ÔNG TRẦN VĂN TẤN Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp |
Ông Trần Văn Tấn là nhà trí thức làm Đốc Phủ Sứ thời Pháp thuộc. Ông có ngồi đầu quận nhiều nơi. Đầu năm 1945 là năm chót của đời quan trường, ông ngồi Quận Trưởng Cao Lảnh tỉnh Sa Đéc. Lúc ấy theo lịnh chánh quyền Pháp, ông bắt Cộng Sản rất gắt mà tín đồ Cao Đài ông cũng cho công an bố ráp. Đùng một cái 9-3-1945, Pháp bị đảo chánh, ông mới bừng tỉnh biết mình đã đi quá đà nên ăn năn, trở lại nhập môn theo Đạo, trước có chổ ẩn trú bảo đảm, sau có chổ tiến thân trong hậu lai.
Ông được Đức Hộ Pháp phong Hiền Tài Ban Thế Đạo và hành sự ở Bộ Quốc Sự Vụ chung với quí ông Trần Văn Quế; Nguyễn Bửu Tài, Đốc Học ……Khai, Lê Minh Tòng, Lê Thánh Tường, Hồ Tấn Khoa ….
Về văn chương ông có làm nhiều thơ, có một tập “Hoa Trái Mùa” của ông xuất bản rất được hạng trí thức táng thưởng.
Khi Hội Thánh Ngoại Giáo tái lập (1947) ông được cử làm Khâm Mạng Đạo Tần Quốc. Chức Sắc không ai được châu cấp mà chỉ có ông được lảnh 3.000 h mỗi tháng để phụ vào chợ búa, tiêu vặt…
Vì lúc Đức Hộ Pháp bị đồ lưu, ông Giáo Sư Lê Văn Bảy vẫn hành Đạo xưng Khâm Trấn Kim Biên, làm chủ các Thánh Thất nơi Miên Quốc. Nay Đức Ngài về đáng lẻ ông Bảy phải trở về Tòa Thánh phục lịnh, ông lại ngang nhiên hành sự đơn phương, tức là muốn chiếm đoạt quyền hành và các cơ sở của Hội Thánh. Đức Ngài bổ Chức Sắc và một vị Khâm Mạng là để có người đủ trí thức tài năng đòi ông Bảy phải trả chủ quyền của Đại Đạo lại cho Tòa Thánh.
Sau nhiều tháng làm việc ông Tấn đâm đơn kiện ra tòa. Tòa Nam Vang cho Hội Thánh được kiện và ông Bảy phải trao các cơ sở cho Đạo làm chủ và cả Chức Sắc, Chức Việc nơi Tần Quốc phải tùng quyền Tòa Thánh Tây Ninh.
Đó là công lớn của ông Tấn đã làm tròn phận sự Khâm Mạng Đạo Tần Quốc.
Một năm sau ông về Tòa Thánh được bổ làm Cố Vấn Quân Sự cho Quân Đội Cao Đài. Ông rất lịch thiệp đối ngoại với chánh phủ Pháp.
Mỗi khi có lễ lộc, ông đọc diễn văn hoặc dịch tại chổ những diễn văn của Sĩ Quan Pháp rất là lưu loát. Tài năng đặt đúng chổ ông đem hết nhiệt tình đẩy bánh xe biến hóa của Quân Đội lên tột đỉnh vinh sang của nó.
Nhưng kẻ có tài thường bị ganh tỵ, sợ rằng kẻ tài năng kia sẽ chiếm hết uy tín của mình nên ông Tấn bị lên án làm mật vụ cho Pháp và bị ám sát một cách bí mật ….
Về với Đạo ông Đốc Phủ Trần Văn Tấn được nhiều ưu ái về tâm hồn:
Ông được Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ giáng cơ đêm mùng 9 tháng giêng Tân Mão (14-12-1951) đại để:
……Bần Đạo cũng được an vui thấy Hiền Hữu để tâm chung lo cơ Đạo, tạo cuộc đời tàn trong 1 kiếp may duyên mộ Đạo là còn nhớ căn xưa, vậy Bần Đạo tặng cho hiệu là “Giác Tỉnh”. Từ đây gắn để tâm thi hành phận sự rồi sau nầy sẽ gặp các bạn tri kỹ ngày xưa.
