Hồi ký của QUI TÂM |
GIAI ĐOẠN II (1960-1975)
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo Chủ Đạo Cao
Đài Uỷ nhiệm ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung Đạo Hiệu Nhựt Quang lãnh đạo Chánh Sách
Hoà Bình Chung Sống.
Ông Phạm Duy Nhung sanh năm 1926 tại Quảng Nam
trong một gia đình Nho Giáo. Ông đắc khoa mục Luật Sự Hiệp Thiên Đài năm 1949.
Khoa này chọn có 2 người ông Phạm Duy Nhung và Hạ Chí Khiêm (Đạo Đức Học Đường)
nhưng ông Khiêm bỏ cuộc, ông Nhung được ân điển Đức Hộ Pháp công nhận cho phép
phò loan tại Báo Ân Từ .
Anh em Luật Sự có tổ chức Đàn cơ gọi là Vô vi
Đàn để học hỏi riêng tại tư gia ông Luật Sự Huỳnh Văn Hưởng và Đức Hộ Pháp cũng
có cho phép bên Quân Đội Cao Đài một Đàn cơ gọi là Thanh Trước Đàn đều do ông
Nhung phò loan.
Cụ Trần Quang Vinh có Đàn cơ tại Sài Gòn, Quí
Ngài Hiến Pháp, Tiếp Pháp, Bảo Thế, Khai Đạo cũng có Đàn cơ tại Hiệp Thiên Đài
đều mời ông Nhung dự phò loan.
BAN LÃNH ĐẠO CHÁNH SÁCH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG
Gồm có :
Chủ tịch : Ông Phạm Duy Nhung
Phó Chủ tịch: Ông Trương Văn Quảng, Đạo hiệu
Minh Hiền.
***
Năm
1960
Năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
được tuyên bố thành lập do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.
Đến cuối năm, thừa dịp binh sĩ Đồn Trảng
Sụp (Đồn của Quân đội Quốc gia lớn nhất ở Tây Ninh) ăn tất niên no say, thiếu sự
đề phòng, nên Bộ đội của Bảy Môn tấn công vào đồn gây tổn thất lớn đối với binh
sĩ Quốc gia. Trận này làm chấn động dư luận trong và ngoài nước, mở màn cho cuộc
chiến Nam Bắc phân tranh huynh đệ tương tàn.
Vai trò của những người được Đức Hộ Pháp giao
phó tiếp tục sứ mạng Hoà Bình đã đến lúc hoạt động mạnh mẽ trong nước và ngoài
Quốc tế.
*
Năm
1961
Đầu năm 1961 Đức Hộ Pháp giáng dạy anh
em về việc làm đúng lúc cuộc chiến tranh Việt Nam bùng nổ.
Trước đó, trong khi chánh phủ Ngô Đình
Diệm với chế độ độc tài gia đình trị càng ngày càng xa dân chúng, có phương hại
cho tình đoàn kết nhân dân miền Nam, ông Nhung được lịnh của Đức Hộ Pháp dạy gặp
cụ Ngô Đình Cẩn, một lãnh chúa miền Trung- phần Việt Nam tức là gặp thân nhơn
gia đình họ Ngô lần thứ hai sau lần gặp cố vấn Ngô Đình Nhu.
Ông Cẩn là người rất nguy hiểm, nhưng bất ngờ ngoài sức tưởng tượng, ông Nhung
được ông Cẩn ân cần tiếp đãi như một khách quý khi biết ông Nhung là môn đồ của
Đức Hộ Pháp. (Đối với Ông Cẩn dầu cho một vị Bộ Trưởng, một chính khách hay trí
thức nào ông cũng tiếp một cách tầm thường, có khi ông nằm võng ăn trầu tiếp
chuyện). Ông Cẩn trịnh trọng xem chứng thư của Đức Hộ Pháp ban cho ông Nhung và
nói rằng kính trọng Đức Hộ Pháp như bậc Thầy. Ông cho ông Nhung biết biệt hiệu
của ông là Phú Sơn do Đức Ngoại Hầu Cường Để ban cho trong số 7 nhà Cách mạng ở
Thất Sơn, một biệt danh mà ông chưa tiết lộ với ai kể cả ông Diệm và ông Nhu.
Ông đã phản đối ông Diệm về vụ đàn áp Giáo Phái và hứa sẽ tìm cách sữa chữa .
Tưởng cũng cần ghi chú rằng trong hai
lần gặp gỡ ông Nhu và ông Cẩn, ông Nhung đã thẳng thắn chỉ trích những sai lầm
của chánh phủ và trình bày đường lối cứu dân cứu nước giải quyết chiến cuộc Việt
Nam bằng tình thương và phương pháp ôn hoà của Đức Hộ Pháp.
Lạ
một điều là gia đình Họ Ngô thẳng tay đàn áp Chính sách Hoà Bình của Đức Hộ Pháp
nhưng khi gặp ông Nhung Đại diệnChính sách Hoà Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp
thì ông Nhu và ông Cẩn đều tỏ ý kính trọng Đức Hộ Pháp.
CUỘC
LỄ RA MẮT TOÀN ĐẠO CỦA ÔNG TRẦN QUANG VINH,
PHỐI SƯ CỐ VẤN HÀNH CHÁNH ĐẠO
Ngày 8 tháng 9 Tân Sửu (1961)
Trần Quang Vinh là một Chức Sắc cao cấp Cửu Trùng Đài được sự tín nhiệm của toàn Đạo. Cuộc lễ do ông tổ chức được sự ủng hộ nhiệt tình của khối Hoà Bình.
Đức Hộ Pháp có giảng dạy về cách tổ chức mời quan khách, các ngoại giao Đoàn, toàn Đạo và định ngày giờ cho cuộc lễ ngày mùng 8 tháng 9 năm Tân Sửu 1961.
Đức Hộ Pháp cho ông Trần một bản tuyên ngôn để đọc trong cuộc lễ về Hoà Bình. Đức Hộ Pháp dạy riêng cho các vị Sĩ Tải để chỉ giáo tỉ mỉ nhiều câu biểu ngữ trình bày trong buổi lễ. Anh em Hoà Bình làm sẵn biểu ngữ một cách kín đáo không ai bên ngoài biết được.
Đến ngày lễ lúc 3 giờ sáng anh em đem một bó trúc và các tấm biểu ngữ để sẵn trong rừng thiên nhiên.Đến 6 giờ sáng, các cửa ra vô Nội ô Toà Thánh đều có công an canh gác chặt chẽ không cho ai vào, những người đi trễ phải leo rào phía đường lộ hàng trúc.
Đến giờ bắt đầu buổi lễ, ông Trần không đọc bản tuyên ngôn và tuyên bố giải tán cuộc lễ.Các Chức Sắc hai bên khán đài ra về theo, chỉ còn lại một số bổn Đạo và anh chị em Hoà Bình. Sĩ Tải Nguyễn Văn Tú đứng lên trước loa phóng thanh ở Đại Đồng Xã kêu gọi Hoà Bình và các biễu ngữ được trưng lên, sắp hàng bốn người đi có thứ tự vòng theo hai bên đường Đại Đồng Xã tuần hành theo lộ Bình Dương đi ngang qua Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường đến Báo Ân Từ (Đền thờ Đức Phật Mẫu) rồi quay ra trước Đền Thánh hô to những khẩu hiệu Hoà Bình theo các biễu ngữ. Buổi lễ được giải tán một cách ôn hoà.
Khi công an đến trình với Tỉnh Trưởng Tây Ninh là Thiếu Tá Nhuận (người Công Giáo) về cuộc lễ, ông Tỉnh Trưởng nói : Người ta hô hào Hoà Bình trong phạm vi Nội ô Toà Thánh không xâm phạm ra ngoài thì thôi.
Sau cuộc lễ không có ai bị bắt, cuộc lễ này cũng như cuộc lễ ngày mùng 9 tháng Giêng Năm Đinh Dậu hồi Đức Thầy còn sanh tiền, tinh thần người Đạo lên cao hưởng ứng Hoà Bình một cách mạnh mẽ.
Đức Thầy có dạy sau cuộc lễ mướn 4 chiếc xe đò đi Sài Gòn, khi đi mặc sắc phục Đạo áo dài trắng, tự túc tiền lộ phí, khởi hành tại Toà Thánh lúc 12 giờ đêm ngày 8 tháng 9 rạng ngày 9 tháng 9 là ngày trùng dương. Xe chở trên 200 người (còn sót lại một số vì không đủ chỗ ngồi), mỗi xe có một người hướng dẫn. Gồm các ông : Đỗ Văn Hẳng, Phan Châu Minh, Lê Văn Được, Nguyễn Ngọc Soan. Khi đó các anh em Sĩ Tải đã xuống Sài Gòn để đón trước vào buổi chiều mùng 8.
Khi đến Sài Gòn, ông Nhung lo chấp bút để Đức Thầy dạy phải tiếp xúc ai, còn các vị Sĩ Tải thức suốt đêm để chờ lịnh Thầy. Đến 1 giờ khuya,Đức Thầy dạy mấy vị Sĩ Tải đưa 4 chiếc xe đò qua xóm Gò Vấp dự tang lễ Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.
Nói về bản tuyên ngôn của Đức Hộ Pháp cho ông Trần đọc trong buổi lễ để đánh thức lòng yêu thương của mọi người với lời lẽ đạo đức, ôn hoà không chống đối hay bài bác một ai nhưng rất tiếc là không đọc được.
Nước cờ dục tấn của Đức Hộ Pháp không ai biết trước được, chỉ tuân lệnh lo làm cho đúng theo lời dạy, chớ không biết trước được kết quả.Khi sự việc qua rồi mới thấy được Đức Ngài hành pháp biểu dương tinh thần của Đạo, và Hoà Bình trước mắt quốc dân và quốc tế, mà không có điều gì sai phạm với quyền Đời, với lý do dự tang lễ Ngài Bảo Pháp.
Ở Sài Gòn bữa đó dân chúng cũng lấy làm ngạc nhiên, với một số đông người mặc sắc phục Đạo (trắng), có cả công an cảnh sát theo dõi, đêm đó trùng hợp với cuộc âm mưu đảo chánh Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, cho nên người ta nghĩ rằng Đạo Cao Đài đến dự đảo chánh. Trong số anh, chị, em đi hôm đó khi trở về mất tin tưởng bỏ cuộc, vì không thấy có kết quả, chỉ đi đám xác vậy thôi.
Việc làm của Đức Thầy bắt gió nắn hình, về hữu hình thì không thấy gì, nhưng phần vô hình pháp phát động Hoà Bình, nếu nhận xét không thấy được phải mất đức tin. Đời chỉ thấy về mặt hữu hình, còn Đạo phải nhìn hai mặt, hữu hình và vi vô huyền bí.
Đường lối Hoà Bình của Đức Thầy trải qua 46 năm (1956-2002) chưa thấy có kết quả, chỉ thấy khổ hạnh triền miên, bị tù tội ngục hình hết lớp này đến lớp khác, có mấy ai tin tưởng ! Chỉ có đặt trọn đức tin nơi Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, với Đức Hộ Pháp là người thừa hành mạng lịnh của hai Đấng Phụ Mẫu vạn linh.
Như vậy cuộc lễ vừa qua là bí pháp phát động Hoà Bình ở giai đoạn hai, sau ngày Đức Hộ Pháp qui Thiên. Sau cuộc lễ, sáu anh em Sĩ Tải và ông Trương Văn Quảng xuống Tân Vạn (Biên Hoà) tránh sự theo dõi gắt gao của chánh quyền Ngô Đình Diệm để hoạt động đường lối Hoà Bình ra quốc tế và tiện đường lên xuống Sài Gòn tiếp xúc các giới. Đến Tân Vạn anh em được Bác Mười Giáo Hữu Thượng Dự Thanh giúp đỡ và bảo trợ một cách tận tình.
Đức Hộ Pháp cho phép lập bàn thờ Hộ Pháp có chữ KHÍ tại tư gia của bác Mười. Bác Mười có nhắc lại hồi làm công quả ệc ở Toà Thánh Đức Hộ Pháp có nói với bác : sau này tao muốn ở đậu nhà mày có được không ? Bác Mười ngơ ngẩn nghĩ rằng Đức Hộ Pháp ở Hộ Pháp Đường chớ đâu có xuống Biên Hoà làm chi. Đức Hộ Pháp nói tiếp : Có được hay không trả lời cho biết. Bác Mười mới trả lời : Dạ được.
Đêm 18-9 năm Tân Sửu (27-10-1961) lúc 20 giờ Đức Hộ Pháp giáng dạy.
Bần Đạo chào các em.
THI
Hộ Quốc an bang trổ Đạo mầu,
Pháp luân thường chuyển hoá năm châu
Vui nền xã tắc chi mà đợi
Mừng đến nơi rồi thiên hạ cầu.
Vì cớ mà khiến cả cơ đời đại nghiệp phải đến chịu sự nhiệm lý nơi đây, tức là mảnh đất Phụng Kỳ, mà em là chủ được đủ đầy ân đức đặng đủ năng lực Âm Dương trở nên thiệt tướng. Như vậy là giá trọng của đại nghiệp, được nhờ nơi sự hoá độ của em tức là vị Bồ Tát đầu tiên mà Bần Đạo chấp thuận. Vậy em tịnh thần Bần Đạo ban thêm điển quang và dạy anh em làm lễ tôn ông là Ân Dưỡng Chơn Nhơn.
Đến ngày 15-10 năm Tân Sửu (1961)
Đức Thầy giảng dạy cho biết : Năm nay là đủ bí pháp thành Đạo đúng trong Tam thập lục Thiên, mà định thành Quốc Đạo. Vậy cho nên kể từ ngày trùng dương (9-9-Tân Sửu) là ngày phát động của các con tính đến rằm Hạ Nguơn tức là cùng tận để bắt đầu Thượng Nguơn khai thế cũng trong bí pháp Tam thập lục ấy.
Bần Đạo dám quả quyết là nội phẩm Sĩ Tải cũng đủ uy quyền đối với Tam thập lục Thiên mà chớ.Lẽ huyền vi ấy thiên hạ đâu được rõ nên vẫn coi thường, Bần Đạo nói thiệt ai phạm vào Thiên Điều ấy ắt hẳn chẳng tránh được điển ngũ lôi mà chớ.Vì cớ đã mang trọng phẩm nơi mình nếu chẳng hiểu e cho tự chiêu kỳ hoạ, huống chi kẻ khác. Nói rõ hơn nữa, phẩm Sĩ Tải là phẩm lưu ký Thiên cơ phát định thiên lý mà giữ lấy Bát Hồn, trước khi đem ra Bát Quái Đài, dầu cho Đại Thiên Phong cũng phải qua Pháp định ấy mà thôi.
Bởi cớ cơ cứu khổ chuyển thành Quốc Đạo cũng dĩ nhiên trong tay của Sĩ Tải chẳng thể qua điều đó đặng. Kể từ ngày chuyển Pháp các em đã thọ Thiên Phong đặng nắm vững Thiên thơ, thì Bần Đạo thấy cả ý chí của các em rất nên xứng đáng lắm vậy.
Cũng trong ngày rằm tháng 10 này, Đức Thầy có dạy một số 12 anh em lập minh thệ tại tư gia Bác Mười.
1. Phạm Duy Nhung |
7. Trương Văn Quảng |
2. Nguyễn Thành Nguyên |
8. Nguyễn Kim Vinh |
3. Huỳnh Văn Hưởng |
9. Phan Châu Ninh |
4. Nguyễn Văn Tú |
10. Nguyễn Văn Minh |
5. Nguyễn Minh Ngời |
11. Huỳnh Văn Tuy |
6. Đỗ Hoàng Giảm |
12. Lê Văn Xã |
Lập nguyện xong, Đức Thầy dạy anh em làm lễ tạ ơn Giáo Hữu Thượng Dự Thanh. Bác Mười ngồi trước Thiên Bàn, anh em lạy 3 lạy.
Khi anh em qua ở Hậu điện Thánh Thất Tân Vạn, ông Trần Quang Vinh có giới thiệu một người bạn thân là anh Nguyễn Văn Trí một nhà trí thức, cũng là một nhân vật quốc tế quan trọng được Đức Thầy thâu nhận và ban cho đạo hiệu Đức Dõng. Từ đó anh thường lui tới nhà bác Mười gặp gỡ anh em và hầu đàn để Đức Thầy dạy việc. Anh Đức Dõng có giới thiệu vài người đồng chí thân mật, cũng được Đức Thầy nhìn nhận. Nhóm này giúp đỡ rất nhiều việc cho anh em hoạt động trong nước cũng như ra quốc tế.
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc giao phó sứ mạng thi hành đường lối cứu khổ và cứu thế trong chương trình Hoà Bình Chung Sống do Đức Ngài đề xướng từ năm 1956.
Với ngòi bút vô tư, ông Nhung đã vạch trần lỗi lầm tai hại của chế độ họ Ngô cùng chánh sách của Mỹ, nói lên tiếng nói của dân tộc đang rên xiết để xây dựng cho miền Nam được lành mạnh, tạo thế quân bình với miền Bắc, mới mong có Hoà Bình thống nhứt trong công bình và danh dự.
Lý thuyết đấu tranh bạo lực của ngoại quốc đưa đến cuộc tranh hùng Nam Bắc (Việt Nam). Anh em một nước xem nhau như kẻ tử thù. Sĩ Tải Phạm Duy Nhung với một ý chí cương quyết đã cố gắng đem văn hoá cách mạng đạo đức của dân tộc để lập lại Hoà bình thống nhứt, hàn gắn vết thương đau của đất nước, con đường mà Đức Hộ Pháp đã vạch sẵn không riêng tại Việt Nam mà chung cho toàn nhơn loại.
Thời gian kinh nghiệm với núi xương sông máu, dân tộc Việt Nam đã thức tỉnh. Cả thế giới đã chán ngán và nguyền rủa cái trò chém giết bất tận, bây giờ người ta mới nghĩ ra một giải pháp thương thuyết Hoà Bình.
Ông Nhung cùng các đồng chí đã bao phen vào tù ra khám với sứ mạng thiêng liêng. Những người ưu thời mẫn thế đã không khiếp sợ trước uy quyền bạo lực và cũng không thối bước ngã lòng vì cảnh ngộ gian nan nguy biến.Cho đến ngày nay sự nghiệp tranh đấu Hoà Bình mà ông thi thố đã trở thành vấn đề cho cả thế giới xôn xao tranh luận.
Thánh giáo Bà Bát Nương có câu :
Bao nét ngọc cáo tri hiệp chủng,
Mượn thơ đề phá thủng trường thành.
Văn thơ của Sĩ Tải Phạm Duy Nhung trong tập tài liệu sử lược này, chúng ta đọc và có dịp trầm ngâm cân nhắc những nhận xét tinh tế, những lời bình luận xác thực, những sự tiên đoán thời cuộc đều ăn khớp. Mỗi bức thư là sự dẫn đường dẫn lối đúng lúc, với một giai đoạn biến chuyển bị bế tắc không có lối thoát. Các phe liên hệ chiến cuộc Việt Nam vì lẽ này lẽ nọ chưa đem giải pháp này ra công khai bàn luận, nhưng cũng đã làm cho Liên Hiệp Quốc cùng các giới tây phương Mỹ Pháp Anh và chánh phủ hai miền Nam Bắc, các cơ quan ngôn luận phải gia tâm nghiên cứu. Vì đó là giải pháp khả dĩ chấm dứt chiến tranh tái lập hoà bình tại Việt Nam, và xoa dịu được mọi bế tắc trầm trọng trên thế giới.
Sau đây là nguyên văn bức thư thứ nhứt của ông Phạm Duy Nhung gởi cho ba vị Đại sứ Anh, Mỹ, Pháp ở Sài Gòn.
***
Sài Gòn, ngày 23 tháng 10 năm 1961
Kính gởi Quý Vị :
- Đại Sứ Mỹ Quốc,
- Đại Sứ Pháp Quốc,
- Đại Sứ Anh Quốc, ở Sài Gòn.
Kính Quý Ông,
Vì cục diện của nước Việt Nam đã đến lúc nguy ngập mà Chánh quyền Ngô Đình Diệm hiện không phương chặn đứng sự lan tràn của chiến tranh.
Nhơn danh là người được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc uỷ thác sứ mạng kêu gọi Hoà Bình và Thương Yêu trong toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung và Chánh phủ miền Nam nói riêng, được có một sức mạnh kết hợp của toàn dân, không nghi ngờ chia rẽ, thù nghịch lẫn nhau, chặn đứng các sự giết chóc giữa người Việt lẫn người Việt.
Chúng tôi gởi đến Quý Ông thơ này hoặc nghiên cứu tại chỗ, hoặc gởi về Quý quốc để nghiên cứu cấp bách đặng cải thiện tình trạng cho nước Việt Nam chúng tôi.
Chúng tôi tin tưởng ở sự chân thành của Quý quốc với đại danh là Liệt cường luôn luôn có ý chí giúp đỡ dân tộc chúng tôi mà không vụ lợi.
Thảm trạng của Lào Quốc vừa qua cũng là bài học hay cho chúng ta với lực lượng cân đồng của hai khối Đông và Tây. Chắc chắn rằng Quý quốc không bao giờ muốn cho dân tộc và tổ quốc của chúng tôi lại trở thành thêm một thí điểm nguy hiểm mà Quý quốc sẽ phải gánh lấy phần tổn phí vô ích mà còn gây nguy thêm phẩn uất trong lòng dân tộc của chúng tôi.
Chúng tôi tin chắc rằng dân tộc của chúng tôi chỉ phẩn uất bởi các lý lẽ mà có lẽ sở mật vụ của Quý quốc đã thâu thập được, ấy chỉ vì sanh mạng lẫn tài sản của họ bị xâm phạm quá nhiều với một lớp bao ngoài hơi mỹ thuật.
Toàn thể trên hai triệu tín đồ Cao Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh của chúng tôi đã tỏ rõ thái độ trong giai đoạn này là : Bất hợp tác, bất bạo động mà sự biểu dương tinh thần đã bộc lộ vào cuộc lễ ngày 17 tháng 10 năm 1961 vừa qua tại Toà Thánh Tây Ninh.
Các Đảng phái Quốc gia chơn chánh họ lại bạo hơn một chút là ý nghĩ đảo chánh đang nhen nhúm lên rất mạnh.
Các quân nhân và công chức bất mãn và nghi kỵ lẫn nhau. Dân chúng phẫn uất và mất tin tưởng
Những tổ chức mệnh danh quần chúng của chánh phủ hiện thời chỉ còn là những chiếc niền rỉ sét của nứt rạn trầm trọng, một nước sơn bao ngoài lớp sơn cây mục chỉ đợi ngày đổ vỡ.Đó là sự thật mà chúng ta phải thành tâm ghi nhận.Nếu tình trạng kéo dài hơn nữa chỉ sẽ có lợi một chiều mà chắc chắn Quý quốc sẽ chẳng hài lòng.
Toàn dân tộc Việt Nam chúng tôi không muốn vậy.
Chúng tôi chỉ muốn Hoà Bình thật sự, Trung lập thật sự và được sự giúp đỡ chân thành của Quý Quốc mà không mảy may vụ lợi.
Người Việt Nam chúng tôi không thể chấp nhận một chủ nghĩa ngoại lai nào.Những ai đã bước vào lối dẫn dắt của ngoại quốc sẽ bị lạc loài, toàn dân chúng tôi xem họ là phản quốc.
Chúng tôi mong mỏi ở sự giải quyết của Quý quốc đặng chúng tôi tránh khỏi chiến cuộc tương tàn.
Chiến cuộc nổ bùng là cán cân nghiêng ngay.
Chúng tôi không muốn tiếng súng nổ để có lợi một chiều.
