢNG TƯỚC THANH Quang Minh ( sưu tầm ) |
Ông Bùi Tấn Tước có ghi lại lịch sử của gia đình ông như sau:
Tiểu Sừ Của Thầy Tôi
Thầy tôi Bùi Đắc Vị, tộc danh Nhiểu, tuổi Nhâm Thân, Thầy thuốc Bắc, có tu Minh Sư, qui vị ngày 23-11- Nhâm Tuất (1922) lúc 51 tuổi cất táng tại An Hòa.
Lúc 49 tuổi ông nằm chiêm bao thấy thấy một ông già cho một câu chữ Nho là:
CÔNG DANH QUẢ MẢN NGỦ THẬP NHỨT
Đầu tháng giêng 1922 là 51 tuổi, ông cũng chiêm bao 1 lần nữa, cũng ông già của 2 năm về trước, tốt người, râu bạc 5 chòm cho một câu nữa ráp với câu trước là:
NHẤT LẠC THANH VÂN TÁNG
Do đó ông thân tôi bàn biết rằng năm nay 51 tuổi phải mất vào tháng 11 nầy. Lúc nầy ông lo sắp đặt gia đình cho các con đặng có mất. Quả thật đến ngày 22-11 bịnh mệt đến 9 giờ đêm tắt hơi. Tước tôi tiếc thương lăn khóc không ngừng, bà con la rầy không được.
Cô Bác xúm lại mặc áo quan, chong đèn trên đầu chờ tới giờ tẩn liệm. Lúc ấy Tước bất tỉnh nhơn sự rồi cứ than khóc mãi. Đến 11 giờ khuya tức là đã tắc hơi được 2 tiếng đồng hồ, Thầy tôi sống lại. Khi sống lại, bà con trong nhà hỏang sợ chạy ra hết chỉ còn có Tước ôm lấy ông thân và hỏi: Phải Thầy sống lại không ?
Ông Thân tôi cứng miệng không nói năng chi được, chỉ mở 2 mắt ngó đứng tròng không nháy. Tước mới la lên rằng: “Ông Thân tôi đã sống lại, có tôi ôm đây, không sao đâu xin cô bác yên lòng, đem nước lạnh cho tôi đổ cho Thầy tôi 1 muổng”. Khi đổ được 1 muổng nước thấm giọng, Thầy tôi ư ư , kế bảo em tôi nhúm lửa hơ hai hàm cổ cho mềm và ấm.
Chừng ấy ông thân tôi nói đặng xong khó nghe vì đã cứng xương hàm nên đớ lưởi.
Ông Thân tôi nói: “Ta đã tới số chết rồi, con đừng thương tiếc khóc thương chi”.
Tước nói: “ Thầy sống lại đừng chết con thương tiếc lắm”.
Ông Thân tôi nói: “ Đúng số rồi không ở trần thế được nữa. Vậy con hãy nghe theo lời dặn đừng cải mà thất hiếu”.
Tôi nghe được lời ông Thân tôi nói đây là sự thật nên yên tâm lo hỏi sự chết.
Hỏi: “ Thầy chết đây là tới số rồi mà cái chết của Thầy đi về đâu ? Được siêu thăng chăng ?
Trả lời: “Phàm người ở thế gian biết làm phải làm lành, tu niệm tích phước đức cho nhiều, khi chết rồi không mắc tội tình chi cả.”
-Như cái chết của Thầy đây được đi lên hay đi xuống ?
-Đi vòng vì buổi trước ta tu Minh Sư còn nhỏ, kế phải vấn vương thê nhi, nay phải đi xuống. Nhưng cái xuống ở chổ vinh diệu, có nhà cửa lâu đài, huỳnh kim mảng dinh.”
Nhưng Thầy tôi dặn : Sau nầy mấy con phải tu thì linh hồn cha mẹ sẽ lên Thượng Cảnh.”
-Thầy chết bất tử không mẹ tôi ở nhà rồi tiền bạc để đâu ?
-Vì Bà Ngoại con bịnh gần qui, nên Thầy cho Mẹ con về Ngoại nuôi Bà. Còn tiền bạc của cải chôn nơi đâu Mẹ con sẽ biết. Duy có 2 tháng nay Thầy để riêng 90 đồng bạc cắc ở kẹt vựa lúa mà thôi.