Trên đời có chi vui sướng bằng biết đặng linh căn của mình, nhứt là được một vị Tiên Nữ giáng cơ, cho mình là người tri kỷ. Vị Tiên ấy là Thu Hồng Tiên Nữ. Bà có cho ông Tấn 2 bài, mục đích mừng ông gặp Đạo và khuyên hãy trọn tâm phục vụ Đạo chớ đừng xu hướng theo đường thế nữa.
Thi:
THU về nhắn bạn cố tình xưa,
HỒNG đức kiếp sanh chỉ chúa thừa.
TIÊN động giáng lâm mừng nghĩa cũ,
NỮ lưu thỏ thẻ nhắc năm xưa.
Ưa nhân, ưa nghĩa, chẳng ưa tình,
Hăng hái cho ai đáng kiếp sinh.
Phấn chấn tầm phương lo giúp Đạo,
Phải hồi, chớ đợi lựa quân minh.
Năm 1947, Bát Nương có giáng cơ bài vận “cò” yêu cầu họa:
Hễ muốn làm sư phải hược trò,
Vụn may thường đổ lỗi người đo.
Nháy duyên Tây Tử cười môi méo,
Đoạt điệu Đường Phi bước trẹo giò.
Bắt nguyệt lại mò trăng đáy nước,
Theo Tây bợ ngợ viết nhà Nho.
Vui chi hơn gặp tay tài tử,
Vãy lước chòm cây có cứt cò.
Ông Tấn họa luôn 2 bài:
Hài hước trần gian vẫn đóng trò,
Chìn ình cục dốt thước không đo.
Lâm lê bảy bước bò ê gối,
Hè hụi năm xe đẩy rã giò.
Xí tú đẩy đưa ba chú Pháp,
Nôm na trêu ghẹo mấy thầy Nho.
Thầy Tiên trò tục mà liên lạc,
Thơ xuống thơ lên khỏi dán cò.
Thầy ở trên mây dưới đất trò,
Thầy cao trò thấp chẳng so đo.
Theo Trâu mịt mịt hơi đà mệt,
Soi lỗ tâm tâm trí khó dò.
Mõ cá chài kình vui cửa Đạo,
Ngâm hoa vịnh nguyệt thú nhà nho.
Lưng qui hạc đậu dần chưa sánh.
Ngất ngưỡng trời nam thỏa chí cò.
Người ta làm một bài còn bể óc mà ông làm 2 bài mà chưa thỏa chí, còn làm thêm 1 bài kĩnh vấn để nhờ các Đấng giải chữ Nhơn Nghĩa như thế nào mà loạn ly chết chóc quá lẻ và đến bao giờ mới chấm dứt cảnh nồi da xáo thịt, chừng nào nền Thiên Đạo mới được thạnh hành ?
KỈNH VẤN
Khép nép cầu Tiên chỉ giáo dùm,
Cửa Trời trò khó đứng khum khum.
Nhơn là tiếng súng tai nghe ỏi,
Nghĩa ấy quân reo tiếng ó rùm.
Chiu chít bầy gà côi khóc mẹ,
Nghinh ngang lũ cáo cậy oai hùm.
Nhơn sanh xâu xé xương thành núi,
Thiên Đạo bao giờ cội mới sum ?
Bát Nương có trả lời cho ông Tấn như vầy:
“Đoạn đời đã trãi mấy ai dùm,
Một gánh giang san nổi tiếng um.
Trông bóng thiều quang, mây án khuất,
Cầm gươm tuế nguyệt đỡ khum khum.
Bấy nhiêu đó, rồi nên Đạo, sẽ tiếp cho.”
Chúng tôi xin mạng phép giải thích bài thi của Bát Nương: ý bà nói hồi ngoài đời làm quan có ai giúp dùm đâu mà cũng nổi tiếng vang danh một vị Đốc Phủ Sứ. Nay muốn thấy mặt trời mà bị vừng mây án khuất. Sống qua ngày mà phải lòn cúi thiên hạ thì cái sống ấy có giá trị gì ? chi bằng noi bóng từ bi của Đức Chí Tôn , phục vụ cho Đạo, giãi khổ cho nhơn sanh qua hồi loạn lạc thì có phải cao thượng cho kiếp người chăng ? có lẻ Bà Bát cho rằng ông Tấn có một màng “vô minh” như mây che mặt nhựt nên chưa tin hẳng ở Đạo, nên còn hỏi “nhơn nghĩa gì mà có súng có quân”. Vậy chớ Đạo cứu đời bằng cách nào ? Nếu không dùng Thư Hùng Kiếm để trừ tà khữ mị, ai chết mặc ai, miễn mình sung sướng thì cuộc sống ấy có giá trị gì ?