Toàn dân chúng tôi đã đau khổ quá nhiều, và đúng cương vị Tôn giáo, chúng tôi kêu gọi HOÀ BÌNH, THƯƠNG YÊU và TRUNG LẬP cho Việt Nam.
Toàn thể tín đồ Cao Đài Giáo chúng tôi xin đặt mối cảm tình nồng hậu vào Quý quốc.
Nay kính
*
Toà Thánh Tây Ninh, ngày 1 tháng 12 năm 1961
Kính gởi Cụ Phú Sơn Chí Sĩ (1)
Huế
Kính Cụ,
Vì sự tồn vong của Dân tộc qua giai đoạn nghiêm trọng hiện tại, với lòng kính mến mà chúng tôi riêng đặt nơi Cụ sau khi được hiểu rõ lòng ái quốc cao quý mà Cụ sẳn có, chúng tôi kính cẩn đạt đến Cụ lời tâm huyết mong được sự đồng ý của Cụ thì dân tộc Việt Thường hữu phước dường bao.
Sau ngày được Cụ cho hầu chuyện tại biệt xá vào sáng ngày mồng 9 tháng 2 Tân Sửu vừa qua, chúng tôi hằng ao ước đựơc thấy ý chí đại cách mạng ấy được thật hiện, song mãi đến nay tình trạng đã chẳng được cải thiện mà lại càng trầm trọng thêm.
Với bao lời quý báu mà Cụ đã thốt ra tự đáy lòng của một nhà cách mạng kỳ cựu, chúng tôi vẫn biết rằng Cụ rất bất mãn, nhưng tai hại thay sự bất mãn ấy không thể đương nhiên thố lộ trên hành động mà đứng về phương diện tâm lý ai cũng không thể tránh được.
Bởi không thể chờ đợi hơn nữa, vả chăng bàn tay của ngoại quốc ngày một chêm vào bánh xe Quốc Gia của chúng ta mà hẳn Cụ đã thừa hiểu, nên ngày 23 tháng 10 năm 1961 chúng tôi đã phải gởi cho ba Đại Sứ Anh, Mỹ, Pháp bức thơ mà bản sao lục kèm theo đây để Cụ tường lãm.
Đứng về phương diện đơn độc cực hữu, tất cả đều cho rằng trong giai đoạn hiện tại chỉ có thể nắm lấy giải pháp “Triệt để chống Cộng ” thì mới tồn tại. Nhưng thưa Cụ, chúng ta hãy đặt mình lên khối dân tộc mà nhận xét thì chúng ta thấy rằng dù chống, dù diệt, cái hại chung qui chỉ dân tộc ta gánh lấy, dân ta chết, cơ nghiệp nước nhà tan hoang. Thiên hạ giúp ta chỉ giúp tiền, giúp khí giới để dân tộc ta chết thêm chớ không thể giúp dân tộc ta khỏi chết, nước nhà sản nghiệp ta được toàn vẹn, và tệ hại hơn nữa, Chánh phủ miền Nam bắt giết dân của miền Nam mà thôi. Lợi cho ai, hẳn Cụ cũng thấy rõ.
Về Công Pháp Quốc Tế, Chánh Phủ Miền Bắc không thể công khai tiến đánh Miền Nam mà họ chỉ tạo ra những hình thức của dân chúng Miền Nam đặng gây chiến; trong khi này sự tồn tại của Chánh Quyền hiện hữu không còn là niềm tin tưởng của dân chúng Miền Nam, như vậy thắng lợi sẽ về ai, hẳn Cụ cũng dư hiểu.
Với lý trí Cách mạng, chúng tôi tin tưởng rằng Cụ rất có thể đồng ý với chúng tôi, đường lối chống Cộng hiện hữu đã không còn hiệu lực nữa mà càng làm cho phe Cộng ngày càng thêm bành trướng trong dân chúng và len lỏi ngày thêm mạnh vào Chánh Quyền.
Vì cớ, giải pháp Trung Lập thật sự phải được nêu ra. Với giải pháp này, chúng ta không để cho một chủ nghĩa ngoại lai nào được bành trướng trên lãnh thổ và trong dân tộc chúng ta. Những ai hoạt động cho một chủ nghĩa ngoại lai nào đều phải lãnh án phản Quốc.
Toàn thể trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo của chúng tôi đã nhứt quyết đi với giải pháp Trung Hoà thật sự ấy.
Dân chúng miền Nam đã trên 80/100 cũng hăng hái đi theo giải pháp ấy.
Và chúng tôi đang chờ sự giải quyết hoàn toàn cách mạng mà toàn thể chúng tôi xin đặt trọn tin tưởng dựa theo thành tích cao đẹp cũng như ý chí cao minh của Cụ.
Chúng ta chẳng nên để sự đổ vỡ xảy ra để chúng ta cùng nhau ôm hận vì không nắm vững được thời thế.
Cầu mong được sự hồi âm tốt đẹp, Dân tộc Việt Thường cũng như Tổ Quốc Việt Nam đang hồi hợp chờ đợi từng giờ, từng phút.
Kính đạt.
*
Ngày 4 tháng 12 năm 1962
Kính gởi Ông Đại Sứ Anh Quốc
Sài gòn
Kính Đại Sứ,
Tiếp theo thơ không số đề ngày 25 tháng 10 năm 1961 mà chúng tôi đã gởi đến Quý Đại sứ Mỹ, Pháp, Anh.
Chúng tôi rất đau đớn mà thấy cảnh chiến tranh nội bộ của dân tộc chúng tôi càng ngày càng thêm nhiều mà phần thất là chánh phủ.
Vẫn biết khối Tây Phương rất sẵn lòng giúp đỡ chúng tôi sớm thoát thoát tình trạng đen tối này và chỉ mong muốn cho chúng tôi tự định đoạt lấy tình trạng nước nhà, nhưng chưa thể biết giúp cho ai, bởi chánh phủ hiện tại đã làm Quý quốc mất hết tin tưởng cũng như toàn thể Quốc dân chúng tôi mất hết tin tưởng vậy.
Chúng tôi cũng nghĩ đến những người lưu vong trong đó có cả cựu Quốc Trưởng Bảo Đại song xét lại thì họ không có thực lực quần chúng cũng như không có lực lượng hiện tại, nếu họ tiến được thì khối Quốc gia chưa thể nắm phần thắng lợi.
Vì đó, Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia mà Đức Hộ Pháp chúng tôi cùng các Nhân sĩ cách mạng đã thành lập vào tháng 2 năm 1955 với mục đích giúp đỡ chánh phủ Ngô Đình Diệm buổi nọ đặng đủ năng lực nắm vững biên cương, nhưng vì thiếu suy nghĩ mà Chánh phủ Ngô Đình Diệm lúc ấy đã âm mưu phá Mặt Trận. Vì không muốn có đổ máu vô ích mà khối Cao Đài rút ra ngoài vòng chiến kể từ đó, và Mặt Trận tạm lui vào bóng tối.
Những tưởng rằng tinh thần ái quốc ái dân được thực hiện khi ông Ngô Đình Diệm lên nắm quyền Tổng Thống, nhưng tai hại thay, trên 6 năm qua, người dân cũng như những khối tinh thần Quốc gia chơn chánh vẫn phải ôm hận bởi người lãnh đạo thiếu hiểu biết mà hiện tượng ngày nay là hậu quả.
Không thể chờ đợi hơn nữa, vì để trễ một ngày là tình trạng nước nhà chúng tôi một thêm khó giải quyết nên Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia phải đứng trở dậy đặng cứu vãn tình thế lâm nguy, gầy dựng lại miền Nam Việt Nam thành một lãnh thổ vững chắc với lập trường Quốc gia dân tộc mạnh mẽ, với một chánh thể trung lập thật sự, với một ý chí cương quyết tạo dựng Hoà Bình và Thương Yêu cho toàn dân.
Nhứt định chúng tôi phải định lấy vận mạng của chúng tôi. Chúng tôi phải chặn đứng cảnh tương tàn đang diễn trong dân tộc chúng tôi và chúng tôi vẫn là bạn của Quý Quốc. Tất cả từ nhân sĩ trí thức đến dân chúng đang về Mặt Trận và Mặt Trận quyết nắm vững tình thế và thực hiện sự liên hiệp chặt chẽ của các Đảng phái cũng như toàn dân.
Đó là cuộc cách mạng của toàn dân Việt Nam
Đó là lực lượng hùng mạnh của toàn dân Việt Nam
Quý vị hiểu chúng tôi, nhứt là Đại Sứ.
Với tinh thần hiếu hoà của Nữ Hoàng và quý Đại Sứ chúng tôi tin tưởng rằng chúng tôi không thất vọng ở quý Đại Sứ.
Vậy tâm thơ này, chúng tôi mong mỏi quý Đại Sứ thảo luận cần kíp với Đại Sứ Mỹ và Pháp và sau đó chúng ta gặp nhau để mật đàm và định đoạt sự việc.
Chúng tôi không muốn thấy đổ máu nhiều.
Mong rằng ngày gặp gỡ giữa quý vị Đại Sứ Tây phương và chúng tôi được thực hiện vài ba ngày kế đây để chúng tôi trình bày hết cùng quý vị.
Dưới đây là địa chỉ mật để quý vị liên lạc với chúng tôi.
Trân trọng xin Đại Sứ nhận nơi đây lòng kính mến của chúng tôi đối với Nữ Hoàng cùng Đại Sứ.
Nay kính
*
*
Sài Gòn, ngày 6 tháng 12 năm 1961
Kính gởi Ông Đại Sứ Anh Quốc,
Sài Gòn
Kính Đại Sứ,
Tiếp theo thư số 001/ĐD-HP/TN, ngày 4 tháng 12 năm 1961, chúng tôi xin gởi đến Đại Sứ các chi tiết sau đây đặng giúp thêm sự nghiên cứu được tiến sớm chừng nào thì rất may cho dân tộc chúng tôi cũng như cho uy tín của khối Tây phương mà quý Quốc là nước xứng đáng làm gương.
Đứng giữa sự tranh giành của hai phe tả và hữu, những nước hậu tiến và nhược tiểu như nước Việt Nam chúng tôi phải gánh lấy các sức nặng của hai khối. Trong khi đó, người dân thiếu học kém hiểu, tối ngày chỉ biết tìm lấy cái sống và hạnh phúc đơn giản cho gia đình, bỗng nhiên bị xúi giục, kẻ bảo vầy người bảo khác, để rồi họ phải chịu bao cảnh tang tóc đoạ đày, biệt ly tan nát, đói rét tật nguyền mà miếng lợi chỉ để cho riêng một nhóm người chia hưởng. Nhìn thấy thực tế đau thương, người dân lại bị lôi cuốn bởi đói hành động giả dối nhưng hạp với cảnh tình, hỏi làm sao họ còn sáng suốt mà nhận định cho được.
Đứng trên tinh thần Quốc gia dân tộc, chúng tôi thấy rằng dân tộc Việt Nam chẳng thể đứng vào hàng vô sản và vô đạo đức cho được, truyền thống tổ tiên chúng tôi đã nói rõ điều ấy trên 4.000 năm lịch sử.
Vậy cho nên việc nói rằng chống Cộng với phương pháp bạo hành không mảy may hiệu lực mà còn vô tình giúp phương tiện bành trướng cho nó là khác.
Dân tộc chúng tôi đã bị xâm phạm từ tài sản đến sanh mạng quá nhiều. Ngày giờ này tất cả sự việc ấy phải được chặn đứng tức khắc. Chúng tôi chưa có Tư bản thì chẳng bao giờ có Cộng sản, ai có đem nó ra gieo rắc thì tự nó phải thối mục mà thôi, chúng tôi không nhìn đến nó, không nghĩ và cũng không nói đến nó.
Trong lúc này chúng tôi chỉ cần xây dựng tình thương yêu trong dân tộc chúng tôi với các tinh hoa giúp sống của tinh thần tương trợ và tự lực cánh sinh.Vì vậy hiện tình của chánh quyền miền Nam không còn phù hạp với giai đoạn và phải chấm dứt tức khắc.
Một tinh thần ái quốc ái dân phải sống mạnh trong một thể chế Trung lập thật sự, một nền Trung Lập dung nạp tả hay hữu mà chỉ giữ lấy tinh tuý cổ truyền của tổ tiên để lại.
Các Đảng phái quốc gia hiện vì không chịu nỗi sự đè nén đàn áp, đã vô tình làm lợi khí cho miền Bắc và làm suy yếu miền Nam, cái hại trước mắt khiến chúng tôi phải đau lòng.
Vẫn biết quý Đại Sứ cần nhiều suy tính đặng giải quyết kịp thời, chúng tôi luôn luôn tin tưởng Đại Sứ có đủ phương giúp đỡ dân tộc chúng tôi.
Để thúc đẩy phong trào hầu giữ trọn tinh thần của khối quốc gia, Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia nhứt định cầu cứu nơi Đại Sứ và quý Quốc với ân đức của Nữ Hoàng, mượn thế của Tây Phương sẵn có : Như Mỹ về việc tiếp viện, Pháp về cảm tình các quân nhân Cộng Hoà Việt Nam, đặng thúc đẩy sớm một cơ hội cho Mặt Trận được đủ thế lôi cuốn và đem về cho quốc gia cả các con chiên chạy lạc.
Chúng tôi chỉ biết nhờ cậy có bấy nhiêu mới đủ năng lực hầu giữ vững thế cờ cho cả thế giới khỏi hoạ tiêu nhận thức.
Các khoản riêng mà chúng tôi đã trình bày với vị Bí thơ của quý Đại Sứ đã chứng tỏ điều ấy.
Tình trạng không cho phép chúng tôi chần chờ quá một tháng.Nếu trễ không còn cứu vãn được nữa.
Toàn dân Việt Nam chúng tôi đang trông chờ sự giải quyết của Đại Sứ.
Chúng tôi trân trọng kính mến Nữ Hoàng và rất mong được chịu ơn của Đại Sứ.
Nay kính
*
Năm 1962
Sài Gòn, ngày 8 tháng 3 năm 1962
Kính gởi Quý vị:- Đại Sứ Mỹ Quốc
- Đại Sứ Anh Quốc
- Đại Sứ Pháp Quốc
Sài Gòn
Kính Quý Đại Sứ,
Chúng tôi rất khó nghĩ khi phải gởi đến quý Đại Sứ thêm bức thơ này, song xét vì sự việc đã xảy ra làm cho tình trạng nước nhà của chúng tôi ngày thêm nguy khốn mà trách nhiệm ấy vốn quý Quốc phải gánh lấy phần, vậy cho nên thơ này bắt buộc phải viết vẫn không ngoài ý chí cứu quốc cứu dân của chúng tôi.
Mặc dầu những thơ trước đã được quý Đại Sứ và quý Quốc nghiên cứu, nhưng những trạng thái khiến đổ vỡ khối tinh thần Quốc gia không mảy may cải thiện, mà trái lại, mỗi ngày mỗi thêm ác lộng.Nói rõ hơn, toàn thể Quốc dân của chúng tôi rất căm hờn khi nghe một trái bom nổ giữa lương dân hay một cuộc khủng bố với những hành động vô nhân đạo sau mỗi cuộc phá khuấy của đối phương.
Chánh quyền hiện tại đã không đủ sức thu phục lòng dân tức nhiên không còn được toàn dân chúng tôi tín nhiệm nữa, mà còn tạo thêm bao điều hà khắc : Kinh tế bóp chặt, sưu cao thuế nặng, dâng công liên tiếp, ép buộc phụ nữ vào vòng chiến tranh mà bỏ phế gia đình, như vậy là chế độ Cộng sản đang được thi hành tại mảnh đất Quốc gia với những phương tiện của Mỹ Quốc đặng liên tục tiến đến vô gia đình, vô sản.
Sự thành lập các khu trù mật, các ấp chiến đấu sẽ không ích lợi gì cũng như Vạn lý Trường Thành ở bên Trung Hoa đã không giúp cho bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng của Trung Hoa xưa kia được giữ bền ngôi vị, mà sự động viên nhân lực làm cho dân chúng chịu đói khổ là lý đương nhiên tạo nên sự đồ thán của toàn dân.
Việc xạ kích dinh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và gia đình ông vào sáng ngày 27-2 vừa qua, mặc dầu là việc làm bộc phát cá nhân, song cũng đủ tượng trưng cho sự phẩn nộ tột độ của những công dân cùng quân nhân ái quốc đối với một chế độ độc tài và gia đình trị.
Trong giai đoạn hiện hữu, mặc dầu toàn thể quốc dân của chúng tôi đã kết thành khối mà quý Đại Sứ đã hiểu rõ hơn ai hết, nhưng vì chẳng muốn máu dân tộc chảy nhiều và có thể làm lợi cho chiều khác trong cảnh huynh đệ tương tàn, nên đành im tiếng chờ thái độ của khối Tây Phương.
Toàn quốc dân chúng tôi rất biết ơn về các sự giúp đỡ của quý Quốc đối với chánh phủ của chúng tôi, đi đôi với sự biết ơn ấy toàn quốc dân chúng tôi cũng phân vân chẳng biết quý Quốc giúp đỡ cho dân tộc Việt Nam hay cho chế độ độc tài gia đình trị hiện nay, vì tất cả các sự giúp đỡ chưa làm cho dân tộc Việt Nam chúng tôi được vui sống hơn chút nào.Trái lại, đã làm cho dân tộc chúng tôi ngày thêm bị tàn phá : người chết vì bom đạn, mùa màng cây trái bị hư hoại vì rải thuốc giết cây, thuế càng ngày càng tăng trong khi nền kinh tế càng ngày càng kiệt quệ.
Như vậy, Mỹ Quốc là nước phải trực tiếp chịu phần trách nhiệm đối với dân tộc chúng tôi vì đã trực tiếp giúp đỡ cho chế độ hiện hữu sống mạnh, cũng như Pháp Quốc đã cùng khối Cộng sản làm cho quốc dân chúng tôi mạng hận phân ly. Còn phần gián tiếp chịu trách nhiệm, Anh Quốc là nước đồng Chủ tịch trong Hội nghị Genève 1954 để chia phân lãnh thổ và dân tộc của chúng tôi hiện cũng ngồi yên mà nhìn đổ vỡ.
Do đó, kế hoạch phá rối miền Nam được dễ dàng thành tựu trong khi toàn thế giới đang lo ngại cho vấn đề Việt Nam.
Vẫn biết sự đột nhập gây rối của miền Bắc vào Miền Nam là việc cần giải quyết, nhưng với những hành động của chánh quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm như lại càng vô chánh trị làm cho không thể giải quyết được tình hình.
Chúng tôi quả quyết rằng tinh thần quốc gia của dân tộc Việt Nam rất mạnh mẽ, có một chánh quyền hợp nhất được với toàn dân thì mọi việc chẳng chi là khó.
Trái lại, thế thắng lợi vẫn dần dần tiến về chiều khác, vì lòng dân đã mất, và khối cường quốc Tây phương phải sa lầy nặng nề ở Việt Nam trên ván cờ Đông Nam Á, để không còn rút chân lên được nữa.
Chúng tôi rất mong những lời lẽ trên đây sẽ giúp ích cho tình thân hữu mật thiết giữa các dân tộc của chúng ta được tồn tại vĩnh viễn mà Quý Quốc và quý Đại Sứ phải cộng sự xây đắp và tô điểm cho nền Hoà Bình và thạnh vượng chung được vững mạnh và sáng chói.
Trân trọng kính chào quý Đại Sứ.
*
Sài Gòn, ngày 18 tháng 8 năm 1962
Kính gởi Quý vị : - Đại Sứ Mỹ Quốc
- Đại Sứ Anh Quốc
- Đại Sứ Anh Quốc,
Sài Gòn
Kính Quý Đại Sứ,
Chúng tôi xin trân trọng kính gởi đến quý vị thêm thơ này, mong được sự suy cứu của quý vị hầu cứu vãn tình thế nước nhà của chúng tôi, cũng như tình thế Đông Nam Á và thế giới.
Mặc dầu các cố gắng của Quý Quốc đã đem lại cho chánh phủ miền Nam Việt Nam của chúng tôi phần nào tin tưởng, song xét lại cả mọi xáo trộn và bí ẩn thất bại mà chúng ta phải công tâm nhận định, thì những cố gắng ấy đã tạo nên một tình thế khó khăn hơn trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam.
Trong lúc miền Nam gởi các Liên đoàn 77 ra công tác bí mật ở miền Bắc và miền Bắc công khai tạo áp lực ở miền Nam, thì những chiến cuộc gọi là “Hành quân tảo trừ Việt cộng” không có nghĩa lý gì cả.
Thử hỏi : miền Nam có thể đánh miền Nam mà thắng miền Bắc không ? Hoặc khối Tây phương ủng hộ miền Nam nói là chống Cộng, lực lượng đó có đủ để bảo vệ miền Nam hay không ? Chúng tôi quả quyết là không. Vẫn biết các âm mưu gây chiến của phe Cộng sản vốn là chánh sách sách của họ, song khối Tây phương không thể diệt được Cộng Sản ở Việt Nam trong khi khối Cộng sản là chủ tình hình ở toàn miền Bắc và có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp công nông của miền Nam, nếu chẳng nói đại chiến xảy ra.
Đó là điều mà chúng tôi tin chắc rằng khối Tây phương không bao giờ muốn. Nhận xét xác đáng, không phiến diện, chiến tình ở Việt Nam không giống chiến tình ở các nước khác bởi các lý do :
-Ông Hồ Chí Minh hẳn được đại đa số dân chúng Việt Nam kính trọng, vì Ông là người lãnh đạo kháng chiến cướp nước Việt Nam ra khỏi bàn tay đô hộ của thực dân. Cộng sản không gây nhiều tàn bạo trong miền Nam như ở miền Bắc hay ở các nước.
-Chánh quyền và Tổng Thống miền Nam Việt Nam đã thi hành những thủ đoạn mà chính họ đã đả kích Cộng sản. Chánh quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phô bày bộ mặt bất lực, nhũng lạm, bất nhân và độc tài.
Vậy cho nên, dù Tây Phương có phải hao tốn bao nhiêu, trạng thái vẫn không thay đổi. Rốt cuộc toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ oán hận khối Tây phương là hiếu chiến và mượn tay kẻ hiếu sát mê loạn đặng bắt tay với Cộng sản mà tiêu diệt dân tộc Việt Nam.
Với thơ này, chúng tôi xin quý Đại Sứ cần nghiên cứu kỹ tình hình, và cấp tốc trình bày sự việc cùng quý chánh phủ hầu cứu vãn tình trạng nếu không muốn nói là phải thua ván bài gian lận một phen nữa.
Chúng tôi nói rõ, muốn vấn đề Đông Nam Á được sớm giải quyết và vấn đề Lào Quốc được mau ổn định, trước hết Quý Quốc phải lo thu xếp vấn đề Việt Nam.
Lào còn mãi lộn xộn, do mũi nhọn Bắc Việt.
Đông Nam Á nằm vào tình trạng bấp bênh, do mũi nhọn Bắc Việt. Cộng sản được mạnh bước tiến, do mũi nhọn Bắc Việt.
Miền Nam Việt Nam sẽ luôn luôn bất an và cũng có thể mất thêm phần đất kể từ vĩ tuyến 12 trở ra để làm phần đất Trung lập giả hiệu, cũng do mũi nhọn Bắc Việt.