-Nếu vậy thì con sẽ sửa soạn cái chết cho Thầy. Bây giờ con phải đi rước ông lão Tám Vịnh, Minh Sư ở An Ninh đến cho Thầy sám hối. (Vì Thầy tôi có gốc Minh Sư)
-Không kịp đâu.
-Nếu vậy Thầy dùng một chén cơm chay tương rau bây giờ đặng đi về cỏi trên cho tiện.
-Người không còn trần thế, đâu còn dùng hạt cơm của trần.
-Nếu Thầy không ăn cơm thì dùng hoa quả.
-Đã về cỏi khác thì không còn dùng vật chi cỏi nầy nữa.
-Thôi Thầy dùng một trái quít.
-Thôi thì vị lòng con dùng 1 múi mà thôi. Vì thế nên Thầy tôi có ăn 1 múi quít kế cho uống 1 muổng nước.
-Sau khi Thầy chết rồi chôn cất nơi đâu ?
-Chôn đất mới mua trở đầu về mặt trời mọc, chân ra đường xe, nhưng phải rước Thầy Mười Vựa xây huyệt.
-Đám xác Thầy để mấy ngày.
-Phàm sự là 3 ngày cất táng.
-Đám thì có đông dòng họ bà con phải heo bò đãi tiệc cô bác như vậy cho tròn có tội lỗi không ?
-Sao không tội, nhưng thế sự muốn xử tròn thì tự ý con.
-Rồi có tội tính sao ?
-Ta ở cỏi dưới, lãnh tờ bầu làm bực Phán Quan. Ta sẽ xuất tiền muớn người chăn giữ, chờ mấy con tu hành trả quả rồi mới lên Thượng Giới được. Đó là mấy con tự liệu.
Khi Thầy tôi vừa sống ngồi dậy và nói được thì bảo tôi phải lập một bàng vọng có hương đăng, mời 2 ông Quan cỏi dưới đưa ta về cỏi trần để tỏ hết cho con biết. Khi trở lại cỏi vô vi thì con cháu chẳng nên khóc lóc mà bận bịu trễ thì giờ sẽ phạm tôi mà mất tờ bầu cử của ta.
Bởi thế cho nên tôi lật đật đi sắm một bàn hương án, nhang đèn dọn giữa nhà và tôi mời 2 ông Quan vô hình lại ngồi. Phần nhiều cô bác lối xóm không tin rầy la tôi đừng nghe theo: “Thầy mầy sống dậy và nói được thì không bao giờ chết nữa đâu mà sợ” Tôi có đức tin vô hình, tôi tin quả thật có 2 ông Quan vô vi đi với Thầy tôi và thế nào Thầy tôi cũng chết lại nữa nên lo hỏi han đủ điều.
Khi Thầy tôi sống dậy, ngồi trên cái giường chết, kế bước xuống qua bộ ván ngựa, ngồi nói chuyện, mình lạnh như đồng, đôi mắt ngó ngay không nháy, lửa hơ không ấm áp chi cả.
Kế có ông sui thứ tư là ông Hương Hào Cương nói: “Anh ráng sống có lẽ nào chết bỏ sui gia.”
-Tôi xin gởi con cháu lại cho anh và tôi nằm xuống có anh dạy bảo con lo đám tôi.
Kế ông Xã Tỉnh nói: “Thầy Tám Thầy sống lại được thì ở đời với con, nhà Thầy ở đây, con, vợ đây Thầy bỏ đi đâu ?
-Xin ông ở lại trần tôi về cỏi khác.
-Cỏi khác ở đâu ? nhà Thầy ở đây chớ có nhà nào nữa mà Thầy nói vậy ?
Nhà ở trần thế đây là cỏi tạm thôi. Còn tôi về ở dinh thự làm việc âm. Sau sẽ về ngôi cũ là cỏi Thượng giới mới thật là quê hương.
Vì vậy nên Tước tôi sửa sọan cái chết của Thầy tôi. Nấu nước Bạch Đàn tắm gội và thay bộ quần áo trắng cho Thầy tôi. Bới tóc bịt khăn đóng, mang vớ, giầy Tàu rồi anh em xúm lại làm lễ bái. Xong xuôi Thầy tôi ngồi ngay và ngó thẳng.