Ông Tấn có làm bài “Nhạn Về Đông” với lối trình bày đặc biệt.
Nhạn về Đông gởi bạn tình chung,
Gởi bạn tình chung một tấm lòng.
Chung một tấm lòng ngơ ngẩn đợi,
Lòng ngơ ngẫn đợi Nhạn về Đông.
Chúng ta có thể vẽ mộ vòng tròn để bài thi luân lưu, quật đuôi lại.
Bạn tình chung -> gởi bạn tình chung -> một tấm lòng -> ngơ ngẩn đợi
Xin nói rõ kẽ giết Đốc Phủ Tấn là Trung Tướng Nguyễn Văn Thành. Ông Thành có thú thật với những thân tín ông rằng ông Tấn hiện hồn về đòi đầu. Ông Thành cung tay đánh, thành thử tay ông bị va vào vách tường xưng vù lên.
Hiện giờ (1985) hai ông Thành và Tấn đều về Thiêng Liêng, có lẻ họ phải ra tòa Tam Giáo để được công minh phân xử.
Còn bà bạn của ông Tấn tuy biết chắc chồng mình chết vì tay ông Thành nhưng không có ý trả thù. Bà có bà con với Lai Hữu Tài và Lai Hữu Sang, thời Ngô Đình Diệm làm Giám Đốc Công An, rất có thế lực. Hai ông Tài, Sang hỏi ý kiến bà Tấn, nếu bà chấp thuận báo oan cho chồng thì họ sẽ ra tay. Nhưng Bà Tấn nói: “Mỗi người có số mạng , ta không nên gây thêm oan gia nữa. Phần ông tôi tới số nên phải chết, tôi không oán ai hết.”
Âu cũng là một người cao thượng đáng phận đệ tử của Phật Mẫu đã ung đúc từ lâu. Ông Tấn chỉ còn lại một đứa con trai tên Trần Văn Cao, đậu đến Thạc Sĩ Kinh Tế Học hiện ở Pháp. Còn Bà Tấn ở Sài Gòn, mua bán hột soàn, cũng sống một cuộc đời nhàn hạ.
Rất tiếc một hạng trí thức đã về với Đạo mà không phục vụ được thời hạng lâu dài. Với tài năng ấy ông xứng đáng là một vị Chức Sắc trong Thập Nhị Thời Bảo hay Thập Nhị Thời Quân mới vừa khả năng. Kẻ giết ông vì ganh tỵ quyền hành đã vô tình làm thiệt thòi cho sự tiến triễn chung của nền chánh giáo, vì nếu có người muốn về với Đạo sẽ sợ bị thiệt thân như ông Tấn mà dừng bước trở chơn, âu cũng điều đáng tiếc lắm vậy.
Có lẽ quí vị cũng muốn biết Bà Thu Hồng Tiên Nữ lảnh phận sự gì nơi Thiêng Liêng; chúng tôi xin sao lục vài bài Thánh Giáo để quí vị tường lãm.
Gia Định le 25-12-1941 13h
THU HỒNG TIÊN NỮ
Chào quí vị Thiên Phong Nam Nữ.
Em vâng lịnh trên là Đức Lý Giáo Tông, dưới có cô Bát Nương dạy bảo, cho phép em giáng đàn lo giúp ý kiến với quí vị.
Mỗi vị phải lảnh một phần trách nhiệm trong cơ quan. Vậy em xin để trọn phần cho mỗi anh tình nguyện và mỗi chị trong 10 phút đồng hồ rồi trả lời từng vị tùy theo lớn nhỏ. Lúc nào mình cũng có thể phô trương cả lo liệu nên trước 1 ngày là 1 ngày chúng sanh hữu hạnh đó. Nếu trễ một ngày là hại cho chúng sanh.
Vậy theo ý em, xin quí vị hãy chia làm 3 phần trong cơ quan Minh Đức:
Phần thứ nhứt: ít vị lo vận động tài chánh cho có sẳn.
Phần thứ nhì: ít vị lo phần tạo tác và tấm vật liệu, khi nào phải cần dùng.