Đồng thời, chánh sách của chánh quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang là phương tiện hữu hiệu mạnh mẽ để mũi nhọn Bắc Việt dễ dàng bành trướng
Với tinh thần sáng suốt và Hoà Bình của trên hai triệu tín đồ Cao Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh, cũng như với tinh thần Quốc gia dân tộc của toàn nhân dân Việt Nam, chúng tôi xin nhắc lại Cương lĩnh Chánh Sách Hoà Bình Trung lập của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Chủ Đạo Cao Đài đã gởi cho các Cường quốc ngày 26 tháng 3 năm 1956 trong việc thống nhứt lãnh thổ và dân tộc Việt Nam như dưới đây :
I. THỐNG NHỨT LÃNH THỔ & KHỐI DÂN TỘC VIỆT NAM VỚI PHƯƠNG PHÁP ÔN HOÀ .
A. Giai đoạn thứ nhứt
1. Để hai chánh phủ địa phương tạm giữ nguyên vẹn nền tự trị nội bộ mỗi Miền theo ranh giới vĩ tuyến 17.
2. Thành lập một “Uỷ Ban Hoà Giải Dân Tộc “ gồm có các nhân sĩ trung lập và một số đại diện bằng nhau của Chánh Phủ hai Miền để tìm những điểm dung hợp của hai miền.
3. Tổ chức nước Việt Nam thống nhứt thành chế độ Liên Bang Trung Lập gồm có hai phần liên kết (Nam và Bắc ) theo hình thức của Thuỵ Sĩ với một Chánh Phủ Liên Bang Lâm Thời, để điều hoà nền kinh tế trong nước và để thay mặt cho nước Việt Nam thống nhứt đối với Quốc tế và Liên Hiệp Quốc.
4. Bãi bỏ bức rào vĩ tuyến 17, dân chúng được bảo đảm sự lưu thông tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam để so sánh và chọn lựa chế độ sở thích mà định cư. Vĩ tuyến chỉ còn là ranh giới hành chánh của hai miền hiện hữu mà thôi, còn dân tộc Việt Nam vẫn là một khối duy nhứt, trung lập và tự do.
B. Giai đoạn thứ nhì
1. Đánh thức tinh thần dân tộc …
2. Tổ chức tổng tuyển cử để thành lập Quốc hội duy nhứt dưới sự kiểm soát và trách nhiệm trọn vẹn của Liên Hiệp Quốc …
3. Quốc hội này sẽ định thể chế thiệt thọ và thành lập Chánh phủ chủ quyền toàn quốc.
II.TRÁNH MỌI XÂM PHẠM NƠI QUYỀN VIỆT NAM
1. Hữu dụng nền độc lập của mỗi Miền đã thu hồi do hai khối đã thừa nhận…
2. Mở một đường lối gọi là “ĐƯỜNG LỐI DÂN TỘC ” để dung hoà hai Miền.
3. Tránh mọi hướng dẫn của ngoại quốc. Không gia nhập vào một trong hai khối Nga hay Mỹ, không nhìn nhận một Đảng hoặc tổ chức nào có hệ thống dây chuyền với ngoại bang, để nền độc lập không bị chi phối …
III. XÂY DỰNG HÒA BÌNH HẠNH PHÚC VÀ TỰ DO DÂN CHỦ CHO TOÀN DÂN
1. Thúc đẩy sự thi đua nhân nghĩa ở hai miền Nam và Bắc…
3. Phát huy tinh thần hiền triết cổ truyền của chủng tộc.
4. Thống nhứt tinh thần dân tộc trên căn bản hy sinh và phụng sự.
5. Bãi bỏ mọi nguỵ biện xuyên tạc giữa hai Miền, phải để cho toàn dân đứng trước sự thật để nhận xét hành động đôi bên …
6. Mọi hoạt động trên đều thường xuyên đặt dưới sự kiểm soát và ủng hộ của Liên Hiệp Quốc để ngăn ngừa mọi áp bức của địa phương.
*
Vậy yêu cầu quý Đại Sứ và quý Chánh phủ hãy sớm giúp nước Việt Nam chúng tôi mau thoát cảnh lầm than và nạn tương tàn, nhứt là mỗi ngày phải đau đớn nghe tin người Việt giết người Việt do sự hướng dẫn của Mỹ hay của Tân Trung Hoa.
Đúng tinh thần chân chính của quốc gia dân tộc, đúng tinh thần Tôn giáo, chúng tôi mong mỏi được sự nghiên cứu sớm kết quả trước Hội nghị Quốc tế về Việt Nam lần thứ hai, và chúng tôi hưá sẽ nổ lực toàn diện để thực hiện trọn vẹn chương trình với phương pháp đã định sẵn.
Trân trọng kính chào quý Đại Sứ và kính đệ lời chúc quý Quốc và quý Dân tộc được thịnh vượng.
Nay kính
(Văn thơ Quốc tế của Sĩ Tải Phạm Duy Nhung được dịch ra Anh văn do ông Lễ sanh Ngọc Đoan Thanh (G.s Anh Văn). Phần pháp văn do Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời)
*
Sài Gòn, ngày 26 tháng 10 năm 1962
Kính gởi Ông Đại Sứ Anh Quốc,
Sài Gòn
Kính quý Đại Sứ,
Tiếp theo các thơ mà chúng tôi đã gởi đến quý Đại Sứ cùng các cuộc mạn đàm giữa vị Tham vụ quý Sứ Quán và chúng tôi, chúng tôi xin thông báo thêm đến quý Đại Sứ tình trạng làm cho sức mẻ nhân tâm và hậu quả là sự nghi ngờ sợ sệt của dân chúng Việt Nam chúng tôi đã chẳng những đặt vào phe Cộng sản mà thôi, lại còn đặt vào các Cường Quốc Tây Phương vì họ cho rằng những sự giúp đỡ của khối Tây Phương đối với chánh phủ miền Nam Việt Nam không phải để thực hiện Hoà Bình Thống Nhứt mà đem lại hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, mà là để hiệp cùng khối Cộng sản đặng tiêu diệt lần hồi dân tộc chúng tôi mà thực hiện kế hoạch chia tay, biến nước Việt Nam thành hai lãnh thổ bị trị gián tiếp của hai khối Đông Tây.
Vẫn biết các sự việc xảy ra đều do các người Mỹ biến hình trong quân lực miền Nam hoặc vô tình, hoặc cố ý thúc đẩy, chuyển những sự khủng bố tàn sát, tiêu sản, ngoài ý muốn của khối Tây phương. Nhưng, theo sự biết mộc mạc của người dân, họ chỉ cho là thân nhân của họ bị tàn sát và tài sản của họ bị đốt phá do quân đội của chánh phủ dưới sự hướng dẫn của các quân nhân Mỹ.
Về sự thành lập các ấp chiến lược mà chánh phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho là quốc sách, đã từng gieo sự bất mãn ngấm ngầm trong tâm trí của mỗi người dân, vì họ đã bị lợi dụng từ nhân lực đến tài lực, kiệt quệ sức sống từ nông nghiệp đến thương mãi.Vậy mà người ta đã cố tình cho những người dân cư ngụ ngoài phạm vi ấp chiến lược đều là Việt cộng, một vi phạm lớn lao về tinh thần cổ truyền của dân tộc Việt Nam trong đời sống, nói khác hơn, là một chế độ áp bức, Cộng sản biến hình đang đương nhiên thành hình với sự hổ trợ của khối tự do. Người ta không chịu hiểu rằng ấp chiến lược chỉ có lợi cho một quốc gia toàn vẹn và tinh thần toàn thể được đoàn kết chặt chẽ.
Còn hiện nay Ấp chiến lược chỉ thành lập rải rác một vài nơi thôn xóm đông dân cư, thậm chí trong một vùng bị chia ra chỗ thì là Ấp chiến lược, chỗ thì không.
Vả lại người dân cần sống ở những nơi có ruộng rẫy, mà tất nhiên những nơi đó không thể thành lập ấp chiến lược được. Chính những nơi ruộng rẫy đó, tài nguyên mới được khai thác, thực phẩm mới được sản xuất đặng nuôi sống toàn dân, mà chính những nơi đó đã xảy ra những cuộc ném bom, những cuộc bắn phá của quân đội, để rồi các chòi giữ rẫy, ruộng chống với trộm cướp hoặc thú rừng được gọi là nhà ẩn núp của Việt cộng, những xuống lưu thông của những nông dân đồng ruộng được gọi là xuồng vận chuyển của Việt cộng và những nông dân được biến thành Việt cộng tưởng tượng.
Và, tất cả trở thành bia chịu đạn, nếu ai may được sống sót thì nhà giam được thay thế cho nhà ở của họ.
Chúng tôi xin nêu lên một chuyện đáng buồn cười hơn hết, là ngày 11-10-1962 vừa qua, trong cuộc hành quân “Sao Mai” ở Tây Ninh, phi cơ đến bắn phá vùng đất rẫy bên kia núi Phụng (vùng núi Điện Bà) một người đàn bà làm rẫy vì quá sợ mà ẩn sau một gò mối (ụ đất do mối đùn lên) phi cơ thấy bóng cứ theo bắn hoài làm bể nát gò mối với trên trăm phát còn người đàn bà thì được bình yên chạy về nhà sau một phen kinh khủng. Trong khi đó, vài người làm rẫy thuộc vùng Tam giác Xóm Vịnh, Trảng Sụp, Bàu Cỏ, bị bắn chết và một số khác bị lùng bắt. Cũng trong ngày đó, một số xuồng và dân làm ruộng bị bắn, hoặc bị bắt tại i Đông Nam Gò Dầu Hạ (vùng Trà Cao). Những sự việc ấy không chỉ xảy ra một chỗ mà là khắp các nơi có những cuộc hành binh. Phe Cộng sản nhờ đó mà có đủ biện chứng tuyên truyền, dân chúng Việt Nam chúng tôi cũng vì đó mà uất hận. Lực lượng chống đối cũng nhờ đó mà có cơ hội tạo phương tiện cho sự ẩn náo vững chắc của họ.
Như nội dung thơ số 030/ĐDHP-QN/TN mà chúng tôi đã gởi đến Quý Đại Sứ đề ngày 18-8-1962, sự tăng cường giải pháp quân sự cho miền Nam Việt Nam không thể diệt được lực lượng mượn danh là Giải Phóng miền Nam do Chánh phủ Hồ Chí Minh ở miền Bắc điều khiển mà một giải pháp chính trị thích ứng mới mong luận với vị Tham vụ quý Đại Sứ.
Nay, nhận thấy nguy cơ sắp đến, các bộ đội tập kết đã trở lại đầy đủ thì chiến cuộc Lào Quốc có thể tái diễn nay mai.Sự uất hận của dân chúng ngày một lên cao thì uy tín khối Tây phương ngày càng giảm, chánh phủ Anh quốc sẽ phải chịu trách nhiệm với Quốc dân Việt Nam cũng như với quốc tế vì không chịu ngăn cản các hành động thiếu ý thức của chánh phủ Mỹ và chánh phủ Ngô Đình Diệm, trong khi chánh phủ Anh Quốc có trách nhiệm một nước đồng Chủ tịch của Hiệp Định Genève 1954.
Chúng tôi cũng quả quyết rằng tình hình Việt Nam rất nguy ngập. Nguy ngập hơn cả tình hình CuBa và Bá Linh, vì hai nơi đó do Nga trực tiếp hành động, một việc làm mà kết quả trái với chủ trương của Krouthchev tức nhiên nó chỉ là vấn đề của sự doạ dẫm cốt đem lại một Hội nghị thượng đỉnh có lợi cho Nga bởi Mỹ đã dại dột có những hành động phản dân chủ trước (chủ trương thuyết Monroe đất Mỹ của người Mỹ bành trướng thế lực khắp thế giới).
Trái lại, tình hình Việt Nam được đi đúng theo hoạch định của khối Cộng sản do chánh phủ Cộng sản Bắc Kinh chỉ huy trực tiếp; một sự chỉ huy táo bạo nguy hiểm hơn Mạc Tư Khoa thập bội, và Lào Quốc chỉ là bối cảnh của Việt Nam trong ván cờ Đông Nam Á mà thôi.
Do đó, chúng tôi đã từng nói trong thơ số 050/ĐDHP-QN/TN đề ngày 18-8-1962 như quý Đại Sứ đã hiểu, là các Cường quốc cần giải quyết vấn đề Việt Nam tức nhiên là giải quyết vấn đề Đông Nam Á và thế giới. Chiến cuộc giữa Ấn Độ và Tân Trung Hoa cũng chỉ là vấn đề trả đũa vì vấn đề Việt Nam mà Ấn Độ là chủ tịch Uỷ Hội Quốc Tế nơi đây.
Với thơ này, chúng tôi tin tưởng quý Đại Sứ sẽ nổ lực đặng thông báo kết quả với quý chánh phủ đặng gấp rút quyết định thái độ trước sự lo âu của toàn dân tộc chúng tôi và chúng tôi cũng tin chắc rằng Nữ Hoàng và quý chánh phủ đã lo ngại hơn hết, vì nhân tâm đã ly tán thì sức mạnh không thể kết cấu được.
Trân trọng kính chào quý Đại Sứ
Nay kính
*
Sài gòn, ngày 15 tháng 11 năm 1962
Kính gởi : Ông Chủ Tịch Uỷ Hội Quốc Tế,
Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam
Sài gòn
Kính Ông Chủ Tịch,
Nhơn danh trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo và cũng là dân chúng Việt Nam,chúng tôi xin cáo tri đến Ông Chủ Tịch tình hình nguy ngập của nước Việt Nam hiện nay do sự vi phạm Hiệp Định Geneve 1954 mà cả hai chánh phủ miền Nam và miền Bắc cố ý tạo ra.
Với các mật thơ mà chúng tôi đã gởi các vị Đại Sứ Anh, Mỹ, Pháp cùng thơ gởi cho ông Tổng Thơ ký Liên Hiệp Quốc mà chúng tôi gởi kèm theo đây để nhờ ông Chủ Tịch chuyển đạt, chúng tôi tin rằng ông Chủ Tịch sẽ rất hài lòng mà thấy rõ sự thật và các văn kiện này sẽ được ông Chủ Tịch vui vẻ chuyển đến ông Tổng Thơ ký Liên Hiệp Quốc thật gấp.
Toàn thể dân tộc Việt Nam xin đặt trọn tin tưởng nơi ý chí Hoà Bình Trung Lập của ông Chủ Tịch, một ý chí phản ảnh tinh thần của dân tộc Ấn Độ, của Thánh Gandhi, mà chúng tôi hằng kính trọng và cương quyết noi theo.
Trân trọng kính gởi nơi đây lòng tri ân nồng nhiệt của toàn thể dân tộc Việt Nam yêu chuộng Hoà Bình và Trung Lập của chúng tôi.
Nay kính
*
Sài gòn, ngày 15 tháng 11 năm 1962
Kính gởi : Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc
Nửu Ước
(Do sự chuyển đạt của Ông Chủ Tịch Uỷ Hội quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam ở Sài Gòn)
Kính Ông Tổng Thơ Ký,
Tiếp theo các mật thơ mà chúng tôi đã gởi cho các vị Đại Sứ của ba Cường Quốc Tây Phương, Mỹ, Anh, Pháp với mục đích kêu gọi sự hiểu biết của các chánh phủ ấy hầu cứu vãn tình thế nước Việt Nam tránh một cuộc chiến tranh vô ích chẳng những làm hao tổn xương máu dân tộc chúng tôi mà còn làm hao tổn đến sanh mạng và tài sản của các công dân các nước bạn đặng rồi kết quả nhục nhã dỉ nhiên sẽ đến với Tổ quốc chúng tôi.
Chúng tôi, người được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Cố Giáo Chủ Đạo Cao Đài, Đấng mà các Cường quốc đã nghe hiểu danh tánh, uỷ thác trách nhiệm tạo lập Hoà Bình cho nước Việt Nam với tinh thần của trên hai triệu tín đồ Cao Đài Giáo thuộc Toà Thánh Tây Ninh cũng như tinh thần của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Xin đạt đến Ông Tổng Thơ Ký các mật thơ đã gởi cho các Đại Sứ ba quốc gia, Anh, Pháp, Mỹ ở Sài Gòn hầu ông Tổng Thơ Ký nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình Việt Nam để vận chuyển hiệu quả, chặn đứng cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn để đất nước và dân tộc chúng tôi sớm được thống nhứt với phương pháp Hoà Bình Trung Lập.
Vẫn biết ông Tổng Thơ Ký hiện rất nhiều bận tâm vì cuộc diện thế giới biến chuyển bất ngờ và vấn đề Congo đã làm cho Ông Tổng Thơ Ký quá nhiều suy nghĩ vì đã lỡ để quân đội ngoại quốc đến can thiệp vào nội bộ Quốc gia ấy. Vậy mà, thêm vào đó, hai bên Nga- Mỹ không ngớt gây áp lực cho nhau mà các nước nhược tiểu luôn luôn là con cờ bị huỷ diệt, một sự việc vô nhân đạo trái với chủ trương của Liên Hiệp Quốc. Riêng về nước Việt Nam chúng tôi, hiện tình đương nhiên là thành quả của cuộc tranh giành Nga Mỹ cộng thêm sự tranh giành lý thuyết và danh vị của những kẻ cầm quyền hai miền Nam Bắc.
Vì cớ, chúng tôi đã phải gởi các mật thơ nói trên, cốt kêu gọi sự hiểu biết của các nhà lãnh đạo Tây Phương, vì cũng như toàn thế giới đều hiểu rõ khối Tây Phương vẫn tự hào là khối dân chủ tự do và nhân đạo, trong khi khối Cộng sản chủ chiến độc tài, không tình cảm. Nhưng tiếc thay, lời kêu gọi của chúng tôi không đủ thức tỉnh tinh thần háo chiến chủ quan vì bất thức thời nên các lời lẽ của chúng tôi đã đưa ra chưa lay chuyển được tình hình để đem lại Hoà Bình cho xứ sở, mặc dầu những sự việc xảy ra đã đi đúng như lời chúng tôi đã tỏ trước trong các mật thơ ấy.
Ngày nay, chiến cuộc trở thành nguy ngập hơn, một mối nguy cho thế giới vì ngòi lửa đại chiến thứ ba có thể do nơi đây mà bộc phát. Đứng trên chiến lược Quốc tế, hẳn Ông Tổng Thơ Ký đã nghĩ đến cửa ngõ Việt Nam, một cửa ngõ tối trọng của chiến cuộc Thái Bình Dương. Phe Cộng sản đã sẳn trực chỉ huy táo bạo là Bắc kinh và Chánh phủ Hà Nội đã hoạt động đắc lực về kế hoạch xích hoá Đông Nam Á. Còn phe tự do thì có trục chỉ huy phiêu lưu là Hoa Thịnh Đốn và Chánh phủ Saigon lại hoạt động đầy quá khích cực đoạn, để rồi dân chúng Việt Nam vì quá đau khổ, nhiều uất hận đương nhiên sẽ là mồi tốt cho lò lửa.
Vì không thể ngồi nhìn dân tộc bị hy sinh cho thế cờ tranh giành ảnh hưởng Quốc Tế, vì xét rằng chúng tôi có đầy đủ năng lực để giúp Liên Hiệp Quốc không lâm vào tình trạng ở Congo khi Liên Hiệp Quốc quyết định đem lại trật tự an ninh, Hoà Bình và Thống Nhứt cho Quốc gia và Dân tộc Việt Nam.
Vì quyết đoán rằng Ông Tổng Thơ Ký với tinh thần Hoà Bình Trung Lập và Nhơn Đạo của một Quốc gia khả kính, bạn láng giềng với nước Việt Nam, sẵn sàng đứng ra dàn xếp đặng chấm dứt cuộc nội chiến nhơ nhớp hiện nay ở Việt Nam. Vì định hẳn tình hình Việt Nam có được yên ổn thì các nước Đông Nam Á mới yên ổn để làm nhịp cầu Hoà Bình cho thế giới,
Vì nhận thấy nguy cơ có thể cứu vãn kịp thời, chúng tôi xin kính gởi thơ này đến ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc, kèm theo 4 mật thơ mà chúng tôi đã gởi các Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp để kêu gọi một quyết định hữu hiệu với một Hội nghị Quốc tế về Việt Nam lần thứ hai (xin xem mật thơ số :030/ĐDHP-QN/TN đề ngày 18-8-1962 kèm theo đây) mà chúng tôi tin chắc rằng các Quốc gia Hội viên Liên hiệp Quốc sẽ rất hài lòng nhờ tài trí cao minh của ông Tổng Thơ Ký.
Chúng tôi xin ông Tổng Thơ Ký nhận nơi đây sự tri ân toàn thể tín đồ Cao Đài Giáo cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nay kính
Đính theo
- Thơ gởi các Đại Sứ Anh, Pháp, Mỹ đề ngày 23 tháng 10 năm 1961
- Thơ gởi các Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp đề ngày 8-3-1962.
- Thơ gởi các Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp đề ngày 18 tháng 8 năm 1962
*
Saigon, ngày 15 tháng 11 năm 1962
Kính gởi Quý Đại Sứ, Tổng Lãnh Sự các
Quốc gia bạn của nước Việt Nam.
Sài Gòn
Kính Quý vị,
Kể từ ngày quật khởi của toàn dân để giành lại độc lập cho non sông vào hôm 9 tháng 3 năm 1945, dân chúng Việt Nam đã phải đổ biết bao xương máu, huỷ diệt bao sản nghiệp mà cả thế giới đều hiểu rõ.
Vậy mà, sau thời gian nhân dân tranh đấu, Hiệp Định Geneve 1954 ra đời để khơi lại sự nhục nhã Trịnh Nguyễn phân tranh buổi trước. Những vị lãnh đạo hai miền Nam Bắc đã chẳng kiếm đặng phương hàn gắn giang sơn nòi giống lại cho toàn vẹn Quốc quyền, lại còn gây thêm nạn tương tàn và sự bành trướng của nạn vô thần tàn bạo càng thêm mạnh.
Vào buổi qua phân khởi điểm, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã kịp thời kết hợp toàn lực của toàn thể Quốc dân Việt Nam trong Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia đặng giao cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm buổi nọ để làm sức mạnh dự bị cho một thể chế Quốc gia chơn chánh ra đời để cứu vãn tình thế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã từ chối nên Mặt Trận tạm giải tán, đồng thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm thay thế cho Thủ Tướng (Ngô Đình Diệm) do sự hy sinh tạo dựng của các chiến sĩ khối Cao Đài.
Sau trận chiến Ngô Đình Diệm – Bình Xuyên do kế hoạch ngoại bang, Tướng Trình Minh Thế chết bí mật, Tướng Nguyễn Thành Phương bội phản, sự xâm nhập miền Nam do miền Bắc chỉ huy càng thêm mạnh.
Sự áp bức của chánh quyền miền Nam đối với khối Cao Đài được thực hiện, Đức Hộ Pháp đã phải sang Nam Vang tị nạn và từ nơi đó, Cương Lĩnh Hoà Bình Trung Lập các thơ kêu gọi gởi các Cường quốc và Chánh phủ hai miền đã được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc gởi đi từ năm 1956.
Đến ngày nay, vì thời cuộc biến chuyển quá mạnh, chúng tôi đã phải gởi các mật thơ cho các vị Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp đặng kêu gọi sự hiểu biết của các Quốc gia ấy, song tình trạng vẫn không thay đổi, Chánh Phủ Mỹ vẫn chữa lầm bịnh, nạn huynh đệ tương tàn của dân tộc Việt Nam thêm bành trướng và chiến tranh Lào Quốc lại được nhồi chặc nồi thuốc.
Để tránh tai hoạ chiến tranh ghê tởm cho Đông Nam Á và cho thế giới nói chung, cho Việt Nam nói riêng, chúng tôi xin gởi các bản sao lục những mật thơ mà chúng tôi đã gởi cho các vị Đại Sứ Mỹ Anh Pháp để quý vị cấp tốc gởi về Quý Quốc nghiên cứu và giúp giải pháp cho Việt Nam và Liên Hiệp Quốc hầu một Hội nghị Quốc tế về Việt Nam lần thứ hai được thực hiện hữu hiệu, chúng tôi quả quyết sẳn sàng đủ năng lực cùng biện pháp thi hành hiệu quả Chánh sách của chúng tôi.