Kế Má tôi nói: “Con ông tạo ra đây bây giờ bỏ đi đâu ?”
-Khi còn ở cỏi trần, vợ chồng con cái, chớ khi chết rồi thì mỗi người một bổn mạng riêng biệt không còn thê thằng tử phược nữa. Vậy mẹ nó ở lại nuôi con chừng một năm nữa cũng trở về chốn cũ.
Đọan Thầy tôi sờ đầu em út tôi là Kỉnh và nói: “Mấy con đừng hiếp đáp bỏ bê em dại. Nếu bây hiếp nó, ta sẽ quở bây nóng lạnh nhức đầu mà nếu rũi có vậy thì đến bàn thờ nguyện cầu thì ta cho hết. Thôi bây giờ xem đồng hồ 5 giờ (sáng mai ngày 23-11 năm Tuất 1922) tới giờ nên hai ông Quan vô hình hối thúc phải trở về cho kịp giờ.”
Vừa nói dứt thì quả đồng hồ đánh 5 tiếng. Thầy tôi bước qua giường chết trước khi đăng tịch.
Tôi liền khóc nói rằng: “ Thầy ráng đợi 2 em tôi về thấy mặt rồi sẽ chết lại.”
(Bởi lúc 9 giờ Thầy tôi chết lần trước thì cũng không có mặt hai em tôi là Tư Ngôi và Sáu Kiếu).
-Không thể chờ được vì đã xin phép về đây trối lại đủ cho con yên lòng rằng ta đủ số đừng than khóc mà động lòng. Bây giờ tới giờ rồi, thật tội nghiệp cho thằng Ngôi, hiện giờ ta thấy nó đương ngồi đường đấp, cầm cây vẽ dưới đất mà chờ Thầy Mười Vựa tại Rộc Môn Phước Chỉ, còn thằng Kiếu nó đang chong đèn ngồi học tại nhà Quản Tạo Tây Ninh nên hai đứa nầy về không kịp. Ta phải đi con nhớ lời dặn.”
Dứt lời thì ông Thân tôi nằm xuống ngay chơn đi trực chỉ.
Từ đó về sau tôi lo chôn cất ông thân tôi không có khóc than chi nữa. Chừng cất táng rồi tôi mời dám khóc.
Quả thật làm Tuần Giáp một năm thì Mẹ tôi mất nữa.
Thầy và mẹ tôi hạ sanh được 9 trai và một gái: (Mẹ tôi là Nguyễn Thị Bích).
1-Bùi Tấn Tước , sinh ngày 13-8 Mậu Tuất (1898) thuộc ngày Giáp Ngọ, giờ Hợi âm lịch, nguyên là Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tước Thanh.
2-Bùi Văn Tứ tự là Vận, sinh ngày 13-5 Canh Tý (1900) giờ Dậu âm lịch ( Nguyên Phối Sư Ngọc Tứ Thanh).
3-Bùi Văn Tác tự là Ngôi, sinh ngày 27-12 Tân Sửu (1901) giờ Thân âm lịch (Nguyên Phối Sư Thái Tác Thanh).
4-Bùi Văn Chiếu tự là Phổ sinh ngày 28-5 Giáp Thì (1904) ngày Bính Ngọ, giờ Ngọ âm lịch (Nguyên Giáo Sư Thượng Chiếu Thanh).
5-Bùi Đắc Nhượn tự là Kiếu, sinh ngày 10-5 Bính Ngọ (1906) ngày Bính Ngọ, giờ Hợi (Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh).
6-Bùi Văn Khảm sinh ngày 16-4 năm Mậu Thân (1908) ngày Canh Ngọ, giờ Hợi. Chết lúc 23 tuổi nhằm ngày 1-2 Canh Ngọ (1930) giờ Mùi.
7-Bùi Đắc Hùng tự là Khiêm sinh ngày 19-2 Canh Tuất (1910) ngày Qúi Tỵ, giờ Tỵ âm lịch (Hiền Tài Ban Thế Đạo).
8-Bùi Đắc Cấn tự là Nhượng sinh ngày 13 tháng 10 năm Tân Hợi (1912) ngày Mậu Thân giờ Tỵ âm lịch (Chức Việc Bàn Trị Sự Hương Đạo An Hòa).