Phần thứ ba: ít vị đi lo phổ thông và mua bán.
Vậy quí vị có đồng ý chăng ? hoặc có ý kiến nào hay xin bàn luận.
(Trí Tâm có ý muốn giải tại sao mấy vị mới chưa để ý trong cơ quan).
Phần ông là đặc biệt em muốn hỏi thăm mấy vị chưa có phận sự….
(xin cơ đợi say tính trong 10 phút)
-Đặng…….tái cầu có em.
Cô Vương Thị Lễ giáng, mời cô Nguyễn Thị Đắc hầu chuyện …….
Rằm tháng chạp N Ngọ 20 Janvier 1943
THU HỒNG
Chào quí vị
Em đặng lịnh đến tỏ cho quí anh quí chị năm Ngọ hầu mãng, vậy mấy anh mấy chị liên hợp lại lập một tờ sớ, kể cả hành vi trong năm. Như thoản quí anh quí chị thi hành hoặc không đặng hay là chưa rồi thời cắt nghĩa tại sao thi hành không đặng, coi lại Thánh Giáo cho kỹ, không nên bỏ sót vì các Chư Phật sợ giao cho quí anh quí chị tình nguyện mà không thi hành được. Nếu không lập sớ cầu xin tha tội thì bị tai ách khốn khổ, quỉ xua xin cám dỗ nữa.
Nhớ lập sớ xong đến ngày 23 tái cầu, có chị Thất Nương giáng chỉ.
Em chào.
Gia Định le 14 September 1941 13h
THU HỒNG
Em vâng lịnh Cữu Vị Nữ Phật giáng đặng đáp lễ cùng quí vị Thiên phong. Trước hết em xin chào mừng quí vị, sau đây em xin trình tấu công quả hành trình trong cơ quan Minh Đức.
Theo lời dạy của Cữu Vị Phật Nương thì cơ quan nầy ngày sau sẽ hiệp một chủ nghĩa đại đồng cho toàn thể mấy anh theo chơn lý 1 góc nảy ra. Ai ai cũng tưởng là việc riêng của cá nhân. Trái lại phải liệu lo làm sao nhập làm công bổn mới đứng vững. Mấy anh chịu khổ trong một thời gian ngắn ngũi. Tổ chức nó cho có tên tuổi hòng ngày sau lấy nó làm căn bổn buổi đầu tiên cho cơ quan tái lập.
Mấy vị ai cũng cho về nơi tổ đình là việc khó khăn biết mấy. Mà thật đó chẳng có Thánh Tiên vận động thì không dễ gì đâu? Ngặt phải rõ Đạo, phàm muôn việc chi trên địa cầu nầy đều có nửa phần Thiêng Liêng, nửa phần vật chất. Vậy chỉ có ta hiệp với các Đấng mới thành tựu, chớ mỗi việc chi đều phú thác cho bề trên thì có thể nào đào tạo những vật chất hữu hình nơi thế cho được.
(Trí Hoằng hỏi chừng nào chúng tôi về Tòa Thánh, rồi đây phải lở vỡ không biết làm sao ?)
-Lo chi vì nó là cái máy động cơ do mấy vị xây trở sai khiến nó. Nếu ngày sau quí vị chi lộ phần trách nhiệm thì phú thác cho mấy em tiếp tục- Phàm hễ tre tàn thì măng mọc, lo chi không người.
Ngặt buổi nầy có người mà như không, vì các lằng điển không phù hạp với nhau nên lo lo tính tính đến không ra mối. Chớ chi quí Ông quí Bà họp một khối điển cầu khẩn chư vị khiến kêu về nuôi không hết, không đủ công việc làm. Em ước mong sau nầy quí Ông quí Bà sắp đặt lại cho tận mỹ, chừng đó em sẽ kêu gọi chư vị đến chớ cái trách nhiệm của quí vị ngày sau rất là to tác. Vì cái trách nhiệm ấy các Đấng khiến cho quí vị cơ quan Minh Đức nầy ra, bằng chẳng có điều sẽ đến ấy thì các Đấng xây trở bằng một cách khác nữa.