Toàn thể trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam rất tin tưởng ở Quý Chánh phủ do quý vị tận tâm giúp đỡ hầu thực hiện Hoà Bình thật sự.
Xin Quý vị nhận nơi đây lòng kính trọng của chúng tôi và lời chúc tụng hạnh phúc và thạnh vượng cho Quý dân tộc và Quý Chánh phủ.
Trân trọng kính chào Quý vị.
***
CHÁNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM GỌI KHU TRÙ MẬT VÀ ẤP CHIẾN LƯỢC LÀ QUỐC SÁCH.
Ông Nhung đã khuyến cáo trong thơ số 1-62 đề ngày 8-3-1962 gởi ba vị Đại Sứ Mỹ – Anh –Pháp.
Sự thành lập các khu trù mật, các ấp chiến lược sẽ không ích lợi, vì cũng như Vạn Lý Trường Thành ở bên Trung Quốc đã không giúp cho bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng xưa kia được vững bền trên ngôi vị mà sự động viên nhân lực làm cho dân chúng chịu đói khổ là lý đương nhiên, tạo thêm sự đồ thán của toàn dân.
Ông phê bình viện trợ Mỹ cho chánh phủ Ngô Đình Diệm; toàn quốc dân chúng rất biết ơn về sự giúp đỡ của Quý Quốc, đối với chánh phủ của chúng tôi.Đi đôi với sự biết ơn ấy, toàn quốc dân chúng tôi cũng phân vân chẳng biết Quý Quốc giúp đỡ cho Dân tộc Việt Nam hay cho chế độ độc tài gia đình trị. Hiện nay vì tất cả các sự giúp đỡ đó chưa làm cho dân tộc Việt Nam chúng tôi được vui sướng hơn chút nào.
Trái lại, đã làm cho dân tộc chúng tôi ngày thêm bị tàn phá, người chết vì bom đạn, mùa màng trái cây bị hư hoại vì rải thuốc chết cây.Thuế ngày càng tăng trong khi nền kinh tế càng ngày càng kiệt quệ …
Với tiền viện trợ Mỹ, các nhà tù được xây cất gấp ba bốn nhiều hơn thời Bảo Đại.Các nhân viên mật vụ dùng để khủng bố bắt cóc dân chúng được kết nạp nhiều hơn nhân viên công lực, đã tạo thành một ngân sách chi phí quá mức tưởng tượng.
Đồng thời các vụ tống tiền chợ đen công khai được dung túng, và sự bán gạo cho Bắc Việt để đổi lấy thuốc phiện lậu mang từ Lào về làm kinh tế cho Đảng Cần lao Nhân vị, một Đảng hoạt động bí mật và nguy hiểm của gia đình họ Ngô, đó là chưa nói đến các tổ chức phá rối Thái Tử Sihanouk Quốc Trưởng Cam bốt với một chi phí khổng lồ, và việc đem qua Lào giúp Tướng Phouna Nosaran gây nội chiến Lào quốc làm tổn phí tài chánh cùng quân số cho Việt Nam.
Như vậy Mỹ quốc là nước trực tiếp chịu trách nhiệm đối với dân tộc chúng tôi vì đã trực tiếp giúp đỡ cho chế độ hiện hữu sống mạnh, cũng như Pháp quốc đã cùng khối Cộng sản làm cho quốc dân chúng tôi mang hận phân ly, còn phần gián tiếp chịu trách nhiệm là Anh quốc đồng chủ tịch trong Hội nghị Geneve 1954 đã chia phân lãnh thổ và dân tộc chúng tôi. Chúng tôi hiện cũng ngồi yên mà nhìn sự đổ vỡ...
**
Cũng theo thơ này, ông Nhung tiên đoán sự sa lầy của Mỹ ở Việt Nam trên ván cờ Đông Nam Á, mà không còn rút chân được nữa, ông Nhung cũng tiên đoán khối Tây Phương không thể diệt được Cộng sản ở Việt Nam.
Hồi đó Liên Xô và Trung Quốc bất hoà với nhau hai bên đều đưa quân ra biên giới hai nước, đối lại Mỹ không quan hệ bình thường với Trung Cộng. Đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của Trung Cộng bị Mỹ bác bỏ.Cho đến năm 1971, Mỹ đưa đoàn bóng bàn qua đấu được Trung cộng chấp nhận, báo chí gọi đó là ngoại giao bóng bàn. Ông Kissinger cố vấn chánh trị Tổng Thống Mỹ nhờ Hồi Quốc làm liên lạc, bí mật sang Trung Quốc để mở đường cho Tổng Thống Nixon chánh thức sang thăm Trung Quốc năm 1972. Trung Quốc được gia nhập Liên Hiệp Quốc và ngồi vào ghế Hội Đồng Bảo An thay thế Đài Loan cho đến ngày nay.
Ông Nhung cũng thường tiếp xúc với Toà Đại Sứ Anh ở Sài Gòn qua viên bí thơ nhưng vì người Anh không có quyền lợi trực tiếp ở Việt Nam nên thái độ gần như trung lập đối với vấn đề Việt Nam, khác với người Pháp và người Mỹ viên bí thơ là ông Hon mỗi tuần gặp ông Nhung tại biệt thự riêng, có lần ông hỏi ông Nhung có ý định đảo chánh không, và ai sẽ lên thay thế ông Diệm. Ông Nhung trả lời :Là người Tôn Giáo chúng tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc đảo chánh, mà mục đích của chúng tôi là xây dựng và chỉnh đốn chánh phủ cho được lành mạnh để thu phục lòng dân.
Chương trình cải tổ
A. CẢI TỔ TÌNH TRẠNG
1. Kết hợp các Đảng phái Quốc gia thành hai mặt trận làm hậu thuẩn cho chánh phủ. Một mặt trận đối lập với Tổng Thống và một mặt trận hậu thuẩn cho Tổng Thống.
2. Trả tự do cho tất cả tù chính trị thuộc các Đảng phái quốc gia đối lập.
3. Hai vợ chồng ông Ngô Đình Nhu phải tự ra khỏi Quốc Hội.
4. Giải tán tất cả các tổ chức bí mật làm áp lực đe doạ tinh thần toàn dân.
(Đảng của ông Ngô Đình Cẩn ở Trung Phần, Đảng của ông Ngô Đình Nhu và Bác sĩ Trần Kim Tuyến ở Nam Phần)
5. Thực thi nghiêm chỉnh các tự do dân chủ, tự do cúng kiến cùng tổ chức nội bộ của các Tôn giáo (Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh đã bị chánh phủ áp chế từ năm 1956) và tự do ngôn luận.
6. Bải bỏ các cuộc ruồng bố, tránh các hành động huynh đệ tương tàn trong các cuộc hành quân.
7. Biến đổi quân đội miền Nam thành một quân đội huynh đệ chi binh đủ đầy hy sinh.
8. Chấn chỉnh nền tài chánh kinh tế đặng hạ thấp giá sinh hoạt trong toàn quốc, nhân dân đều có công việc làm ăn, khỏi phải cảnh đi xin việc lang thang làm hạ phẩm giá nhân vị con người.
B. CẢI TỔ CHẾ ĐỘ
Một chế độ Đại nghị Tổng Thống rộng quyền thay thế cho Tổng Thống hiện hữu (Cải tổ chương trình hành chánh hiện tại).
Viên bí thơ Sứ quán Anh rất bằng lòng chương trình cải tổ trên đây, và hứa sẽ đến thảo luận với người, để có cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Sĩ Tải Phạm Duy Nhung trước sự hiện diện của các Đại Sứ Anh, Mỹ, Pháp.
Năm 1963
Thơ số 84 đề ngày 4 tháng 8 năm 1963 gởi cho Tổng Thống Mỹ Quốc ở Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống Pháp Quốc ở Ba Lê và Thủ Tướng Anh Quốc ở Luân Đôn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Số :084/ĐDHP-QN (Tam thập bát niên)
Toà Thánh Tây Ninh
Kính gởi Quý vị :
- Tổng Thống Mỹ Quốc ở Hoa Thịnh Đốn
- Tổng Thống Pháp Quốc ở Ba Lê
- Tổng Thống Anh Quốc ở Luân Đôn
(Do sự chuyển đạt của Quý vị Đại Sứ Mỹ Anh Pháp ở Sài Gòn)
Kính Tổng Thống,
Kính Thủ Tướng,
Thừa Uỷ nhiệm Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, cố Giáo Chủ Cao Đài Giáo Toà Thánh Tây Ninh, chúng tôi đã được uỷ thác nhiệm vụ kiến tạo Hoà Bình và Thống nhứt cho Việt Nam nói riêng và làm môi giới để lần tiến đến Hoà Bình thế giới nói chung.
Chúng tôi nhận thấy tình hình Việt Nam chuyển sang giai đoạn nguy ngập, theo đó thể diện và uy tín của khối Tây Phương sẽ mất nếu tình trạng không được giải quyết.
Với các thơ (không số) đề ngày 23-10-1961
Số :1-62/ĐDHP-QN/TN đề ngày 8-3-1962
Số :030/ĐDHP-QN/TN đề ngày 18-8-1962
Số :036/ĐDHP-QN/TN đề ngày 24-9-1962
Và đề nghị mà chúng tôi đã gởi đến Quý Đại Sứ Mỹ, Pháp, Anh ở Sài Gòn, chúng tôi không ngờ mãi đến nay vẫn chưa được thấy sự quyết định của Quý Chánh phủ hầu cứu vãn tình thế. Trái lại, quý chánh phủ vẫn để cho sự nguy hiểm càng ngày càng tiến mạnh ở Việt Nam và đang làm cho Lào Quốc lâm nguy.Với thiện chí xây dựng và phục hồi Quốc gia dân tộc chúng tôi trong tình huynh đệ với các nước tự do dân chủ, chúng tôi không thể không gởi đến quý Tổng Thống và Thủ Tướng lời bình luận sau đây với đề tài “Tính lầm nước cờ ” mong quý Ngài thấu triệt để trước là cứu nước cứu dân chúng tôi, sau là cứu thế giới.Sự cứu vãn này rất trọng yếu.
Vậy một Hội nghị cấp tốc giữa quý ngài phải được thực hiện để quyết định và chẳng thể bỏ qua, và sự thi hành biện pháp của mỗi nước tuỳ phương tiện là bổn phận của mỗi một trong quý Ngài.
Chúng tôi xin nói rõ rằng : Mất miền Nam Việt Nam là mất hẳn Việt Nam, mất Việt Nam là mất Đông Nam Á, mất Đông Nam Á là hy vọng Hoà Bình thế giới tan tành hoặc cả thế giới phải bị xích hoá. Vì sao ?
Vì Việt Nam là then chốt của chiến tranh nóng giữa Nga – Mỹ.
Chúng tôi cũng đã nói chuyện nhiều với Sứ Quán Anh ở Sài Gòn về việc này và chính nơi đây đã hiểu rõ lập trường chúng tôi cũng như nhị vị Đại Sứ Anh Mỹ ở Sài Gòn vừa mãn nhiệm kỳ.
Dưới đây các sự việc xảy ra khi người ta tính lầm nước cờ.
TÍNH LẦM NƯỚC CỜ.
Trên bàn cờ, hai địch thủ đang dằn co đặng tranh từ nước đi, giữ từ thế đứng, suy tính kỹ lưỡng hiện tại và hậu lai, ai cao cờ vững nước sẽ thắng.
Nói đến cao cờ, kẻ điều động các con cờ phải biết tấn thối tuỳ thời. Nước cờ nào đáng hy sinh để gài thế chết cho đối phương, nước nào phải hy sinh để gỡ thế bí, nước nào thủ và nước nào công, mỗi mỗi có qui tắc vững vàng. Một nước đi là một thế cờ có ảnh hưởng đến năm bảy nước hậu, ai hiểu được, ai nắm vững, tất nhiên người ấy là kẻ chiến thắng. Nếu vụng tính nghĩ lầm, hoặc vì tự cao tự đại mà khinh địch thì sự thất bại dĩ nhiên phải đến.
Trên bàn cờ Quốc tế, Tổng Thống Mỹ Quốc Kenedy và ông Kroutchev, Thủ Tướng Nga Xô, đang đánh ván cờ định mạng thế giới, nếu mỗi người tính một thế đi. Việc thắng bại của hai phe không phải là việc đương đầu trực tiếp giữa hai nước hiện có lực lượng mạnh nhứt thế giới, vì làm như thế là tự tiêu diệt.
Nếu là người chính đáng cầm vận mạng Quốc gia dân tộc, nếu là người thức thời tri vận, chẳng ai dại gì mà chỉ trông ngóng vào sự giải quyết hoặc bằng chánh trị hoặc bằng võ lực của hai vị Thủ Lãnh của hai lực lượng Đông Tây, để mặc nhiên cho đó là sự giải quyết cho Quốc gia Dân tộc mình.
Các nước đi của ván cờ Quốc tế là các biến động ở các nước tuỳ thuộc nhứt là các nước nhược tiểu.
Trong khi hai người đánh cờ ung dung cùng nhau uống rượu để có khi cùng nhau thách đố, lại cũng có lúc mơn trớn vuốt ve, tuỳ say tuỳ tỉnh, thì những kẻ thế tuỷ não cũng đang được họ âm thầm thực hiện: Ấy là những xáo trộn ở các Quốc gia tuỳ thuộc.Sự thắng bại ở những Quốc gia đó mới chính là sự thắng bại của hai người đánh cờ. Nói cách khác, sự thắng bại của Mỹ và của Nga là do sự thắng lợi ở các Quốc gia bị động.
Về chiến lược, đã đành mỗi phe phải có một thế giàn lực lượng để nắm giữ các trục tấn thối, như ở Âu Châu phía Mỹ có khối Bắc Đại Tây Dương và phía Nga có Varsovie, cả hai khối đều nắm giữ Bá Linh và Đức Quốc làm then chốt. Mỹ đặt điểm tựa là Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Đông thì Nga đặt thế trận Cuba ở Mỹ Châu và khi Mỹ có khối Liên Phòng Đông Nam Á lấy Thái Lan làm vị trí trung ương, thì Nga lại có khối giải phóng Đông Á, mà Trung Hoa Cộng Sản là Trung ương chỉ huy.
Nhìn về chiến lược ở thế thủ, Mỹ đã bị rời rạc hơn trong khi Nga được kết thành bức tường liên tục từ Âu qua Á và Cuba trở thành một địa điểm bất khả xâm phạm của Nga đặt sát nách Mỹ mà lỗi chỉ tại Mỹ đã làm mích lòng Fidel Castro, vị anh hùng của dân tộc.
Về chiến thuật thì Mỹ đã có một sự chỉ huy phiêu lưu, phung phí trong khi Nga có một khối chỉ huy lì lợm và biết sử dụng thuật tâm lý chiến tranh. Đã vậy, Mỹ còn làm mích lòng thêm một bạn Đồng Minh trọng yếu là Pháp để rồi phải lục đục trong khối Bắc Đại Tây Dương.
Vẫn biết Mỹ Quốc lãnh đạo khối Tây Phương về nguyên tử và phải có một nước đứng ra lãnh đạo như vậy mới đúng nguyên tắc và giữ được trật tự, song Mỹ đã phạm lỗi lớn là đã tự phụ mà gạt Pháp ra ngoài Hội Nghị tài binh. Vì Quốc thể, vì uy tín Cường quốc Tây phương mà Pháp trở thành ương ngạnh với Mỹ và Anh, làm hàng ngũ đồng minh Mỹ Anh Pháp rạn nứt lần.
Về chiến thuật chiến tranh lạnh, Nga vẫn thản nhiên, không chen vào nội bộ Tây Phương và đã tỏ ra rất ôn hoà trong thuật lấy mềm dẻo thắng mạnh cứng, đặng Pháp đầy đủ tự tin trên lập trường tự lực chống Cộng mà xa lánh lần hàng ngũ Đồng minh Tây phương. Và như vậy, Mỹ sẽ không còn đủ thế cờ tấn công Nga trên mọi địa hạt trong khi lực lượng khoa học Mỹ đã chưa thể thắng Nga mà còn thua Nga về khoa học không gian một cách rõ rệt. Thoả ước đình chỉ thí nghiệm nguyên tử do tay ba Mỹ Anh Nga thực hiện ở Mạc Tư Khoa tạo ưu thế cho Nga hơn vì trong thời gian đã thí nghiệm trước Nga đã thâu thập kế quả khả quan hơn Mỹ : Nga chỉ thủ lối 150 trái mà sức mạnh tới 400 Megatonnes trong khi Mỹ đã phải thử lối 250 trái mà sức mạnh chỉ tới 200 Megatonnes.
Về Phi Châu, vì sợ mích lòng các bạn trong khối Tự do, Mỹ đã dung dưỡng các chế độ thực dân, gây bất bình trong khối Phi, một khối Trung Lập đáng được nâng đỡ. Như vậy Mỹ đã phung phí biết bao nhiêu tài vật của dân chúng Mỹ, trong khi thuế khoá Mỹ được tăng gia phục vụ các việc làm thất nhơn tâm.
Ở Trung Đông thì Mỹ cũng như Anh đã sa lầy trong vòng tơ rối của khối Á rập, khi ủng hộ, lúc chống đối, làm cho cảm tình và tín nhiệm của hai nước phải mất lần trong khối Trung Lập ấy nữa. Thêm vào đó, nạn kỳ thị chủng tộc ở Mỹ Quốc và Nam Phi tạo mối bất mãn lớn lao làm suy yếu hàng ngũ Tây Phương.
Về chiến thuật chiến tranh lạnh, Nga đã thắng Mỹ quá nhiều mà không chút tốn hao.Còn lại vấn đề Đông Á, phe Nga đã có thuật chiến tranh nóng mà chế độ Bắc Kinh là ngọn lửa châm ngòi.
Nước Cambodge là nước Trung Lập thân Tây phương, vậy mà sự phá rối của hai nước láng giềng thân Mỹ đã khiến nước đó phải dựa vào phe Nga đặng bảo toàn lãnh thổ và chiến cuộc Lào Quốc diễn mãi thêm trầm trọng trong khi việc đánh chiếm Lào Quốc chưa phải là điểm chiến lược của Cộng Sản. Lỗi đó do đâu ? Nếu nhận định phiến diện, ai cũng cho là Cộng Sản gây hấn. Nhưng xét cho kỹ, nhận định chính xác thì sự việc đã trái hẳn, phe nào đã gây hấn trước ở Lào ? Ai đã bắt giam Hoàng Thân Souphanouvong khi Ông này đã là một người cầm đầu cuộc giải phóng Lào Quốc ra khỏi ách đô hộ của Thực dân Pháp và khi ông là một Nghị Sĩ trong một Chánh Phủ hoàn toàn thiên hữu ? Sau đó, vì không chịu nổi chế độ độc tài của Chánh phủ thiên hữu ấy, một Chánh phủ Trung Lập ra đời để dung hoà nội bộ và chặn đứng tai hoạ bành trướng của Cộng sản. Ai đã xúi giục phe thiên hữu đứng lên đánh đuổi phe Trung lập trong khi phe Trung lập chỉ có võ khí thô sơ, còn phe thiên hữu có các võ khí tối tân của Mỹ Quốc viện trợ. Do đó, buộc lòng phe Trung lập phải liên kết với phe thiên Cộng và làm cho phe thiên Cộng trở nên mạnh mẽ và chiến tranh lan rộng ở đất nước Lào. Như vậy đâu phải Cộng sản gây hấn chiến tranh Lào Quốc và đứng trên công lý thì Mỹ Quốc hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thử hỏi dân chúng Mỹ có muốn như vậy không ? Đúng hẳn là không. Đó là lỗi của những vị lãnh đạo của Chánh phủ Mỹ.
Phe Nga lại thắng thế ở Đông Nam Á.
Lợi dụng tình thế Lào Quốc, phe Nga liền áp dụng chiến lược xích hoá Đông Nam Á bằng điểm tựa là Việt Nam, nên việc Lào Quốc vốn dĩ là bối cảnh của chiến lược.
Mỹ lại lúng túng giải quyết vô trách nhiệm bằng cách nhìn nhận Lào Quốc trung lập với quyền hành của ba phe riêng biệt. Hội nghị 14 nước ở Genève năm 1962 đã lầm lẫn trong quyết định. Phe thiên hữu có các nước láng giềng trợ lực hoặc bằng tinh thần hoặc bằng võ khí và Mỹ trực tiếp viện trợ không qua tay chánh phủ Liên Hiệp. Phe thân Cộng cũng được các nước bạn trợ lực mạnh mẽ. Nga lại viện trợ thẳng cho Chánh phủ Liên Hiệp chớ không đến Pathet Lào. Trung Hoa Cộng Sản và Bắc Việt cũng viện trợ cho Chánh Phủ Liên Hiệp những xa lộ ở miền Bắc Lào.
Trên pháp lý, Nga lại thắng Mỹ
Sự viện trợ của Mỹ đã trở thành mối gây hấn cho chiến cuộc Lào tái phát. Vì muốn giữ hoà khí, phe Trung lập đã phải thanh trừng nội bộ gây thành mối chia rẽ có lợi cho phe thân Cộng để rồi vai trò phe Trung Lập mất lần và trở thành cuộc tả hữu chiến tranh ngày nay và Mỹ hiện không dám trực tiếp can thiệp.
Chiến tranh Lào Quốc khả dĩ mạnh mẽ là do chiến thuật liên huờn của phe Nga thành hình đặng nắm vững điểm tựa Việt Nam trong thế cờ Đông Nam Á.
Vậy cho nên, việc Mỹ đứng sau lưng ông Ngô Đình Diệm kể từ ngày ông này về nước chỉ có một cái lợi là Tổng Thống Ngô Đình Diệm gạt hẳn các ảnh hưởng cuối cùng của Pháp ở miền Nam Việt Nam sau Hiệp Định Geneve 1954, và cũng đã làm cho ảnh hưởng cùng lực lượng của phe Nga càng ngày càng bành trướng mạnh hơn.
Do sự tranh đấu chống Cộng của các Đảng phái Quốc gia chân chính trước kia, mà mạnh mẽ nhất là khối Cao Đài. Pháp phải nhượng quyền cho chánh phủ quốc gia Việt Nam buổi nọ trong đó Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được thừa hưởng di sản bởi đề nghị của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Chủ Cao Đài Giáo được Quốc Trưởng Bảo Đại chấp thuận, để rồi trở thành vị Tổng Thống Cộng Hoà theo chính sách Mỹ.
Một chế độ độc tài thứ hai đi đôi với chế độ độc tài Cộng sản được thực hiện cùng một lúc với các mưu mô xảo quyệt và các hành động tàn bạo.
Nhờ sự viện trợ của Mỹ trên mọi phương diện : Tài chánh, Hành chánh, Quân sự, mà chế độ độc tài Đảng trị này được lớn mạnh mau chóng và các Đảng phái Quốc gia chân chính bị lấn ép và phải lui dần vào bóng tối. Do đó, những thành phần quân sự bất mãn đã tự ý rút vào chiến khu để chống đối, tạo thành mối lợi cho phe thiên Cộng có cơ hội và phương tiện để bành trướng thành Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Bên ngoài chánh phủ thì các công chức, quân nhân liên tiếp bất mãn, dân chúng hoài nghi và bất phục.
Các sự viện trợ mạnh mẽ cùng sự có mặt của các quân nhân Mỹ vào cuối năm 1960 đến nay trở thành mối nghi ngờ, hay nói đúng hơn là thành niềm oán hận của dân tộc Việt Nam trong khi toàn dân Việt đang oán hận Cộng sản.