9-Bùi Thị Nhường sinh ngày 8-3 Giáp Dần (1914) ngày Kỹ Mùi giờ Thân âm lịch. (Giáo Hữu Hương Nhường).
10-Bùi Cung Kỉnh sinh ngày 19-2 Đinh Tỵ (1917) ngày Qúi Sửu giờ Ngọ. Kinh nhập môn tại Lộc Giang năm 1926 qui vị ngày 18-7 Gíap Thân (1944) giờ Dậu tại Thánh Thất Chợ Lớn, đem về chôn tại An Hòa. Kỉnh được truy phong Truyền Trạng vào năm 1946 là Nghĩa Tế thứ Tư của Đức Hộ Pháp.
Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tước Thanh ghi soạn.
CHỮ TÂM ĐỌC VẬN
Xử thế cần trao một chữ tâm,
Tu, tề,bình, trị thuận thiên tâm.
Nghĩa nhân lo vẹn hành công lý,
Đạo đức tua bền giữ bổn tâm.
Mọi người đều có linh sơn tháp,
Chẳng ở linh sơn chỉ ở tâm.
Thượng Tước Thanh
ĐỨC THƯỢNG SANH XƯỚNG
Hội Thánh mới giao nắm Đạo quyền,
Mười ba năm một dạ trung kiên.
Độ đời quyết lánh vòng danh lợi,
Trao chí tìm noi bậc Thánh Hiền.
Từ ái làm nền an thổ võ,
Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên.
Những mong huệ trạch trên nhuần gội,
Sứ mạng làm xong giữ trọn quyền.
16-7-1970
NGÀI PHỐI SƯ THƯỢNG TƯỚC HOẠ
Khác Vận
Tuổi bảy mươi dư thấy đã già,
Hồi hưu dưỡng lão sáu năm qua.
Tổn tâm lập chí gìn chơn giáo,
Dưỡng tánh tu trì pháp đạo nhà.
Buổi buổi kệ kinh tiêu nghiệt chướng,
Đêm đêm tụng niệm chú Di Đà.
Khẩn cầu Từ Phụ ban hồng huệ,
Đời đạo đồng chung một quốc gia.
ĐIẾU HIỀN NHƠN LÊ VĂN TRUNG
Hiền Nhơn Chưởng Quản đã triều Thiên,
Kiến diện Chí Tôn trước Điện Tiền.
Phước Thiện cố lo tròn chủ nghĩa,
Thi âm quyết giữ chưởng tâm điền.
Bảy mươi lăm tuổi công viên mãn,
Năm chục dư niên vững mối giềng.
Vì số mạng hư về cảnh cũ,
Hưỡng an nhàn hội ngộ Thần Tiên.
Thượng CPS. Hàm Thượng Tước Thanh
LUẬN CHỮ TÂM
Đạt đạo chỉ nhờ giữ nhứt tâm,
Thuận tùng Thiên mạng há đâu lầm.
Bền lòng tô điểm nền âm chất,
Gắn chí đắp bồi cội hạnh lâm.
Thọ mạng huyền linh rèn chí Thánh,
Niệm câu diệu pháp rữa lòng phàm.
Soi gương bác ái dìu sanh chúng,
Đạt đạo chỉ nhờ giữ nhứt tâm.
PS Thượng Tước Thanh
TOÀ THÁNH
Toà Thánh hai hàng cột đúc rồng,
Thợ Trời đào tạo dễ như không.
Tài phàm hay khéo còn lường đắng,
Pháp Phật cao siêu chẳng thế đong.
Mọi sự tác thành nhờ chí hiệp,
Muôn điều đắc thắng bởi tâm đồng.
Thiên thời địa lợi hoà nhơn loại.
Trụ khối tinh thần giữa Á Đông.
TRỪ BỎ TÁNH PHÀM
Tự giác khuyên người bỏ tánh tham,
Sắc tài không nhiễm dứt lòng tham.
Danh thơm hậu thế đời ca tụng,
Tiếng tốt lưu truyền bởi chẳng tham.
Quyền lợi tranh giành mưu sát hại,
Đỉnh chung cướp giựt cũng vì tham.