(Trí Hoằng hỏi về số người bị nạn)
-Điều ấy không lâu đâu. Từ buổi Đạo bế, Thần Tú nổi lên thì cải cách hành Đạo theo thinh âm sắc tướng, thâu góp của thập phương cúng kiến mà nuôi hồ khẩu, hoặc bài đàn ví trận, kể là công rồi đòi tiền công đức. Nếu hành Đạo theo lối đó thì quí vị tưởng sau sẽ đắc Đạo được chăng ? Bao giờ chúng sanh được nhờ hồng ân phúc chơn Đạo ?
(Trí Hoằng hỏi về Khai Pháp)
-Nếu kẻ nào vẫn theo con đường ấy thì không khỏi một ngày kia khỏi Thiên Điều thành Phật tại thế, hoặc về Thiêng Liêng trả quả, trở lại kiếp luân hồi.
Riêng phần em thì em rất nể và kính phục mấy anh đến hữu căn tiền định mới sáng suốt lập cơ quan nuôi sự sống cho chúng sanh đó là chánh Đạo. Vậy cứ đó mà làm căn bổn sống với nó, mà chết cũng do nó thì có lẻ Đạo ở trong đó. Không dùng của bá tánh cũng không hể sửa lực của nơi nào, không thâu góp một ai. Vậy mới tỉnh trí an tâm hành Đạo, bước vững vàng, khỏi sợ gập ghềng té nhào hụt chơn.
(Trí Tâm than về thế cô sức yếu)
-Xin quí vị bền chí, cây càng cao thì gió càng to đa. Qúi vị hãy trù tính đi, ngày sau đây em sẽ tiếp chuyện nữa. Em chào quí vị.
Thăng
Để khỏi lạc đề, chúng ta trở lại luận đời tư của ông Đốc Phủ Tấn.
Ông là một quan lại hữu danh biết xài tiền, biết ăn nơi nào ngon nhất nào, biết chơi nơi nào sang nhất. Ông đã tập sự cho Trung Tướng Thành đến những nơi ấy để nếm mùi ngon vị ngọt của kiếp người sang.
Vậy mà ông Thành không cho là kẻ ân nhân mà lại trờ mặt ám hại. Thật rất buồn cho tình đời bạc bẻo.
Lúc ở Kiêm Biên khi nhàn rỗi, ông Tấn có cho mời 1 ban cổ nhạc có đờn cò, đờn kìm, đờn sến, đờn tranh … đến văn phòng Khâm Mạng Đạo Nam Vang để tiêu khiển, có khi đến 1,2 giờ khuya mới giải tán. Tức ông là người tao nhã mến nghệ thuật, có tâm hồn nghệ sĩ.
Chúng tôi đoán ông là một chơn linh cao trọng nên luôn đứng một địa vị lãnh Đạo chỉ huy, không hề chịu đứng sau lưng những người ít học hơn mình. Khi Bà Thu Hồng Tiên nữ nhận ông là “ Bạn tình xưa”, “ Người nghĩa cũ” thì chúng ta càng chắc rằng ông là ông hẳng có căn Tiên, kiếp Thánh.
Chúng ta rất tiếc một bậc tài ba phải vắn số trong lúc Đạo còn cần nhiều nhân tài để phục vụ để nâng nêu thánh giáo của Đức Chí Tôn sớm đến bến vinh quang đại đồng thiên hạ.
BÁT NƯƠNG DẠY ÔNG ĐỐC PHỦ TẤN
Ngày 11-1 Giáp Ngọ (1954)
…Nền chánh trị hay đúng hơn là bộ máy cai trị dân với phương pháp hữu nghị hoặc võ nghị là tấn tuồng chánh nhứt để qui tựu một sắc hay nhiều sắc dân vào một hệ thống.
Ngẫm lại từ cổ chí kim, từ Vương Đế đến dân quyền đã trãi qua biết bao lắm thăng trầm vinh nhục, thử hỏi nền tảng ấy lấy đâu làm chắc ?
-Dụng quyền ư ? quyền hà khắc hay độc tài ?
-Dụng lực ư ? lực bạo tàn hay áp chế ?
Hai phương pháp nầy không sao mà không dụng một; bằng chẳng dùng cả hai thì cơ trị dân từ trước đến giờ Thiếp tưởng ắc chẳng có.
Cười…Nếu như vậy chánh trị chỉ có nghĩa là bảo thực quyền bính mà thôi chứ không có thể gọi là trị bình được. . . Thăng.
Biên soạn 1985
Quang Minh