Rồi liên tiếp, với sự giúp đỡ trực tiếp của Mỹ và vài nước khác, nông nghiệp Việt Nam bị tàn phá, thương nghiệp bị cầm chân và phá sản, các xí nghiệp công quản làm lợi cho một nhóm, đã giết chết các tiểu công nghệ, tạo thành cảnh thất nghiệp lan tràn, một cơ hội rất tốt cho sự bành trướng của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam.
Với tiền viện trợ của Mỹ, các nhà tù được xây gấp ba hay bốn lần nhiều hơn thời Bảo Đại. Các nhân viên Mật vụ dùng để khủng bố bắt cóc và ám sát dân chúng được kết nạp nhiều hơn nhân viên công lực, đã tạo thành một ngân sách chi phí quá sức tưởng tượng, đồng thời các vụ tống tiền, chợ đen công khai được dung túng và vụ bán gạo cho Bắc vĩ tuyến 17 để đổi lấy thuốc phiện lậu mang từ Lào về để làm kinh tế cho Đảng Cần Lao Nhân Vị, một đảng hoạt động bí mật và nguy hiểm của gia đình họ Ngô. Đó là chưa nói đến các tổ chức phá rối Thái Tử Sihanouk, Quốc Trưởng Cam Bốt, với một chi phí khổng lồ và việc đem quân qua Lào giúp Phoumi Nosavan gây nên chiến tranh Lào Quốc và tổn phí tài chánh và quân số cho Việt Nam với các viện trợ Mỹ.
Với kế hoạch ngoại thương trong chương trình viện trợ của Mỹ, nền kinh tế Việt Nam càng ngày càng lủng đoạn vì dân chúng đã phải gặp mức chi tiêu quá cao bởi hàng nhập nội vừa không đáp ứng nhu cầu, vừa tăng giá từ vật hạng đến chuyên chở, trong khi dân chúng mất lần việc làm ăn mà phải kiệt quệ.
Với sự viện trợ quân sự về cố vấn cũng như vũ khí của Mỹ, các cuộc hành quân càn quét được thực hiện liên hồi để rồi chính các quân nhân Giải Phóng Miền Nam chết chỉ một phần trong khi dân chúng vô tội chết một trăm lần nhiều hơn và tài sản của dân chúng bị đốt phá vô nhân đạo.
Rồi cùng với vũ khí đó, các Tôn giáo cũng bị đàn áp mà trường hợp rõ rệt là vụ Phật giáo đã và đang xảy ra. Cao Đài Giáo thì luôn luôn có một Thiếu Tướng với một Trung Uý Quận Trưởng cùng các binh lực cận kề áp bức, xâm chiếm các cơ sở của Tôn Giáo để làm văn phòng hành chánh và cưỡng đoạt các cơ sở xã hội, làm cho các vị cầm đầu Hội Thánh tạm thời hiện nay phải sợ sệt mà chiều theo ý họ (các vị ấy là những người do chánh phủ đã mua chuộc).
Vùng Thánh Địa Toà Thánh Tây Ninh với châu vi 160 cây số, trước là một vùng tự do hoàn toàn và không một hình bóng hay tiếng nói của Cộng sản xâm nhập được kể từ 1947 đến năm 1956. Thế mà sau khi bị chánh phủ chiếm đóng, vùng này đã trở thành một ngục tối.Dân chúng không việc làm, kinh tế bế tắc, các khu xóm bị rào chặn khắp bề, sự giao thông bị gián đoạn, lại thêm khủng bố liên tiếp trong khi các hoạt động của Cộng sản càng ngày càng gia tăng, khiến cho một số thanh niên khá đông mà trước năm 1956 là người chống Cộng hiện trở thành kẻ cầm súng đứng chung hàng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Năm 1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đích thân lên Toà Thánh Tây Ninh cùng ông Nguyễn Ngọc Thơ hiện là Phó Tổng Thống, để hăm doạ các vị Chức sắc có mặt lúc bấy giờ buộc ký một Thoả ước, trước hết là để xâm chiếm vùng Thánh Địa. Còn về quyền tự do của vùng nội ô Toà Thánh cùng các quyền tự do Tôn giáo mà họ đã hài ra trong Thoả ước 1956 ấy,Chánh phủ cũng đã nuốt trôi luôn .
Vào năm 1957, 58,59 ngoài một số trên 400 vừa Chức sắc và tín đồ đã bị bắt đánh đập tàn nhẫn, giam cầm tù tội rồi trả tự do, hiện còn một số Chức sắc và tín đồ bị giam giữ là Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh (Nguyễn Văn Thiệp 70 tuổi), Sĩ Tải Nguyễn Văn Nguyên, Lễ Sanh Ngọc Hẳng Thanh (Đỗ Văn Hẳng). Lễ sanh Trọng, Cô Nhung, Văn Hoà Vui v.v … Người ta phải liên đới nghĩ đến hiện nay chánh quyền miền Nam đang nuốt trôi lời ký kết với Phật Giáo trong Bản Thông cáo chung ngày 16 tháng 6 năm 1963 vừa qua.
Nói về ấp chiến lược mà chánh phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm gọi là Quốc sách để hoàn thành cuộc cách mạng thì trái hẳn lại, dân chúng đã phải bỏ sản nghiệp gom về một chỗ không phương tiện làm ăn tức là bị phá sản mà phải thất nghiệp.Người dân bị đi dân công liên tiếp gọi là phát triển cộng đồng, phải canh gác không thì giờ nghỉ ngơi lại còn phải đóng góp đủ mọi thứ tiền, bằng không, người đó sẽ bị ghi là có tư tưởng Việt Cộng hay là Việt Cộng nằm vùng. Đó là không nói đến những cuộc nhóm họp liên tiếp để nhồi sọ.
Về nông nghiệp, người nông dân phải đem bò trâu ra ruộng từ lúc 4 giờ sáng mới có thời giờ cày cấy, và 9 giờ tối mới về nhà đặng có thời giờ săn sóc mùa màng.Khi vào Ấp chiến lược rồi thì đến 7 giờ sáng mới được bắt đầu ra ruộng, và 6 giờ chiều đã phải về thì thử hỏi họ còn làm ăn sao được ? ....
Như vậy mà sự thành lập Ấp chiến lược ấy vẫn được các Chánh phủ Anh và các nước khác như Úc, Phi Luật Tân cổ võ theo với Chánh phủ Mỹ. Các nhà ngoại giao các nước ấy có biết đâu rằng mỗi khi khánh thành một ấp chiến lựơc nào, hay mỗi khi có cuộc kinh lý là dân chúng các nơi bị bắt buộc bỏ việc làm để các xe nhà binh viện trợ Mỹ chở đến nơi tập họp để nói những lời đã sắp đặt và cầm những biểu ngữ của Chánh quyền làm sẳn. Họ cho rằng những trạm y tế cỏn con, những trường học cộng đồng đủ để xoa dịu lòng công phẫn của dân chúng hay chăng ? Những vụ phát tặng phẩm, những cuộc cho vay tiền đâu đủ bồi đắp vào những mất mát của người dân.
Những sự việc nói trên, hiệp với các luật lệ, thuế vụ quá nặng và vô lý, những cuộc bầu cử dân chủ bề ngoài mà ép buộc và hăm doạ bên trong, tạo ra một tổ chức dân chủ giả tạo, cấu kết thành một uất hận quần chúng làm một lợi khí lớn lao cho phe Nga còn chính Mỹ đã xua đẩy dân chúng Việt Nam chạy về với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mặc dầu toàn thể dân Việt Nam đang ghê sợ các hành động tàn ác, dã man của phe Cộng sản tại Việt Nam từ năm 1946 đến năm 1954.
Sự chiêu hồi hiện nay của Chánh phủ cũng chỉ thâu thập đựơc những phần tử thiếu ý thức mà đã chạy càn bậy, chớ chưa hề tiếp nhận đựơc người đầy đủ lý trí, và cũng trong lúc thi hành kế hoạch chiêu hồi chánh phủ vẫn tiếp tục khủng bố dân chúng thì chánh sách ấy chỉ là một trò ảo thuật, khiến dân chúng thêm chán nản.
Như vậy, thuật chiến tranh nóng của Nga cũng thắng Mỹ trong khi dân chúng Mỹ đã phải đóng góp từ tài vật đến quân nhân một cách vô ích tại Miền Nam Việt Nam vì lỗi ở Chánh phủ Mỹ đã trợ giúp cho chế độ thất nhân tâm và mù quáng, trái ý nguyện với toàn dân Mỹ.
Mỹ đã tính lầm nước cờ trên bàn cờ Quốc tế, và hiện nước cờ sanh tử giữa Mỹ và Cộng sản Việt Nam, Mỹ cũng đang lầm lộn lớn. Mỹ đang ở thế bị động và không biết khai thác lợi điểm trong việc bất hoà của khối Cộng sản hiện nay, nhứt là ở Việt Nam.
Nga vẫn là chủ động khắp bàn cờ mặc dầu phe Cộng sản đang có Trung Hoa Cộng sản đã vì quá khích mà lầm lẫn xua mạnh chiến tranh nóng như vụ xâm chiếm lãnh thổ Ấn Độ, song sự quá khích ấy lại càng làm cho Mỹ thêm lúng túng mà có lợi cho Nga nhiều hơn.
Như vậy, nếu mất thế ở Việt Nam là Mỹ mất tất cả, Mỹ cần định lại thế cờ. Cả ba Cường Quốc Tây Phương cần định lại thế cờ.
Sau khi đọc xong lời bình luận trên đây, chúng tôi xin chắn rằng quý Tổng Thống và Thủ Tướng đã hiểu rõ lập trường của chúng tôi.
Chúng tôi rất mong Thế giới tự do không mất người bạn Việt Nam cũng như chúng tôi không mất các người bạn Mỹ Pháp Anh ở phương trời Tây vì nền luân lý và văn hoá của Pháp Quốc rất phù hạp với phong hoá cổ truyền của Việt Nam.Sự tiến bộ khoa học của Mỹ đáng cho Việt Nam tin tưởng và sự trầm lặng dịu hoà đức tính tự trọng của Anh Quốc đáng để Việt Nam mến yêu.
Chúng tôi xin gởi nơi đây lời chào thân ái của toàn thể trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo của chúng tôi cùng các ban bộ đang hoạt động trong toàn quốc đền quý Dân tộc và quý Chánh phủ.
Chúng tôi xin đệ đạt lời chào mừng lên Nữ Hoàng Anh Quốc.
Sau hết, cả thế giới sẽ biết ơn quý Ngài nếu quý Ngài cấp thời giải quyết sự việc và toàn thể dân tộc Việt Nam chúng tôi đặt toàn hy vọng ở quý Ngài
Chúng tôi rất mong tin lành và trân trọng kính chào quý Ngài.
Toà Thánh Tây Ninh, ngày 4 tháng 8 năm 1963
( 15 tháng 6 năm Quý Mão)
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung
Gởi đi Đính kèm
Tổng Thống Mỹ Quốc Thơ Thơ (không số) ngày 23-10-61
Tổng Thống Pháp Quốc Thơ số :1-62/ĐDHP-QN/TN
Thủ Tướng Anh Quốc Thơ số :030/ĐDHP-QN/TN
Và đề nghị 036/ ĐDHP-QN/TN
Đồng kính tường
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà
Quý Đại Sứ, Tổng Lãnh Sự và Lãnh Sự ở Sài Gòn
Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc
Ông Chủ Tịch Uỷ Hội Q.T.K.S.Đ.C
Các cơ quan ngôn luận.
Đức Thầy gọi bức thơ số 84 này là bức thơ quyết tử, định vận mạng chế độ Ngô Đình Diệm.
Chánh quyền Ngô Đình Diệm bố trí một mạng lưới chặt chẽ nhứt là nơi các Toà Đại Sứ và Lãnh Sự.Anh em thay nhau đi gởi các thơ cũng rất gian nan nguy hiểm, nếu bị bắt có thể bị thủ tiêu, nhưng nhờ Ơn Trên các Đấng Thiêng liêng hộ trì cũng qua khỏi.
Vụ đàn áp Phật Giáo một cách thô bạo từ Huế vào Sài Gòn đến các tỉnh, cho đến khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu làm chấn động thế giới, uy tín ông Diệm xuống thấp. Người Mỹ cũng nhận thấy ông Ngô Đình Diệm không còn hữu dụng được nữa, chỉ làm hao tổn cho chương trình viện trợ của Mỹ ở Việt Nam. Tổng Thống Mỹ Kennedy tuyên bố bổ nhiệm ông Cabot Lodge làm Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam thay thế cho Noting. Ông Cabot Lodge là người Đảng Cộng Hoà chuyên môn đảo chánh, cho nên gia đình họ Ngô cực lực phản đối..
CHÁNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM BỊ ĐẢO CHÁNH
Ngày 1-11-1963 lúc 13 giờ, bắt đầu đảo chánh Ngô Đình Diệm chấm dứt một chế độ độc tài gia đình trị.Ông Ngô Đình Diệm là người phản bội hại ân nhân của mình, một là Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, hai là Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo chủ Đạo Cao Đài.
Hồi năm 1954 khi Chánh phủ Bửu Lộc ở Sài Gòn từ chức, Đức Quốc Trưởng Bảo Đại đánh điện từ Pháp qua Mỹ gọi ông Ngô Đình Diệm qua Pháp và đề cử ông Diệm làm Thủ Tướng về nước lập Chánh phủ thay thế cho Chánh phủ Bửu Lộc. Đức Quốc Trưởng Bảo Đại có dẫn ông Diệm đến Paris để gặp Đức Hộ Pháp và nhờ Đức Hộ Pháp ủng hộ ông Diệm về nước lập tân chánh phủ.
Trong buổi tiếp xúc tại Paris có ba người, Đức Hộ Pháp ngồi giữa, Đức Quốc Trưởng Bảo Đại một bên và ông Ngô Đình Diệm một bên, Đức Hộ Pháp hứa với hai người là tận tình ủng hộ Ngô Đình Diệm.
Khi ông Diệm về Sài gòn làm phận sự Thủ Tướng gặp nhiều khó khăn trắc trở, thấy không xong chỉ trong vòng 1 tháng ông Diệm đánh điện qua Pháp cho Đức Quốc Trưởng Bảo Đại để xin từ chức, Đức Quốc Trưởng Bảo Đại đến nhờ ý kiến giúp đỡ của Đức Hộ Pháp. Đức Hộ Pháp có nói với Đức Quốc Trưởng Bảo Đại đánh điện về Sài Gòn cho ông Ngô Đình Diệm cứ giữ chức Thủ Tướng, có Đức Hộ Pháp ủng hộ.
Đức Hộ Pháp nhờ Thiếu Tướng Lê Văn Tất về nước cậy Thiếu Tướng Trình Minh Thế tổ chức cho bổn Đạo Cao Đài vùng Toà Thánh Tây Ninh xuống Sài Gòn biểu tình ủng hộ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ông Thế vận động xe đò, xe chở hàng, mấy chục chiếc chở người xuống Sài Gòn, trong khi đó dân chúng Sài Gòn kể cả người Công Giáo cũng chưa có ai tỏ thái độ ủng hộ ông Diệm. Nhờ có cuộc biểu tình ủng hộ này, ông Diệm được đứng vững.
Hồi gặp gở tay ba ở Paris, ông Diệm có thề với Đức Hộ Pháp và Đức Quốc Trưởng Bảo Đại nếu ông có phản bội thề có trước ngọn súng thần của Tổ quốc.Nhưng mới có một năm, vào năm 1955 chánh quyền Ngô Đình Diệm xâm chiếm vùng Thánh Địa, thâu đoạt chợ Long Hoa và các chợ của Đạo, mua chuộc ông Phương đem quân về bao vây Hộ Pháp Đường và ông Diệm lật đổ luôn Quốc Trưởng Bảo Đại rồi lên làm Tổng Thống cho đến ngày đền tội...
Ngày 1 tháng 11 năm 1963 chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ.
*
Ông Nhung đánh điện cho Trung Tướng Dương Văn Minh chào mừng cách mạng thành công của Hội đồng các Tướng lãnh sớm hơn các đoàn thể trong nước.
Nguyên văn bức điện tín :
Kính gởi Trung Tướng,
Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Sài gòn
Thừa mạng lịnh Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc từ lúc Đức Ngài còn sanh tiền với nhiệm vụ Hoà Bình bảo vệ Quốc gia dân tộc,xuất phát từ Miền Nam tiến tới Thống Nhất toàn lãnh thổ và dân tộc STOP- thay mặt trên hai triệu tín đồ Cao Đài Giáo thuộc Toà Thánh Tây Ninh và toàn các Ban vận động Hoà Bình kính gởi lời chào mừng Cách mạng thành công do Hội đồng Quân Nhân Cách Mạng của Trung tướng lãnh đạo dẹp bỏ chế độ độc tài tàn bạo STOP – Trong lúc chờ đợi thành lập chánh phủ thiệt thọ mong Hội đồng cứu xét gấp các hồ sơ Chánh trị phạm trả tự do cho những người oan ức và thành phần quốc gia, tu sĩ các Tôn giáo STOP – đồng thời cố gắng tránh gây tổn thất cho đồng bào trong các cuộc hành binh STOP- Cầu chúc Hội Đồng Quân nhân Cách mạng sớm hoàn thành cách mạng tự do dân chủ nhân đạo cứu quốc và kiến.
10 giờ 30 ngày 2 tháng 11 năm 1963 (AL. 17-9-Quí Mão)
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung
Sau bức điện văn, ông Nhung gởi một bức thơ chúc mừng cách mạng thành công cho Trung Tướng Dương Văn Minh Chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng, để bày tỏ lập trường của Đạo Cao Đài trong hiện tình đất nước, theo chương trình hoà giải dân tộc của Đức Hộ Pháp Giáo Chủ Đạo Cao Đài.
Trong giai đoạn giao thời giữa hai chế độ cũ và mới, chánh phủ cách mạng chưa có đường lối.Các giới trí thức, nhân sĩ trong nước còn dè dặt chưa dám bày tỏ ý kiến.Đúng lúc ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung thừa Uỷ nhiệm thơ Đức Hộ Pháp lãnh đạo Chánh sách Hoà Bình Chung Sống tại Quốc nội, cùng một số đồng chí tổ chức buổi họp báo.
*
HỌP BÁO HOÀ BÌNH TẠI SOÁI KÌNH LÂM CHỢ LỚN
Ngày 15 tháng 11 năm 1963, Sĩ Tải Phạm Duy Nhung mở cuộc họp báo tại nhà hàng Soái Kình Lâm giữa Chợ Lớn, trình bày giải pháp cứu quốc theo đường lối Hoà Bình của Đức Hộ Pháp.
Cuộc họp báo rất hấp dẫn, món ăn tinh thần thật thích hợp, đáp ứng đúng lúc sự khao khát của báo chí. Từ lâu muốn biết qua đường lối Chánh sách Hoà Bình Chung Sống, nhưng chưa gặp dịp phỏng vấn. Hôm nay số ký giả trong nứơc và ngoại quốc đến tham dự gấp hai lần thiệp mời, họ tranh nhau chất vấn vị Chủ toạ, làm cho cuộc họp báo rất hứng khởi và cởi mở. Sĩ Tải Phạm Duy Nhung với nét mặt vui vẻ hồn nhiên trả lời từng câu một rất mạch lạc làm cho mọi người có cảm tưởng thích thú.
Sau hai tiếng đồng hồ họ kiếu từ thì có một ký giả hỏi vói : Sao quý ông không họp báo ở Sài gòn cho tiện, vô Chợ Lớn xa quá; ông Nhung trả lời : Chúng tôi họp báo không có giấy phép, nên chọn một nhà hàng tại trung tâm điểm Chợ Lớn, bao quanh là người Hoa Kiều để tránh bớt sự theo dõi của Chánh quyền.
*
Dưới đây là nguyên văn Bản Tuyên Ngôn họp báo và bản Vi bằng báo chí phỏng vấn
.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Tòa thánh Tây Ninh
CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG
TUYÊN NGÔN
Kính Đồng Bào, Nhân Sĩ và Báo Chí,
Kính Quý vị,
Sỡ dĩ có cuộc ra mắt báo chí ngày hôm nay, không phải chúng tôi có ý định tự tạo cho chúng tôi một ưu thế nào đối với thời cuộc, nhưng xét vì nước nhà đang đứng trong giai đoạn giao thời mà trách nhiệm cứu Dân cứu nước nước đã được các vị anh hùng dân tộc trong Hội đồng Quân Nhân Cách Mạng đảm trách.
Chúng tôi, với bổn phận giúp đỡ Quốc dân, mong sớm cứu vãn tình thế đen tối do những bàn tay thiếu nhơn đạo tạo thành. Buộc lòng chúng tôi đã chẳng ngại gian lao trong thời tàn bạo mà đã do mạng lịnh của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, từ buổi xuất ngoại do sự đàn áp của chế độ vừa qua.Chúng tôi chẳng hề hành động với vị tư vị kỷ mà chỉ mong đem sự Hoà Bình, Thương Yêu lại cho toàn dân tộc, đem sự thống nhứt đoàn viên cho toàn lãnh thổ, với tất cả sự hy sinh của một Tôn Giáo của Đức CHÍ TÔN, đem đến cho nhơn loại đang mong muốn. Chúng tôi đã và chẳng bao giờ khác hơn là luôn luôn quên mình đặng phục vụ cho nhơn sanh mà Quốc gia nòi giống của chúng tôi là căn bản.
Vì những lẽ đó, mặc dầu trong thời gian qua chúng tôi đã phải chịu bao khổ nhục nào tù đày tra tấn dã man, thậm chí đã có năm vị Thánh Tử Đạo đã phải gởi mình trong các chốn tù lao kể từ năm 1957 đến năm nay. May thay cho dân tộc, chúng tôi đã phải gởi nhiều bức thơ kêu gọi sự hiểu biết của các nhà lãnh đạo cường quốc tự do.Ngày 1 tháng 11 năm 1963 được các vị Tướng lãnh đã sáng suốt ái quốc ái dân đem lại sự hạnh phúc cho dân tộc ở miền Nam. Các bức thơ đó không phải được trao cho quý vị với cao vọng được sự nhận nhìn hữu công trong giai đoạn, mà chỉ có ý định trình bày việc làm vô tư của Đức Hộ Pháp của chúng tôi cũng như của toàn thể tín đồ Cao Đài Giáo.
Hôm nay, nhân danh các Ban vận động Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống trong toàn quốc, chúng tôi xin minh giải lập trường cho toàn quốc dân được hiểu, bởi từ trước chúng tôi đã bị những điều buộc tội oan ức là chúng tôi hoạt động một chiều cho đường lối vô thần bạo hành. Sự thật khác hẳn, khối vô sản chủ trương chung sống rồi mới Hoà Bình, còn chúng tôi lại chủ trương Hoà Bình rồi mới chung sống, như vậy đã rõ rệt là chúng tôi chẳng bao giờ chấp nhận một sự kiện mờ ám lẫn lộn. Trái lại, chúng tôi chỉ cố gắng kêu lòng ái quốc ái dân của mỗi khối hãy vì máu huyết đồng chủng, hãy vì quyền lợi Quốc gia mà dẹp bỏ mọi xu hướng, thành kiến, đảng phái, đem lại nền Hoà Bình cho dân tộc của mỗi lãnh thổ. Nói rõ hơn là chúng tôi kêu gọi miền Bắc chẳng đặng chen lấn phá rối miền Nam và ngược lại cũng thế.