Tham nhân, tham nghĩa chưa hề thấy,
Tham đạo hiền từ ít kẻ tham.
Xích Quang
ĐỘNG THIÊN CẢM TÁC
Xuân, Hè, Thu mản, kế sang Đông,
Hậu khí vần xoay não nuột lòng.
Tám tiết nắng mưa, Trời chỉ định,
Bốn mùa ấm lạnh, đất phân đồng.
Đã đành máy tạo xây thời cuộc,
Ngặc nổi nhơn quần chịu gió dông.
Nhờ pháp quyền linh chan rưới bủa,
Cứu an lê thứ khắp non sông.
Xích Quang
TINH THẦN PHỤC VỤ
Phục vụ chỉ nhờ có xác thân,
Giồi trau tâm tánh luyện tinh thần.
Từ bi, bác ái làm căn bản,
Chánh trực công bình chước giáo dân.
Cứu khổ phò nguy không nản chí,
Thi ân tể chúng cố chuyên cần.
Hy sinh tận tuỵ dìu sanh chúng,
Trọn kiếp vẹn gìn Đạo nghĩa nhân.
Xích Quang
LÝ ĐẠO
Không tham danh lợi chẳng tranh tài,
Vì nghĩa dìu người cứ mạnh tay.
Mục đích vị tha chưa phải dở,
Phương châm ái chúng lắm điều hay.
Thời suy gặp buổi cơ đồ chuyển,
Vận thời chờ khí bóng ác xoay.
Cứu khổ phò nguy trang Thánh đức,
Phi thường chớ tưởng chuyện khôi hài.
Xích Quang
THƯƠNG NGƯỜI NÀO KHÁC THỂ THƯƠNG THÂN
Thương yêu nhơn loại ấy thương mình,
Cả thảy cùng chung một điểm linh.
Đoàn kết dắt dìu tình cốt nhục,
Đở nâng yêu ái bạn đồng sanh.
Đệ huynh thân thiện hưu tranh đấu,
Chủng tộc liên quan dứt chiến chinh.
Đời đạo điểm tô non nước Việt,
Bắc Nam thống nhứt sớm hoà bình.
Xích Quang
TIỄN GIÁO SƯ THƯỢNG CẢNH
THANH ĐI KHÂM TRẤN BIÊN HOÀ
Bài I:
Trương buồm xuống vịnh với lên voi,
Thẳng dậm Miền Đông lố thấy mòi.
Ô Cấp, Biên Hoà oai tiếng sấm,
Bình Dương, Long Khánh trỗi hơi còi.
Tiếp nghinh Khâm Trấn truyền chơn Đạo,
Hoan lạc môn đồ để dấu roi.
Hoà hiệp đồng tâm liên ái kết,
Nghĩa nhân vẹn đạo đáng vàng thoi.
Thượng Tước Thanh 1966
Bài II:
Trách nhiệm nhơn sanh phải thật hành,
Ly gia cắt ái độ quần sanh.
Thuận tùng Thiên mạng qui chơn giáo,
Hoà hiệp nhơn tâm hưởng phước lành.
Khâm Trấn Biên Hoà khai đưốc huệ,
Miền Đông các tỉnh rạng thanh danh.
Ngàn thu Đạo sử còn ghi chép,
Diễn đạt công phu tại chí thành.
Thượng Tước Thanh
ĐIẾU NGÀI ĐẦU SƯ THÁI BỘ THANH
Thái Đầu Sư ký mã đăng tiên,
Lìa cõi trần gian kiếu bệ tiền.
Nhập Điện Diêu Cung trình Phật Mẫu,
Vào Kinh Bạch Ngọc bái Hoàng Thiên.
Tám mươi tuổi lẻ công viên mãn,
Năm chục năm dư giữ mối giềng.
Ở thế toan lo tròn Đạo nghiệp
Qui Thiên an nghỉ Địa Ngôi Tiên
22-11-1976
Xích Quang
Đây là phần tài liệu sưu tầm chưa đầy đủ về Ngài Phối Sư Thượng Tước Thanh, kính mong các vị Đạo Huynh ai có tài liệu liên quan về ông bổ sung thêm để phần tiểu sử nầy được đầy đủ hơn. Quang Minh.