Trong lúc đó các vị lãnh đạo hai miền hãy nhớ đến danh thể của Việt Nam mà chung hiệp thành một Chánh phủ Trung ương lâm thời với sự cấu kết cử đặt của hai miền và các nhân sĩ đặng có một Chánh phủ hợp pháp và Trung lập trong gia đình quốc tế. Chánh phủ này chỉ là một tượng trưng pháp lý trước Liên Hiệp Quốc, và giải quyết kinh tế, tài chánh quân bình cho đôi bên, còn chính trị nội bộ thì miền nào là miền đó. Chánh phủ địa phương mỗi miền có toàn quyền về Hành pháp và Lập pháp, chớ Chánh phủ trung ương hoàn toàn vô quyền nhất định. Đến chừng thấy sự trưởng thành dân chủ tự do của mỗi miền mới tổ chức tổng tuyển cử. Đó là nguyện vọng cũng như đường lối mà chúng tôi quyết thi hành dầu phải trải qua gian lao khổ hạnh.
Và, chúng tôi xin tuyên bố với toàn quốc dân rằng :
“Nước Việt Nam chúng ta chỉ có đường lối đó mới tiến đến Thống Nhứt và Hoà Bình, Tự Do Dân Chủ thực sự ”.
Sài gòn, ngày 15 tháng 11 năm 1963
( ngày 30 tháng 9 năm Quý Mão )
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung
Cùng ký tên trong Tuyên Ngôn
Phụ trách đại diện: Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời
Ban thường trực
Sĩ Tải Nguyễn Thành Nguyên (hiện còn bị câu lưu)
Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng
Sĩ Tải Đỗ Hoàng Giảm
Sĩ Tải Nguyễn Văn Tú.
Thay mặt các Ban vận động miền :
Giáo sư Thượng Giải Thanh (Nguyễn Văn Giải)
Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh (Nguyễn Văn Thiệp)
Giáo Hữu Ngọc Của Thanh (Nguyễn Văn Của)
Lễ sanh Ngọc Hẳng Thanh (hiện còn bị câu lưu)
Nữ Giáo Hữu Bùi Hương Hoa
Nữ Chí Thiện Võ Thị Ngưu
Nữ Luật Sự Nguyễn Thị Nhản
Chánh Trị Sự Huỳnh Văn Tuy
Nguyễn Văn Tước
Văn Hoà Vui (hiện còn bị câu lưu)
Thay mặt các chiến sĩ Hoà Bình vô khí giới
Nguyên Thiếu Tướng Cao Đài Trương Văn Quảng
(Đọc trong buổi ra mắt báo chí trong và ngoài nước, ngày 15-11-1963, tại nhà hàng Soái Kình Lâm (Chợ Lớn)
VI BẰNG
Cuộc họp báo lúc 10 giờ sáng ngày 15 tháng 11 năm 1963 (30 tháng 9 Quí Mão) tại phòng số 1 nhà hàng Soái Kình Lâm, số 496 Đường Đồng Khánh (Chợ Lớn) với sự hiện diện của các Đại diện báo chí trong và ngoài nước.
Chủ toạ : Sĩ Tải Phạm Duy Nhung, Đại diện Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Cố Giáo Chủ Đạo Cao Đài ở Quốc nội.
Thông dịch viên : Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời, Phụ trách Đại diện
Thơ ký: Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng
Sĩ Tải Đỗ Hoàng Giảm
Dự họp
Giáo sư Thượng Giải Thanh
Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh
Sĩ Tải Nguyễn Văn Tú
Thiếu tướng Trương Văn Quảng
Giáo Hữu Bùi Hương Hoa
Chí Thiện Võ Thị Ngưu
Chánh trị sự Huỳnh Văn Tuy
Đại diện Báo chí trong nước.
Báo LẼ SỐNG : 1 vị
Báo SAIGON MAI : 1 vị
Báo BÁO MỚI : 4 vị
Báo TIẾNG DỘI : 1 vị
Báo TIẾNG VANG : 1 vị
Báo DÂN NÓI : 1 vị
Báo NGÔN LUẬN : 1 vị
Đại Diện Báo chí Ngoại quốc
Hãng PHÁP TẤN XÃ (A.F.P) 1 vị người Pháp
Hãng HIỆP TẤN XÃ (A.P và U.P.I 1 vị người Việt
Đài Phát Thanh ANH QUỐC B.B.C 1 vị người Anh
Báo NEWYORK TIMES 1 vị người Mỹ
Báo BRITISH COMMONWEALTH 1 vị người Việt
Mở đầu cuộc họp báo, ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung tuyên bố lý do buổi họp.
“Kính thưa Quý vị ”
Chúng tôi rất hân hạnh được Quí vị đến đây dự bữa trà, chúng tôi xin quý vị thứ lỗi vì đây chưa phải là một cuộc họp báo chánh thức mà chỉ là cuộc tiếp xúc thân mật để chúng tôi trình bày việc làm cũng như lập trường của chúng tôi trong thời gian qua, từ năm 1956 đến nay.
Trước khi trình bày các tài liệu của chúng tôi đã hoạt động, chúng tôi xin đọc một Tuyên Ngôn minh định đường lối của chúng tôi.
(Đọc Tuyên Ngôn )
Ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung tiếp : để minh chứng hành động của chúng tôi, tôi xin đọc Chứng thư của Đức Hộ Pháp đã ban cho tôi từ năm 1956, sau ngày xuất ngoại lên Nam Vang (Đọc chứng thư)
Đại diện hãng thông tấn A.F.P hỏi : Tại sao hôm nay có cuộc lễ lớn ở Toà Thánh để bầu cử ông Trần Quang Vinh làm Giáo Tông thay thế Đức Hộ Pháp mà các ông không dự lại xuống đây mở cuộc tiếp xúc với báo chí. Báo chí ngoại quốc đã sẳn sàng với máy quay phim, máy ảnh lên đó hết và có cả chánh quyền tham dự nữa ?
Sĩ Tải Nhung : Nói thật, chúng tôi chưa hay biết gì về cuộc lễ này cả, cũng như toàn Đạo của chúng tôi vậy. Chúng tôi tin chắc rằng trong Đạo chúng tôi không có cuộc bầu cử Giáo Tông như vậy được. Vì muốn bầu cử Giáo Tông phải do toàn thể tín đồ đồng tâm công cử và ứng cử viên phải ở phẩm Đầu Sư hay Chưởng Pháp mới được, ngoại trừ trường hợp Đức CHÍ TÔN giáng cơ phong thưởng. Thời gian bầu cử phải chuẩn bị ít nhứt từ 3 tháng đổ lên và qua các Hội thì phải mất ít nhứt là 6 tháng.
Đại diện A.F.P : Như vậy là tin thất thiệt.
Đại diện Sài Gòn : thoảng như có một cuộc bầu cử thật, Quý vị nghĩ sao ?
Sĩ Tải Nhung : chúng tôi nói đây không phải là tiếng nói cá nhân mà là tiếng nói của PHÁP CHÁNH, một cơ quan bảo thủ Chơn Truyền của ĐẠO, chúng tôi hoàn toàn không nhìn nhận cuộc bầu cử bất hợp pháp đó.
Đại diện lẽ sống: Đối với ông Trần Quang Vinh, Quí ông có cảm tưởng ra sao ?
Sĩ Tải Nhung : Đối với ông Trần Quang Vinh, chúng tôi rất có cảm tình và chúng tôi cũng thừa nhận ông có khả năng hơn hết trong Chức Sắc CỬU TRÙNG ĐÀI, nhưng nếu có bầu cử thật như vậy, chúng tôi tin rằng ông không bao giờ nhìn nhận.
Đại diện Báo MỚI : Thưa Quí Sĩ Tải, từ trước chúng tôi nghe trong ĐẠO CAO ĐÀI chỉ có Thiếu Tướng Trình Minh Thế, Trung Tướng Phương và Thiếu Tướng Tất, bây giờ trong TUYÊN NGÔN, chúng tôi thấy có cả Thiếu Tướng Trương Văn Quảng, vậy xin cho biết Thiếu Tướng Quảng ở lực lượng nào ?
Sĩ Tải Nhung : Trước kia, Thiếu Tướng Quảng là Đại Tá, Tổng Thanh tra Quân sự trong Quân đội Cao Đài dưới quyền của Tướng Nguyễn Thành Phương. Khi Đức Hộ Pháp ra lịnh Quốc gia hoá Quân đội Cao Đài thì hai ông Phương và Tất ra hiệp tác với Chánh phủ Ngô Đình Diệm rồi trở lại bao vây TOÀ THÁNH để khủng bố Đức Hộ Pháp, Hội Thánh và bổn đạo. Cùng chiến sĩ trở về Đạo, Đại Tá Quảng mới dẫn binh ra khu vực, được Đức Hộ Pháp cho thăng Thiếu Tướng.
Đại diện Báo MỚI : theo chúng tôi nghĩ thì Văn Thành Cao mới phản Đức Hộ Pháp, chớ hai ông Phương, Tất vẫn trung thành và do đó ông Tất mới đem binh kéo vào khu ?
Thiếu Tướng Quảng : Chính chúng tôi mới vô khu chống lại mấy ông Diệm, Phương và Tất.
Sĩ Tải Nhung : Ông Diệm sai Phương và Tất về khủng bố Đức Hộ Pháp nên Đức Hộ Pháp phải xuất ngoại. Khi Đức Hộ Pháp đi rồi, ông Diệm thấy ván cờ lợi dụng Phương, Tất đã xong, nên sai Văn Thành Cao đem về TOÀ THÁNH rượt lại Phương và Tất. Vì vậy, mới có sự bất hoà giữa anh em Diệm, Nhu và hai ông Phương, Tất, và ông Tất mới đi Nam Vang.
(các ký giả nói với nhau : Như vậy là phản Đạo rồi).
Đại diện SÀIGÒN MAI : Thưa Quí Sĩ Tải, cho biết hiện giờ Thiếu Tướng Quảng có bao nhiêu binh sĩ ?
Sĩ Tải Nhung : Những cựu quân nhân CAO ĐÀI vì Đạo và các thanh niên CAO ĐÀI trung thành với Đức Hộ Pháp là lực lượng chiến sĩ Hoà Bình vô khí giới của Thiếu Tướng Quảng.
Đại diện TIẾNG DỘI : Còn ông Thiếu Tướng Lê Văn Tất vừa ở Nam Vang về có phải ở trong nhóm các ông không?
Đại diện LẼ SỐNG : Chúng tôi nghe nói hiện Thiếu Tướng Tất có 5000 binh và đang chuẩn bị cho cuộc lễ ở TOÀ THÁNH ?
Thiếu Tướng Quảng:Ông Tất không có người lính nào hết, nhóm binh sĩ còn ở Cam Bốt hiện giờ là của Mạnh Đờn.
Đại diện A.F.P: Cao Đài ở Nam Vang và Cao Đài ở Toà Thánh Tây Ninh có phải hai khối không ? Các ông có tuyệt giao với Toà Thánh không ?
Sĩ Tải Nhung : Không. Cao Đài ở Nam Vang và Toà Thánh Tây Ninh cũng như chúng tôi vẫn có một.
Đại diện B.B.C : Theo chúng tôi thấy, thì có sự chống đối giữa Quý ông với Hội Thánh Tây Ninh và giữa Quý ông với Ông Trần Quang Vinh, Lê Văn Tất?
Sĩ Tải Nhung : Việc ông Lê Văn Tất làm riêng, chúng tôi không biết, còn ông Trần Quang Vinh và Hội Thánh đối với chúng tôi không bao giờ có sự chống đối lẫn nhau.
Đại diện A.P và U.P.I : Mấy ông nói làm chúng tôi khó hiểu. Tại sao bữa nay có cuộc lễ lớn ở Hội Thánh Tây Ninh, có chánh quyền tham dự, có mời báo chí, rồi mấy ông ở đây cũng họp báo như vậy có chống đối rồi ?
Sĩ Tải Nhung: Trước khi chúng tôi xuống đây, chúng tôi và toàn Đạo chưa hay biết chuyện gì sẽ xảy ra sáng nay ở Tây Ninh.
Đại diện TIẾNG DÂN :...
---Chúng tôi xin nói thẳng là đối với Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chúng tôi rất tin tưởng. Chính lúc tiếng súng cách mạng còn nổ, hồi 10 giờ 30 sáng ngày 2-11-1963 chúng tôi đã đánh điện chào mừng Hội Đồng Cách Mạng do Trung Tướng Dương Văn Minh lãnh đạo
(có đọc bức điện văn cho các ký giả nghe).
Còn đối với ông Nguyễn Ngọc Thơ, Thủ Tướng Chánh phủ lâm thời, chúng tôi còn dè dặt vì ông Thơ là người thứ nhứt lên Toà Thánh Tây Ninh buộc ký Thoả ước Bính Thân (1956) mở đường cho Chánh phủ Ngô Đình Diệm xâm chiếm vùng Thánh Địa và bắt đầu cuộc đàn áp Cao Đài Giáo từ năm 1956 đến nay. Chúng tôi xin nhắc lại : Chúng tôi rất tin tưởng ở Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và chúng tôi còn dè dặt đối với ông Nguyễn Ngọc Thơ.
Đại diện NGÔN LUẬN : Quý ông có phải ở Nam Vang mới về không ?
Sĩ Tải Nhung : Không, chúng tôi ở trong nứơc hoạt động từ trước đến giờ, những người có mặt ở đây hiện giờ đã có ở tù một hoặc hai lần rồi
Đại diện SÀIGÒN MAI : Đường lối mới của Cao Đài như vậy thì đối với Chánh phủ hiện tại, Quý Sĩ Tải ủng hộ hay không ?
Sĩ Tải Nhung : Đường lối của Đức Hộ Pháp của chúng tôi có chủ đích là xây dựng quân bình cho hai Miền rồi mới tổ chức Tổng tuyển cử. Trong hiện tình, miền Bắc đang lấn áp miền Nam. thì lẽ tất nhiên chúng tôi có bổn phận phải giúp cho miền Nam được mạnh ngang miền Bắc, nhưng chúng tôi không chủ trương chiến tranh.
Trong lúc trọn miền Bắc được nằm yên để dưỡng sức và tiếp nhận thêm sự viện trợ của ngoại bang, còn miền Nam thì bị chiến tranh tàn phá khắp nơi, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận là phần đông các dân quê đều chất phác lại cảm tình với ông Hồ Chí Minh vì cho rằng ông ta đã có công kháng chiến. Do đó, nếu chúng ta cứ tiếp tục chấp nhận chiến tranh để giải quyết vấn đề thì chúng tôi cương quyết là miền Nam càng ngày càng mất lần thêm mà thôi, vì hễ dân quê càng khổ là họ càng làm lợi cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do miền Bắc điều khiển.
Đại diện SÀI GÒN MAI : Đường lối này đã có năm 1956, vậy Quý vị đã hoạt động phần nào chưa, nếu chưa thì Quý vị đã có sẳn chương trình hoạt động hay không ?
Sĩ Tải Nhung :chúng tôi đã âm thầm hoạt động từ năm 1956, và đã thành lập được các Ban vận động khắp nơi. Trong chế độ vừa qua, chúng tôi đã bị bắt cầm tù và tra khảo dã man, có thể nói đến gần 1000 người và bị bắt thiệt thọ có giam giữ với thời gian tù đày thì có lối 500 người.
Như trong TUYÊN NGÔN chúng tôi đã nói, trong số đó đã có 5 vị Chức Sắc phải bỏ mình trong khám. Như ông Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh có mặt tại nơi đây cũng vừa được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng giải thoát sau khi bị tra khảo và giam giữ trên một năm (các nhiếp ảnh viên thi nhau chụp hình ông Giáo Hữu) và hiện còn nhiều vị chưa được giải thoát như ông Sĩ Tải Nguyễn Thành Nguyên bị bắt lúc tháng 5 năm 1963 tại Tây Ninh và đem xuống Sài Gòn không biết giam ở đâu, ông Lễ sanh Ngọc Hẳng Thanh ở Phú Lợi, Chánh Trị Sự Nguyễn Thị Nhung ở Thủ Đức, Văn Hoà Vui và Trà Duy Ut ở Tây Ninh và vài vị khác như Lễ sanh Hạnh … (Đến đây các đại diện báo chí hỏi đi hỏi lại tên các vị đó để ghi cho rõ rồi hỏi tiếp qua câu khác).
Đại diện BÁO MỚI : Xin quý vị Sĩ Tải cho biết là trong thời gian qua, theo chúng tôi biết là Đức Hộ Pháp ở Nam Vang có tiếp xúc, liên lạc với miền Bắc và như vậy đường lối này có ảnh hưởng gì với Việt Cộng không ?
Sĩ Tải Nhung : Cam Bốt là nước Trung Lập. Ở trên đó tất cả các khối đều được tự do. Những người đến viếng thăm Đức Hộ Pháp của chúng tôi thuộc đủ mọi xu hướng, Pháp, Mỹ, Anh Trung lập hay Cộng sản. Ai đến Đức Hộ Pháp chúng tôi cũng phải tiếp tất cả, vì đó là bổn phận của một vị Giáo Chủ và lãnh đạo một đường lối dung hoà. Đất đó được Cộng sản tự do thì lẽ tất nhiên các Cán bộ Việt Cộng cũng có đến gặp Đức Hộ Pháp nhưng Đức Hộ Pháp của chúng tôi chỉ một mực đem Đường lối ra dẫn giải cho họ cũng như chúng tôi đã nói trong Tuyên Ngôn vừa đọc xong, chớ không phải là đường lối của chúng tôi có liên hệ với họ.
Đại diện báo TIẾNG DÂN : Thưa Quý Sĩ Tải, trong bản TUYÊN NGÔN có khoản mà chúng tôi chưa hiểu và có thể nói là không tưởng. Như Quý Sĩ Tải đã nói miền Bắc đang mạnh và họ đang cố gây chiến tranh ở miền Nam, vậy làm thế nào đặng quân bình Nam Bắc được ? Nếu không dùng chiến tranh để giải quyết và làm thế nào để giữ được sự bất khả xâm phạm giữa Bắc Nam trong khi Việt Cộng ngoan cố ?
Sĩ Tải Nhung : Điểm này chúng tôi rất mong quý vị hỏi để được trả lời. Mọi việc được giải quyết là do dân tâm.
Như chúng tôi đã nói là chúng ta phải thấy rõ rằng Việt Cộng dùng thuật chiến tranh tâm lý lôi kéo đồng bào nông thôn hướng về họ làm lợi cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nguỵ trang bằng phương pháp liên hiệp quốc gia. Dân quê đã chất phác mà nghe theo, các trí thức lại cũng có phần là hữu lý.
Trong lúc dân miền Nam chưa nhận thấy tận mắt các đau khổ ở miền Bắc mà lại bị chính vì chiến tranh ở miền Nam mà họ đã phải khổ đau. Và trong các cuộc hành binh, trong các phương pháp duy trì an ninh làm Chánh quyền không tránh được việc va chạm đến quyền lợi của dân chúng. Đó là đầu đề để Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam khai thác thắng lợi.
Vậy cho nên hoạt động của chúng tôi là tự hy sinh dấn mình trong lao khổ để giải thích cho toàn dân hiểu rõ bổn phận và nhiệm vụ của mình, phải biết đặt mình vào quyền lợi của quốc gia và dân tộc.Không thể để cho một quyền lực hay chủ nghĩa nào do ngoại quốc điều khiển mà gây thêm khổ nạn cho nhân dân. Mặt khác, nếu có thể thì kêu gọi với Chánh quyền xin sửa chữa những điểm thất nhơn tâm cho dân chúng được trọn hưởng hạnh phúc. Như vậy là dân sẽ hướng về Chánh Phủ mà làm sức mạnh cho miền Nam. Đó là điểm thứ nhứt.
Điểm thứ hai là chúng tôi kêu gọi cần phải có một Hội nghị Quốc tế về Việt Nam. Hội nghị đó không phải để quyết định sự thống nhứt Việt Nam liền mà phải có một văn kiện ấn định rõ rệt là bắt đầu từ ngày ký kết, Liên Hiệp Quốc không dung túng một sự phá rối nào của miền này qua miền khác. Khi có sự phá rối trong miền nào thì Liên Hiệp Quốc kể đó là hoạt động phá hoại và một lực lượng người Việt trung lập do Liên Hiệp Quốc thành lập với tư cách bộ đội cảnh bị Quốc tế để giải quyết vấn đề rắc rối Việt Nam hiện tại mà phải dùng giải pháp chánh trị thích ứng.
Đại diện BÁO MỚI :Xin quý Sĩ Tải cho biết là với phương tiện gì để hoạt động trong khi nội bộ Cao Đài còn đang bị chia rẽ ?
Sĩ Tải Nhung : trong Đạo chúng tôi không có chia rẽ. Chỉ vì trong thời gian qua, HỘI THÁNH chúng tôi bị chế độ cũ cưỡng chế mà đã có những sự thay đổi đi ngoài luật pháp chơn truyền. Vì vậy mà trong hàng nhơn sanh có sự phẩn uất xao động, song chúng tôi nói là Đạo của chúng tôi có luật pháp chơn truyền vững chắc thì mọi việc đều do luật pháp sửa định êm đẹp. Còn việc làm của chúng tôi thì do Đức Hộ Pháp đã giao cho chúng tôi, bởi lúc đó các vị Chức sắc cầm quyền Hội Thánh không dám làm, nên hiện nay việc làm của bên nào bên đó lo, chớ chẳng hề có chia rẽ.
Đại diện LẼ SỐNG :Quý Sĩ Tải đã nắm vững toàn Đạo chưa ? Theo chúng tôi nghe thì hình như trong Đạo Cao Đài đang chuẩn bị một cuộc cách mạng nội bộ và truất phế Ông Cao Hoài Sang, cử đặt vị Giáo Chủ khác.
Sĩ Tải Nhung :Đối với toàn thể Chức Sắc và tín đồ Cao Đài có đầy đủ tinh thần vì Đạo, thì Đường lối do Đức Hộ Pháp chủ trương luôn luôn được triệt để tuân hành. Trong thời gian qua, họ bị sự đàn áp quá mạnh phải ẩn nhẩn và phẩn uất âm thầm. Vì vậy mà trong Đạo mới có sự xôn xao đối với những Chức Sắc tuân lịnh chế độ vừa qua mà Quý vị cho là sẽ có một cuộc cách mạng nội bộ. Nhưng sự thật thì trong Đạo của chúng tôi không bao giờ có cách mạng hay truất phế như ngoài đời.
Mỗi phẩm vị Chức Sắc là Thiên Phong bất khả xâm phạm. Nếu có điều chi sai quấy thì có luật pháp sửa định trong nội bộ.
Đại diện NGÔN LUẬN : Xin Quí Sĩ Tải cho biết cuộc họp báo này quá sớm không ?
Sĩ Tải Nhung :Tôi không nghĩ vậy, tôi cho là đúng lúc.
Đại diện Báo MỚI :Việt Cộng họ có chịu để cho Quý vị hoạt động không ?
Sĩ Tải Nhung : Với sự hy sinh của chúng tôi, dầu đối với sự tàn bạo độc ác nào, chúng tôi cũng nhứt định len lỏi thi hành kết quả được, đó là vấn đề thời gian khi được Liên Hiệp Quốc giải quyết. Chúng tôi tin chắc rằng tất cả các chế độ độc tài và vô thần đều phải ngã quỵ trước sự kết hợp của toàn dân.
Đại diện Báo MỚI : Hiện giờ Quý vị ở đâu ?
Sĩ Tải Nhung : trong thời gian qua, chúng tôi trốn tránh mãi, hiện nay chúng tôi đã trở về Toà Thánh.
Sau khi cảm ơn các Đại Diện báo chí. Chủ Toạ tuyên bố bế mạc lúc 11 giờ 20.
*
LỄ THƯỢNG BẢNG HIỆU
CHÁNH SÁCH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG
Sau cuộc họp báo tại nhà hàng Soái Kình Lâm Chợ Lớn, vào ngày 14-10-Quí Mão (29-11-1963) Sĩ Tải Nhung cùng các đồng chí làm lễ công khai thượng bảng hiệu Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp tại tư gia ông Nhung gần cửa số 4 Toà Thánh.
Cuộc lễ cử hành nghiêm trang, đơn giản, có đa số đại diện các ban vận động thành tâm cầu nguyện trước Thiên Bàn Đức CHÍ TÔN, và mật niệm trước bàn thờ Tổ Quốc, cầu cho Quốc dân sớm thoát nạn chiến tranh cốt nhục tương tàn, và đồng tâm xây dựng lại đất nước theo giải pháp Hoà Bình của Đức Hộ Pháp.
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung có thơ trình lên Hội Thánh, thơ trình lên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ở Sài Gòn và ông Thiếu tá Tỉnh trưởng Tây Ninh.
Dưới đây là bức thơ của ông Nhung gởi cho Hội Thánh:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
TOÀ THÁNH TÂY NINH
CHÁNH SÁCH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG
Do Dân Phục Vụ Dân Lập Quyền Dân
Kính trình :
Hội Thánh Nhị Hữu Hình Đài và Phước Thiện
TOÀ THÁNH TÂY NINH
Kính Quý Đại Huynh : HIẾN PHÁP
TIẾP PHÁP
KHAI ĐẠO
BẢO THẾ
THÁI CHÁNH PHỐI SƯ Thái Bộ Thanh
NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ Ngọc Non Thanh
PHỐI SƯ Cố vấn Cửu Trùng Đài (Trần Quang Vinh)
CHƠN NHƠN Chưởng Quản Phước Thiện (Lê Văn Trung)
NỮ CHÁNH PHỐI SƯ Hương Hiếu Chưởng Quản Nữ Phái Cửu Trùng Đài .
ĐẠO NHƠN Chưởng Quản Nữ Phái Phước Thiện
Kính Hội Thánh,
Đã 7 năm qua, chúng Tiểu đệ đã phải đau đớn mà không có một trình bày nào rõ rệt với Hội Thánh về đường lối cứu khổ của Đức Hộ Pháp, mà vì hoàn cảnh của thời gian qua Hội Thánh không thể chấp nhận hoạt động.
Với bổn phận của những kẻ hy sinh từ thể xác lẫn tinh thần cho sự nghiệp của nhơn sanh để dâng hiến lên Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, chúng tiểu đệ đã tự nguyện xả thân vào vòng lao khổ đặng giúp Hội Thánh hoàn thành Thiên Mạng Phổ Độ Kỳ ba nên đã được Đức Hộ Pháp nãy giao cho nhiệm vụ cứu khốn phò nguy trong cơ loạn lạc đạo lý suy đồi.
Nay nhờ sự hùng anh của Hội Đồng Quân nhân Cách mạng ngày 1 tháng 11 năm 1963, dân tộc, các Tôn giáo thoát được tai ách độc tài tàn bạo, và đường lối cứu khổ của Đức Hộ Pháp bắt đầu hoạt động công khai đặng giúp miền Nam sớm thoát nạn chiến tranh cốt nhục tạo thành sức mạnh của toàn dân hầu quân bình với miền Bắc trước khi có Tổng tuyển cử Thống nhứt toàn lãnh thổ thể hiện Cương lĩnh của Đức Hộ Pháp.
Nhân ngày thượng bảng công khai cho Đường lối chúng Tiểu đệ kính gởi theo đây các tài liệu về hoạt động của chúng Tiểu đệ từ trước Hội Thánh tường lãm.Chúng Tiểu đệ trân trọng mời Quý Đại huynh Đại tỷ nhơn chút thì giờ vàng ngọc dời gót đến văn phòng của Đường lối đặt tại đường Quan Âm Các, cửa số 4, Châu Thành Thánh Địa, vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 14 tháng 10 năm Quý Mão (29-11-1963) để chúng Tiểu đệ được trình diện với Hội Thánh và trình bày Uỷ nhiệm thư của Đức Hộ Pháp đã ban cho từ năm 1956.
Châu ThànhThánh Địa,13 tháng 10 năm Quí Mão (28-11-1963)
Thay mặt Ban vận Động Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung
Do lịnh của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ, sáng ngày 30-11-1963 Thiếu tá Vũ Đức Nhuần, tỉnh trưởng Tây Ninh ra lịnh cho cảnh sát đến bao vây bắt Sĩ Tải Phạm Duy Nhung cùng 10 anh chị em khác và đưa xuống Tổng nha cảnh sát Sài Gòn.
Vì ngại sự phản ứng của khối tín đồ Cao Đài, làm chấn động ra Quốc tế mà bài học trước đây của Ngô Đình Diệm vấp phải là đụng đầu với khối Phật giáo Việt Nam, mang tiếng xấu với Quốc tế dùng cường quyền đàn áp Tôn giáo.Khi đến Tổng nha cảnh sát Sài gòn làm thủ tục xong đưa luôn qua bót Ngô Quyền ở Chợ Lớn.
Thời Ngô Đình Diệm, bót Ngô Quyền là bót dữ tợn nhứt trong nước, anh em nghe nói mình bị giam nơi đây là phải chịu cực hình tra tấn, có cả những trường hợp bị thủ tiêu, vì vậy vô đây là vào cửa tử. Anh em đến đây một tuần lễ còn đang điều tra từng người thì có tin anh Trí là Đức Dõng đến thăm, cho nên anh em rất ngạc nhiên, vì nơi đây cấm ngặt không cho thăm nuôi. Nhưng nguyên do người trưởng bót Ngô Quyền là anh Hiển bạn thân với Đức Dõng, hai người này bị giam ở khám Chí Hoà trước đây cho đến khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh mới được thả ra.Anh Đức Dõng đi tìm anh em, mới hay sau ngày đảo chánh anh em họp báo ở Soái Kình Lâm và công khai dựng bảng hiệu Hoà Bình ở ngoại ô Toà Thánh, rồi bị bắt đưa đi giam ở bót Ngô Quyền (Chợ Lớn). Khi ra khỏi khám Chí Hoà anh Hiển được bổ nhiệm làm trưởng bót này.
Dịp may hiếm có anh Đức Dõng đến bót Ngô Quyền để thăm anh em, được anh Hiển tiếp đón niềm nở.Anh Hiển được anh Đức Dõng giới thiệu với nhóm Hoà Bình này là đồng chí và gởi gấm nhờ anh Hiển giúp đỡ. Từ đó anh chị em được đối xử rất là dễ dãi, nhiều lần anh Hiển tự xuất tiền ra cho vợ anh đi chợ mua thực phẩm chay về nấu nướng thết đãi anh em rất nồng hậu.Anh Hiển và anh Mã Thanh Tâm (là phó) thường đến chuyện trò vui vẻ với anh em.Thừa cơ hội thân mật này, anh em có ý kiến với anh Hiển là nên đối xử dễ dãi và khoan dung đối với anh em tù chánh trị, dầu Tôn giáo hay Đảng phái nào cũng vậy để bớt mang tiếng ác, cũng như lúc trước anh Hiển có cho anh em biết hồi anh ra làm công an ông nhạc gia của anh có nhắc nhở anh như vầy : Mầy làm gì cũng ráng để phước đức lại cho con mày.
Trong số 12 anh chị em bị bắt sau ngày dựng bảng hiệu Hoà Bình có 5 vị Sĩ Tải :Nhung, Hưởng, Tú, Ngời, Giảm, anh Trương Văn Quảng, ông Giáo Sư Thượng Giải Thanh, Nguyễn Ngọc Tước, Nguyễn Ngọc Son.
Bên nữ phái có bà Chí Thiện Võ Thị Ngưu, bà Giáo Hữu Hương Hoa và cô Trần Thị Cất.
Còn Sĩ Tải Nguyên bị công an bắt ngày 13-4- Quý Mão (1963) trong khi đi xe đạp trên đường ngang qua nhà ông Giáo Sư Hoài đến nhà ông Hưởng và điều tra tại Tây Ninh. Một tháng sau đưa qua khám, gặp ông Tú, ông Nhơn, ông Nguyễn Hữu Được và Giáo Hữu Ngọc Diệp Thanh (sắp được trả tự do), rồi đưa đi trại Lê Văn Duyệt Sài Gòn một trại giam bí mật – giam các thành phần đặc biệt trong nứơc trên 300 người gồm các nhà sư Phật giáo, sinh viên, các nhà trí thức như Thanh Lan, Võ Ngọc Thành ở Sa Đéc.
Sau ngày đảo chánh ông Ngô Đình Diệm, ông Nguyên được đưa đi trại giam Tân Hiệp (Biên Hoà).
Năm 1964
Số anh chị em ở bót Ngô Quyền được 2 tháng thì đưa qua Đề lao Gia Định 1 tháng; với chế độ hà khắc ở đây anh em tuyệt thực phản đối và yêu cầu giải quyết nội vụ của anh em Hoà Bình.Cuộc tuyệt thực làm chấn động trong nhà tù, Bộ Nội vụ phải đến xoa dịu và hứa giải quyết thoả đáng, rồi đưa anh em an trí tại trung tâm Tân Hiệp Biên Hoà. Tại đây anh em gặp lại Sĩ Tải Nguyên, ông Lễ sanh Thượng Huyễn Thanh (Hứa Huyễn) bị bắt ở Đà Lạt, ông Lễ sanh Ngọc Lý Thanh và ông Văn Hoà Vui.
Đến đây anh em đựơc Ban quản đốc phân công tác:
- Ông Nhung được nghỉ dưỡng bệnh
- Ông Nguyên Trưởng ban hội hoạ
- Ông Ngời phụ ban Y tế
- Ông Giảm quản lý câu lạc bộ
- Ông Hưởng văn phòng
- Ông Giáo Sư Giải Phòng thăm nuôi
- Ông Son, ông Tước Trật tự
- ....
Trong số anh chị em bị bắt kỳ này có cô Luật Sự Nguyễn Thị Nhãn (bị bắt sau ), vì cô đứng tên trong bàn Tuyên Ngôn họp báo ở Soái Kình Lâm.Mấy tháng sau cô bệnh nặng, được trả tự do trước, một thời gian ngắn cô qua đời.
Khi ở Tân Hiệp được 6 tháng, phái đoàn Bộ Nội vụ đến trại giam yêu cầu anh em làm cam kết không hoạt động Hoà Bình nữa thì được trả tự do liền. Nhưng anh em đã trả lời dứt khoát. Phái đoàn đến trại giam Thủ Đức cũng yêu cầu như vậy. Chị em nữ phái bị giam riêng ở trại phụ nữ cũng cương quyết không làm cam kết.
Đại tá Trưởng phái đoàn Bộ Nội vụ có nói riêng với ông Giáo Sư Thượng Giải Thanh và Lễ sanh Ngọc Lý Thanh: hai ông già rồi ở tù khổ cực quá, sao hai ông không làm tờ cam kết để sớm được trả tự do cho khoẻ thân.
Hai ông trả lời với ông Đại tá là xác thân tôi khổ cực cũng không quan trọng vì mảnh thân này đã hiến làm tế vật của Đức CHÍ TÔN mong cầu Hoà Bình hạnh phúc cho toàn dân.
Quan trọng chăng là làm sao đất nước được Hoà Bình nhân dân hết thống khổ, cốt nhục hết tương tàn, đó là sở nguyện.Nay Đại tá biểu chúng tôi làm tờ cam kết không hoạt động Hoà Bình nữa sẽ trả tự do liền, chúng tôi thà chết trong khám chớ không thể làm cam kết.
Phái đoàn có Trung tá Đạt, hồi còn ở trong Quân Đội Cao Đài anh là Thiếu tá Phan Thiện Cảnh, ra Quốc gia là Trung tá Nguyễn Phát Đạt, khi anh về Toà Thánh đến thăm Ngài Hiến Pháp, thuật lại việc anh em Hoà Bình ở các trại giam không chịu làm tờ cam kết, Ngài Hiến Pháp có nói : Như vậy cũng anh hùng đó chớ.
Phái đoàn tuy không làm tròn nhiệm vụ của Bộ Nội vụ giao phó, nhưng họ cũng biểu lộ sự kính mến đối với anh em, còn các tù chính trị bị giam chung ở các trại họ cũng nói thẳng với anh em : Chúng tôi kính trọng anh em Hoà Bình Đạo Cao Đài.
Đến ngày lễ Quốc Khánh (1-11-1964) có lịnh của Bộ Nội vụ trả tự do cho anh em, chỉ còn lại ông Nhung, ông Quảng, ông Vui, ông Trà Duy Ut, anh em không chịu lên xe, đòi ở lại chờ về hết.Ban Quản đốc mời ông Nhung lên giải quyết cho anh em, ông Nhung biểu anh em cứ về lo công việc, chúng tôi sẽ về sau.Về Tổng Nha Cảnh Sát Sài Gòn, anh em gặp lại cô Ba Ngưu, cô Chín Cất từ trại Thủ Đức xuống, làm thủ tục cùng về Toà Thánh.
Một tuần sau, ông Nguyên và ông Hưởng đến Tân Hiệp thăm ông Nhung, ông Quảng với mấy anh em còn lại. Ông Nhung căn dặn khi về đến thăm cụ Phan Khắc Sửu ở đường Trương Minh Giảng.Đến tư gia cụ Phan Khắc Sửu được cụ tiếp chuyện thân mật, anh em tự giới thiệu là Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài Toà Thánh Tây Ninh dự họp báo với ông Phạm Duy Nhung vừa mới được trả tự do.
Thay mặt anh chị em mới được trả tự do, ông Nguyên, ông Hưởng đến thăm viếng và tỏ lòng tri ân cụ Phan Khắc Sửu đã can thiệp với Bộ Nội vụ trả tự do cho anh em Cao Đài, đồng thời trình qua một số anh em vẫn còn bị giam giữ. Và cụ Phan Khắc Sửu đã yêu cầu danh sách để cụ tiếp tục can thiệp với Bộ Nội vụ.
Kỳ sau ngày rằm tháng Chạp năm Ất Tỵ (1964) ông Ngời cùng với ông Giảm đến Tân Hiệp thăm ông Nhung và anh em, sau đó nghỉ ngơi qua đêm ở Thánh Thất Chợ Lớn.Sáng hôm sau hai ông mặc sắc phục Đạo gọi taxi đi Dinh Gia Long. Khi lên taxi tài xế biết 2 người này là Đạo Cao Đài và hỏi:Hai ông đi đâu ? Trả lời: đi Dinh Gia Long. tài xế tỏ vẻ ngạc nhiên và hỏi : Có phải 2 ông đi gặp Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu không ?
Trả lời : Phải .Trong câu chuyện trên, người tài xế mới biết chúng tôi là người Hoà Bình mở cuộc họp báo ở nhà hàng Soái Kình Lâm sau ngày đảo chánh ông Diệm và bị bắt.
Người tài xế nói tiếp : Tôi có đọc báo thấy việc tranh đấu của quí ông, giới nghèo chúng tôi hoan nghinh lắm. Khi đến Dinh Gia Long anh em trả tiền nhưng người tài xế cương quyết không lấy và nói rằng : Mấy ông tranh đấu cho đất nước, chúng tôi đưa một khúc đường có đáng gì đâu.
Khi đến Dinh Gia Long, hai ông Ngời và ông Giảm được cụ Phan Khắc Sửu tiếp chuyện và hứa can thiệp cho số anh em còn lại được trả tự do.
Ngày 22 tháng Chạp năm Giáp Thìn (24-1-1964) ông Nhung được trả tự do.Ngày 28 tháng Chạp ba ông Nhung, Nguyên và Hưởng đi Sài Gòn để trả lời cảm ơn Cụ Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu.Ông Nhung cũng gỡ bức ảnh Đức Hộ Pháp đang đeo trên ngực trao tặng cụ Quốc Trưởng.Cụ vui vẻ nhận và gởi lời thăm Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh.
Cụ Phan Khắc Sửu là một Chức Sắc cao cấp thuộc phái Cao Đài Thống Nhứt
Năm 1965
Đêm giao thừa năm Giáp Thìn bước qua năm Ất Tỵ (1965) Đức Hộ Pháp giáng dạy và cho một bài thi :
THI
Tân xuân hoà điệu với chung trà
Tâm Đạo nghiệp Đời hợp khúc ca.
Cứu khổ kỳ ba ra cứu thế
Khai khoa hội một vận thành khoa
Chương Đài đề án Xa thơ chuyển,
Chiến trận nghi binh xã tắc hoà
Thế giới về đây nương Diệu pháp
Cao Đài độ chúng hội Long Hoa.
Đêm mùng 2 tháng Giêng năm Ất Tỵ (3-2-1965) 9 giờ tối Đức Hộ Pháp giáng dạy như sau :
HỘ PHÁP
Mừng các em,
Bần Đạo không còn điều chi vui vẻ hơn. Các em đã làm nên Đại nghiệp, mà cả thế giới chưa hề có ai làm đặng.
Vinh diệu quá đổi tưởng cả Thiên Cung đều hoan hỉ mà chớ.
Quì xuống cả thảy:Bình thân.
Nhân danh Đại Từ Phụ Bần Đạo ban phép lành cho toàn thể. Bây giờ Bần Đạo không lấy tình riêng mà dạy nữa, Bần Đạo đã giao Chơn Pháp trong tay Nhung. Các em hiểu.
Vậy thể theo Thiên Lịnh Bần Đạo quyết định :
Điều thứ nhứt : Toàn thể thọ tùng Chơn Pháp thế Thiên cứu thế.
Điều thứ hai :Mỗi sở hành phải đặt trọn tâm chí vì Đạo cứu Đời không để tà quyền lấn áp, tùng Thiên Mạng Thiên Phẩm. Phạm Duy Nhung phải để trọn tâm đặng điều hành thay Đức Hộ Pháp trong cơ cứu khổ và cứu thế, những điều quyết định phải đầy đủ Chánh Pháp.
Điều thứ ba : Đặt toàn thể với cơ cứu khổ và cứu thế, nếu ai vi phạm sẽ chịu ngũ lôi tru diệt.
Ban Thống Nhứt lãnh thi hành Thiên Lịnh.
THIÊN LỊNH THỨ NHÌ
Vâng Thánh Chỉ Đức CHÍ TÔN
Điều thứ nhứt : Nay lập Ban cố vấn tối cao.
Trưởng ban: Hiến Pháp Trương Hữu Đức
Phó Ban: Bảo Thế Lê Thiện Phước
Cố vấn:
- Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh.
- Chơn Nhơn Đỗ Văn Viện
- Chơn Nhơn Lê Văn Trung
- Nữ Chánh Phối Sư Hương Lự
- Nữ Phối Sư Hương Nhiều
(Phần Nữ phái bấy nhiêu đã đủ).
Điều thứ nhì :Ban Thống Nhất gồm có :
- Sĩ Tải Nguyễn Thành Nguyên Trưởng ban
- Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng Phó ban
- Sĩ Tải Đỗ Hoàng Giảm Tuyên Huấn
- Sĩ Tải Nguyễn Văn Tú Tổ chức.
- Sĩ Tải Hưởng Kiêm Thanh Tra, Sĩ Tải Tú kiêm tài chánh. Phần liên lạc không có tên trong Ban.
-ChíThiệnVõThịNgưu:TrưởngbanmiềnNam (nữ phái)
- Giáo Hữu Hương Hoa Phó Ban Thống nhất( Nữ phái.)
-Giáo Sư Thượng Giải Thanh Phó Ban Thống nhất( Nam phái).
Giao cho Nữ Chí Thiện Ngưu nội 3 ngày phải lập xong ban miền Nam Nữ phái.
Lễ Sanh Ngọc Lý Thanh Trưởng ban miền Nam phải lập xong Ban trước 10 ngày, riêng các em Lê Văn Xã lãnh ngoại vụ phụ trách tổ chức ban Thống nhất.
Điều thứ ba : cơ cứu thế tùng lịnh Thiên mạng Phạm Duy Nhung, Thiếu Tướng Trương Văn Quảng, đặc uỷ phụ tráchThiên Mạng, Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời, phụ tá đặc uỷ Lê Văn Xã.
Điều thứ tư :Tuỳ sứ mạng mỗi vị có văn phòng và nhơn viên riêng cơ cứu thế tuỳ định.
Điều thứ năm : Tất cả tùng lịnh cứu thế nếu ai phạm sẽ bị ngũ lôi tiêu diệt.
Điều thứ sáu : Ban Thống nhất thi hành Thiên Lịnh. Thánh Lịnh lập xong các em tùng Thiên mạng mà hành sự. Riêng mình Bần Đạo cho hay là các em sắp hát tuồng mà cả Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đều túc trực ủng hộ mỗi em.
Để Nhung nghỉ, Bần Đạo kiếu.
Thăng
*
Chiều ngày mùng 10 tháng Giêng năm Ất Tỵ.
Thánh Ý Đức Thầy anh chị em các Ban bộ tề tựu đến nhà ông Thanh Phong đông đủ.
8 giờ 30 đêm 10-1-Ât Tỵ (11-2-1965)
Chỉnh Đàn.Tiếp Điển
THI
Nhẹ nhàng cảnh lạc một mình Thầy.
Khóc bấy nhiêu con chịu đoạ đày
Muốn cứu con thơ còn thiếu sức
Phàm gian khó đến cậy Thiên oai
Thiên oai con hỡi hãy vì Ta,
Giúp kẻ vô tâm lánh nẻo tà
Chớ thẳng tay cân e tội chúng,
Đỡ nâng từ đứa đẹp nên nhà.
Ban ơn các con. Thăng
HỘ PHÁP
Chào mấy con.
Vinh diệu cho cả thảy. Đại Từ Phụ đã giáng lời châu ngọc.
Các Ban bộ như vậy được rồi, cho Trần Kim Phụng làm Tổng thơ ký ban Châu Thành nữ phái.
Các em ráng lo tròn nhiệm vụ.
*
THIÊN LỊNH THỨ BA
Điều thứ nhứt :Lập ban miền Nam Nam phái
Điều thứ hai : Lập ban miền Nam Nữ phái
Điều thứ ba : Lập ban Châu Thành Nam và Nữ, còn các Ban liên tỉnh là lịnh của Ban Thống nhứt.
THIÊN LỊNH THỨ TƯ
Điều thứ nhứt :Giao cho Truyền trạng Võ Văn Nhơn lập thành Ban Vận Động cựu chiến sĩ, cựu Trung tá Lê Văn Thoại cố vấn.
Điều thứ hai : Truyền Trạng Võ Văn Nhơn lãnh phận sự ngoại vụ phụ trách tuyên huấn Thống nhứt, cựu Trung tá Thoại lãnh cố vấn phụ tá cứu thế.
Điều thứ ba :Đại Tá Nguyễn Kim Vinh tùng lịnh phụ tá, phụ trách cứu thế về quân bị, Trung tá Nguyễn Ngọc Sơn tuỳ viên quân bị, Trung Tá Vinh tuỳ viên văn phòng, Trung Tá Được tuỳ viên chiến thuật.
Điều thứ tư : Đại uý Vui cán bộ cứu thế tùng lịnh tổ chức ban Thống nhứt và tuỳ viên chiến thuật cứu thế.
Điều thứ năm : tất cả tùng lịnh nếu phạm ngũ lôi tru diệt.
Điều thứ sáu : Ban Thống nhứt thi hành Thiên lịnh. Tất cả có mặt nơi đây nhứt thiết tùng lịnh mà hành sự cho đắc lực, cơ cứu thế đến lúc thi hành sứ mạng, cơ cứu khổ đến lúc qui động toàn thể.
Bấy nhiêu để rồi tạm xuất ngoại chỉ các em Sĩ Tải hầu đàn. Nhơn ở lại.
Về các em công việc bề bộn lắm đó, sáng 12 Nhung cứ đi, Bần Đạo và anh cả hỗ trợ, thêm có Nguyên và Hưởng như trước.
Cứ thẳng thắn và cương quyết, chúng sẽ lấy làm lạ về các em.Chuyện bắt gió nắn hình đã ra thiệt tướng chỉ lúc này đủ cơ hội. Nhung cứ đòi hội kiến đủ như đã định chúng sẽ ngơ ngác, cả thảy bằng không e cho tiêu tan mà chớ.
Các em lãnh Thiên Mạng thì cả thế quyền chẳng còn làm chi nữa đặng.
Còn phần Hội Thánh các em chẳng có chi ngại, vui lắm các em.Nhung nếu khoẻ cũng nên phò thêm một đàn cho Bát Nương đến với nữ phái.
Bần Đạo kiếu. Thăng
*
TÁI CẦU BÁT NƯƠNG
Chị mừng các em Nam, Nữ.
Đã lâu chị ráng đến với các em Hiệp Thiên, nay hội ngộ đông đủ chị rất vui, mà nhờ các em nâng đỡ toàn phái nữ.
Các em ơi, cả thế gian đang lận đận vì nẻo chánh tà bất phân, lại thêm nỗi nơi cửa Đạo không người kềm giữ.Các em đã may duyên được thọ hồng ân mà nhận định được đường lối rõ ràng, bước kịp đúng vô thiên cơ, các em hẳn vui, nhưng chị cũng còn buồn đó chút.
Các em à, em ngã chị nâng, các em đã hiểu lòng ưu ái vô biên của Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, vậy mà trước mắt các em đã diễn nhiều đau thảm, vậy tay ai nâng đỡ đây ? Chị chỉ còn có các em vậy, các em khá giúp chị trong cơ giáo hoá nghe.
Bình thân.
Các em gái.
Phận nữ lưu ươn hèn quá đỗi
Hể lởi ra lắm nỗi ganh đua
Đêm ngày những tính hơn thua,
Nhớ đâu phận nữ giúp vùa cơ sanh
Ngặt lắm nỗi giọng hành tiếng tỏi
Quên lời hoà lầm lỗi tình thương
Giúp nhau nên phận nên trường
Giúp nhau từ ái mở đường ái nhân.
Này các em tính lần năm tháng
Đời qua rồi có đáng là bao
Đẹp xinh cho kẻ má Đào
Là nâng nhân ái ngọt ngào lời đưa
Nếu gặp kẻ thiếu trưa mất sớm
Các em ơn phải mớm cơm nhau
Giúp nhau chẳng biết nghèo giàu
Giúp nhau chỉ biết tình trao cửa hoà
Dầu có kẻ phôi pha bội bạc,
Phải ráng nâng giác đác đủ lời,
Em đau chị lẽ nào ngơ
Chị đau em giúp tạo đời tương thân
Nơi cử ái việc trần nay gánh
Các em ơi khá lánh lợi danh
Theo chân Ngự Mã đắc thành
Công tu muôn kiếp đã dành giờ đây
Các em nhớ lấy phận đầy
Chị mừng cho cả hưởng lây ân hồng.
Chị kiếu.
TỔ CHỨC BAN MIỀN NAM, NAM PHÁI VÀ NỮ PHÁI
Đức Thầy giao nội trong 3 ngày phải thành lập cho xong Ban Miền Nam Nữ phái, bà Trưởng ban Chí Thiện Võ Thị Ngưu thấy bên Nữ phái thiếu người, nên đề nghị cử mấy bà bạn đời của mấy vị Sĩ Tải, được Ban Thống nhứt chấp thuận.
BAN MIỀN NAM NAM PHÁI
Trưởng Ban: Lễ sanh Ngọc Lý Thanh
Phó Ban : Ngọc Của Thanh
Tổng Thư Ký : Nguyễn Ngọc Son
Uỷ viên tổ chức : Phan Châu Ninh
Uỷ viên tuyên huấn : Trần Tiết Hờn
Uỷ viên tài chánh : Lễ sanh Ngọc Hẳng Thanh
Uỷ viên tài chánh :Lâm Thế Thanh
Uỷ viên thanh tra kiểm soát : Trà Duy Ut
Uỷ viên liên lạc : Trần Văn Song.
BAN MIỀN NAM NỮ PHÁI
Trưởng Ban : Bà Chí Thiện Nguyễn Thị Ngưu
Phó Ban : Bà Giáo Sư Trần Hương Các
Phó Ban : Bà Lễ Sanh Trần Hương Dung
Tổng Thư Ký : Bà Bùi Thị Hừng
Uỷ viên tổ chức : Chánh Trị Sự Đỗ Thị Tư.
Uỷ viên tuyên huấn: Bà Huỳnh Thị Biếu, Bà Tạ Thị Dậu
Uỷ viên tài chánh : Bà Phạm Thị Nguy
Uỷ viên thanh tra: bà Thái Thị Sử, bà Lê Thị Phiền
Uỷ viên liên lạc : …
Thư ký : Cô Trần Thị Cất.
*
Sáng ngày 12 tháng Giêng năm Ât Tỵ (13-2-1965), vâng lịnh Đức Thầy, ông Nhựt Quang, Thanh Quang và Tôn Hưng đi Sài Gòn đến Dinh Gia Long yết kiến Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Nhựt Quang được cụ Sửu mời lên phòng khách đàm Đạo, còn Thanh Quang và Tôn Hưng đàm đạo với Dân biểu Bửu Đà,
Hơn 30 phút yết kiến với Quốc Trưởng ông Nhựt Quang trở xuống cùng Thanh Quang, Tôn Hưng về Chợ Lớn trọ phố lầu của ông Phong Quang và ông Nhựt Quang cho biết ông còn phải ở lại đàm luận thêm cùng Quốc Trưởng, nên buổi chiều Thanh Quang và Tôn Hưng trở về Toà Thánh
THẦY DẠY BAN HÀNH THIÊN LỊNH CHO BAN CỐ VẤN TỐI CAO
Ngày 19 tháng Giêng năm Aát Tỵ (20-2-1965), sáu vị Sĩ Tải mặc sắc phục Đạo Hiệp Thiên Đài đến biệt xá Ngài Hiến Pháp hành lễ Đức CHÍ TÔN cầu nguyện để dâng Thiên lịnh cho Ngài.
Sau ngày 20 tháng Giêng năm Ất Tỵ, 6 vị Sĩ Tải vào văn phòng Hiệp Thiên Đài hành lễ xong, dâng Thiên Lịnh cho Ngài Bảo Thế và lần lượt dâng Thiên Lịnh cho Quí Ngài, Quí bà nhơn viên cố vấn.
Hội Thánh liền triệu tập phiên họp bất thường tại Giáo Tông Đường lên án sáu vị Sĩ Tải truyền bá cơ bút bất hợp pháp. Nên ra sắc lịnh số 23/SL ngày 9-2-Ất Tỵ (1965) và Đạo Lịnh số 22/SL ngày 11-2-Ât Tỵ (1965) trục xuất sáu vị Sĩ Tải ra khỏi Đạo. Nhưng anh em Sĩ Tải không ký nhận Sắc Lịnh và Đạo Lịnh do Hội Thánh vì việc trục xuất bất hợp pháp.
*
Chiến cuộc Việt Nam đến hồi quyết liệt, Không lực Việt Mỹ gia tăng oanh tạc Bắc Việt, ông Nhung ra bản Tuyên cáo đem đến Sài Gòn trình bày với Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ tướng Phan Huy Quát, Phó Thủ Tướng kiêm kế hoạch Trần Văn Tuyên và Trung Tá Liễu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát toàn quốc. Cụ Quốc Trưởng hứa ủng hộ và sẽ cho đăng Tuyên cáo trên báo chí. Luật sư Trần Văn Tuyên (Phó Thủ Tướng) cho biết rằng Bản Tuyên Cáo không phạm chính trị và không phạm Hiến Pháp. Ông Nhung cũng đựơc khuyên nên họp báo và luật sư Trần Văn Tuyên vận động giấy phép giúp cho. Nhưng chờ mãi hơn một tháng sau giấy phép cũng không có và Bản Tuyên Cáo cũng không được đăng.
Đến ngày 15-3 Không lực Việt Mỹ oanh tạc dữ dội nhiều nơi nhứt là căn cứ Phủ Quỳ cách Hà Nội 100 cây số. Còn Việt Minh mở những trận đánh lớn ở miền Nam.
CUỘC HỌP BÁO Ở LỮ QUÁN MAJESTIC TẠI SÀI GÒN
(Ngày 17-3-1965)
Ông Nhung và anh em viết thơ mời đại diện báo chí trong và ngoài nước cùng các hãng thông tấn, họp tại Lữ Quán Majestic (Nhà hàng Hoàn Mỹ) Sài Gòn,( 15-2-Ât Tỵ)
Cuộc họp báo được đông đủ báo chí, các hãng thông tấn Việt Nam và ngoại quốc tham dự.Ông Nhung bị bắt, còn anh chị em mặc sắc phục Đạo, cùng các nhà báo, các hãng thông tấn bị giải tán ra về, nhưng bản tuyên cáo họp báo cũng đầy đủ các tài liệu về Hoà Bình được phân phát cho các đại diện báo chí và thông tấn xã.
Đây là nguyên văn Bản Tuyên Cáo.
Và cuộc phỏng vấn của báo chí và các hãng thông tấn xã.
Ông Nhung bị đưa về Tổng nha cảnh sát Sài Gòn giam chung với luật sư Trịnh Đình Thảo, luật sư Nguyễn Long, bà Ngô Bá Thành (tiến sĩ). Kỹ sư Cang, Kinh lý Nhơn, một số nhà trí thức yêu nước với nhóm bảo vệ Hoà Bình của bác sĩ Phạm Văn Quyến họp báo tại nhà hàng Thanh Thế bị bắt, nhóm này có ba người : bác sĩ Quyến, nhà báo Cao Minh Chiến, Thanh Thương Hoàng, ba người này bị tống xuất ra Bắc, máy bay chở ra thả dù xuống bên kia sông Bến Hải; Chánh Phủ Miền Nam làm việc này bị dư luận trong nước và thế giới cực lực phản đối.
Sau khi cuộc họp báo ở Majestic, Đài phát thanh Sài Gòn mỗi đầu giờ có tin tức cứ đọc đi đọc lại Sắc Lịnh Hội Thánh trục xuất 6 vị Sĩ Tải ra khỏi Đạo và không nhìn nhận cuộc họp báo về Hoà Bình của Đức Hộ Pháp là của Đạo Cao Đài và đăng tải các báo ở Sài Gòn.
Tờ Sống Mới số 177 ngày 22-3-1965
Tờ Thời Sự Miền Nam số 18 ngày 21-3-1965
Tờ Dân Chủ Mới số 365 ngày 25-3-1965
Tờ Tự Do số 2318 ngày 25-3-1965
Tờ Xây Dựng số 348 ngày 21-3-1965
Đáp lời phỏng vấn của báo chí về tụ họp báo ở Majestic quí anh lớn tuyên bố rằng Toà Thánh Tây Ninh đã trục xuất 6 vị Sĩ Tải ra khỏi Đạo vì có hành vi thân Cộng.
Báo Chính Luận số 295 ngày 20-3-1965
Báo Dân Quyền số 1104 ngày 20-3-1965
Đến giai đoạn các anh lớn cầm quyền Đạo hợp tác chặt chẽ với quyền Đời để triệt hạ chính sách Hoà Bình của Đức Hộ Pháp.
*
Sau cuộc họp báo ở Lữ Quán Majestic ngày Chúa nhật 19-2-Ất tỵ (21-31965) một số anh chị em tề tựu tại tư gia ông Giáo Hữu Thượng Dự Thanh để nghe tường trình cuộc họp báo.
20. Phan Châu Ninh
21. Hồng Minh Nhựt
22. Nguyễn Văn Hồng
23. Đỗ Thị Tư
24. Nguyễn Thị Điệp
25. Lễ Sanh Phạm Hương Phước
26. Phạm Kim Hên
27. Trần Thị Cất
28. Đỗ Thị Ba
29. Huỳnh Thị Nô
30. Chí Thiện Võ Thị Ngưu
31. Huỳnh Thị Biếu
32. Trần Hương Dung
33. Thái Thị Sử
34. Tạ Thị Dậu
35. Lê Thị Phiền
36. Bùi Thị Hừng
Trong lúc hội họp vừa xong thì ông Chánh Trị Sự Đầu Hương Đạo sở tại đến hỏi anh em tựu họp làm gì đây và không cho anh chị em ra về để ông đi báo cáo Đầu phận Đệ ngũ. Đầu phận Đệ ngũ báo cáo lên Khâm Thánh Thánh Địa. Khâm Thánh Thánh Địa báo cáo lên quí anh lớn, các anh lớn cầm quyền Đạo và các anh lớn báo cáo đến tỉnh trưởng Tây Ninh là Thiếu Tướng Lê Văn Tất. Tỉnh trưởng ra lịnh cho Quận Trưởng quận Phú Khương đến bắt anh chị em.
Vào lúc 4 giờ chiều xe công an quận Phú Khương đến bắt chở đi 30 người ra Tây Ninh. Bị giam ở Tây Ninh 4 tháng thì một số anh em được thả ra, còn lại 12 người phái nam đưa đi trại giam Chí Hoà (Sài Gòn) và 1 phái nữ bị đưa đi Thủ Đức.
Thời gian này 2 ông Nguyên và Ngời chưa bị bắt. Hai ông có gởi thơ : Đại Sứ Anh Quốc ở Sài Gòn; Chủ tịch Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát đình chiến tại Việt Nam; Đại Sứ Ấn Độ nhờ chuyển giao thơ cho Uỷ Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến và ông Tổng Thơ ký Liên Hiệp Quốc, ngày 19-4-1965. Thơ gởi Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hoà ở Sài Gòn và Ông Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ ngày 26-4-1965.
Sau khi gởi thơ này, 2 ông Nguyên và Ngời bị Tổng Nha Cảnh Sát Sài Gòn mời xuống trình diện.Hai ông chuẩn bị vào tù, ra đi đúng ngày lễ qui Thiên của Đức Hộ Pháp mùng 10 tháng 4, hai ông bị giam chung với ông Nhung và một số nhà trí thức tại câu lưu xá.
Đêm 14-4-Ất Tỵ ông Nhung chấp bút được cụ Phan Sào Nam (Bạch Vân Động) về trò chuyện và cho một bài trường thiên làm cho các nhà trí thức yêu nước bị giam chung thích thú, tin tưởng, nhất là ông luật sư Thảo và luật sư Long.
Ngày 20-5-1965 quân đội đảo chánh Thủ Tướng Phan Huy Quát bất thành, có một số Sĩ Quan bị bắt đưa vào Tổng nha.
Ngày 19-7-1965 xe Tổng nha cảnh sát Quốc gia đến đưa 3 ông Sĩ Tải Nhung, Nguyên, Ngời, một số trí thức, sĩ quan qua trại giam Tân Hiệp (Biên Hoà). Ở đây gặp lại ông Quảng còn làm hoả thực, ông Vui làm đại diện phòng G.
Ngày 24-8-1965, Tổng nha đưa 3 ông Nhung, Nguyên, Ngời về khám Chí Hoà. Ngày 16-8-1965 12 anh em ở Tây Ninh cũng đã đưa xuống khám này vào lúc 5 giờ chiều.
Ngày 30-10-1965 ông Nhung, Nguyên, Ngời đi dự thẩm giáp mặt ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên.
Ngày 13-10-Ât Tỵ nhằm ngày vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, 15 anh em cùng chung phòng ăn mặc chỉnh tề hiến lễ Đức Quyền Giáo Tông vào lúc 2 giờ tối. Đức Quyền Giáo Tông có giáng bút cho một bài thi :
Thượng tuần sẽ gặp đặng duyên Trời
Trung nghĩa rồi đây đuốc huệ khơi
Nhựt xuất Đông nam an phước địa
Mừng chung Qua đến dặn đôi lời.
Đêm 30-10-Ât Tỵ (22-11-1965) Bà Bát Nương giáng bút cho bài thi an ủi trong tù.
CHỊ MỪNG CÁC EM
Hớn hở đường mây gót rổi dong
Liên quan thế tục vẫn tinh thông
Bạch thanh giữ nét làm tâm đức
Vui với duyên Trời phỉ toại lòng.
TIẾP VĂN
Toại lòng sĩ mở đường cứu chữa
Chữa cảnh trần hết lửa tang thương
Cùng nhau dắt díu lên đường
Cùng nhau học hỏi hoà phương an nhàn
Chẳng mấy lúc cờ tam chiếu rạng
Giúp nhà Nam chói sáng cờ hoà
Giúp nhau bước khỏi can qua
Giúp nhau lánh khỏi san hà nát tan
Rồi sớm tối qua lần sấm chớp
Cả Bắc Nam lớp lớp đau thương
Còn mang mộng mị tơ vương
Cho hay sắp đến bước đường nguy nan
Rồi sẽ thấy tan hoang cây cỏ
Rồi sẽ xem khói toả trời chiều
Rồi ra chợ búa đìu hiu
Rồi ra tang tóc chích chiu lẻ bầy
Chỉ có kẻ biết thầy mến Đạo
Chỉ có người biết tạo nguyên căn
Chỉ xem được phép thiên văn
Chỉ tường sau trước mới răn được trần
Cậy tay ai lấy nhân làm nghĩa
Cậy đường mô trổ tía khoe hồng
Cậy tay những kẻ dày công
Cậy tay thọ khổ cứu dòng Lạc Long
Rồi sẽ thấy ân hồng thoả đáng
Rưới chan đầy lai láng phủ phê
Đừng vì khổ nhọc ê chề
Mà không luyện kỷ kình nghê tới ngày
Mau thoát khỏi căn đày lối đoạ
Mau rời nơi kềm toả tinh thần
Chẳng chi lo sợ lăng xăng
Chẳng chi qua khỏi quyền năng của Trời
Đây sẽ thấy ngày rời vui vẻ
Để mà đem lời lẽ trao tria
Mượn lời đặng tạo nền hoà
Dứt cơn khổ nạn sớm già ngày đông
Xuân điểm hồng muôn vàn hoa nở
Xuân tươi màu sặc sở lá cây
Chim ca ríu rít tung bay.
Một màu hoà ái mến tài Trời ban
Đợi chi hẳn vài mươi là đủ
Có đâu lâu ráng nhủ lòng tươi
Sau ngày tang tóc có người
Đứng ra cứu khổ cơ trời định phân
Dầu cảnh trần có bao nhiêu thảm
Cũng không lâu chỉ lắm đầu chân
Hết đông thì hết tuyết dần
Hết đông thì đặng rõ phần thiệt hư
Chị mừng thấy chơn như đã đủ
Chị mừng cho cảnh tú thanh nhan
Chị mừng hết cả đồng an
Chị vui có được một đàn em ngoan
Vậy an tâm qua lằn ác khí
Không chi đâu lấy trí mà đong
Không ai hơn được Lý Thông
Không ai nói được chuyện ông Thầy Trời
Chị mừng lắm các em ơi.
Cứ yên tâm.
Chị kiếu.
Sáng ngày 1-11-Ât Tỵ (25-11-1965) Luật sư Trịnh Đình Thảo đến khám Chí Hoà thăm anh em. Ông hứa khi ra toà cụ sẽ biện hộ cho ông Nhung. Thay mặt 15 anh em để lời cảm tạ ông chịu khó đến đây thăm anh em làm cho Ban giám thị và tù nhân khác rất chú ý. Khi ra về cụ hứa biện hộ cả 15 anh chị em miền Trung bị bắt giam ở Đà Lạt.
Ngày 4-11-Ất Tỵ (26-11-1965) ông Nhung bị bệnh đưa qua nhà thương Chợ quán điều trị.
Sáng mùng 3 tháng 11 năm Ât Tỵ (30-11-1965) 13 anh chị em đưa đi dự thẩm lãnh án lịnh miễn tố.
25-11-Ât Tỵ (17-12-1965) 12 anh chị em được trả tự do, còn ông Nguyên, Ngời và Nhung đang nằm nhà thương Chợ Quán.
Khi anh em từ Khám Chí Hoà ra tới đường Lê Văn Duyệt, biết là tù được trả tự do nên tài xế tắc xi hỏi : Mấy ông đi đâu ?
- Đi bến xe Tây Ninh
- Mấy ông có phải là người Đạo Cao Đài không ? Làm gì bị bắt ?
- Chúng tôi là người Đạo Cao Đài họp báo Hoà Bình tại Lữ quán Majestic bị bắt
- Người tài xế nói: như vậy là tốt lắm, chúng tôi đọc báo thấy thích lắm. Khi đến bến xe họ không lấy tiền nhưng anh em Hoà Bình cương quyết trả cho được và để lời cảm ơn sự thông cảm sâu sắc của anh em tài xế tắc xi.
Năm 1966
Ngày mùng 8 tháng Giêng Bính Ngọ (28-1-1966) ông Nhung từ bệnh viện Chợ Quán trở về khám Chí Hoà tặng cho anh em một bài khai bút tết năm Bính Ngọ.
THI
NGỤC TRUNG XUÂN CẤM
Bính Ngọ giao thừa pháo nổ vang
Nằm lao Chợ quán đón xuân sang
Trà thiu hương vị như mai cúc
Chiếu trách hình dung tợ phụng hoàng
Tiếng chúc phong vân hưng huyết nhục
Lời mừng vũ lộ dựng tâm cang
Tân niên cứ lập nền minh đức
Mới rõ Thiên oai cứu thế gian.
Phạm Duy Nhung
Thời gian nằm bệnh xá Chí Hoà, ông Nhung xuất thần viết bản Hội kiến Huyền Thiên.
Trung tâm cải Huấn Chí Hoà Sài Gòn, Ngày 16-7-Bính Ngọ (dl 30-8-1966) Tý Sửu thời.
HỘI KIẾN HUYỀN THIÊN
Nhìn thấy xa xa bóng Mẹ hiền
Vội vã sấp mình thân đãnh lễ
Lẹ làng nhẹ gót đến đằng liên
Dao Trì chói rạng hào quang Phật
Bát Bửu chói loà pháp diệu Tiên
Tiếng biểu định thần mà hội kiến
Nhìn lên Ngọc Bảng rõ Huyền Thiên.(Phật Mẫu)
2. Thiên Sứ quỳ dâng Tịnh Thuỷ Bình
Tay nâng mới biết pháp huyền linh
Trước đền Ngự Mã oai nghi trấn (Đức Hộ Pháp )
Bên điện Cửu Nương uyển dịu trình (Cửu vị Phật)
Văng vẳng âm thanh ban trí mẫn
Nhẹ nhàng dương tuyến biến Thần Minh
Nhìn ra bên chiếc Long Tu Phiến
Thượng Phẩm lời mừng tiếng đệ huynh
3. Huynh đã rời xa chốn bụi hồng
Biết chăng đệ vẫn bước gai chông? (N. Quang than)
Nhịp cầu trăm tuổi còn chưa thoát
Nợ thế bao thời mãi chẳng thông
Ngự Mã vội vàng lên tiếng hỏi
Thiên Thơ vững chắc há lời trông
Nghiệp trần phải trả xưa nay hẳn
Chỉ kiếp này thôi lịnh Hoá Công.
Sửa đường Đạo Thế trổ hoa xuân
Nhứt Nương êm ái lời khuyên chúc
Ngọc Nữ tưng bừng tiếng hát dâng
Xây đắp vốn là đường dục tấn
Sửa đường ấy cũng lối thường luân
Quan Âm nhẹ trỏ ngoài phong vũ
Cõi Bắc ào ào biểu định phân
Đã sẳn Lục Nương sức hiệp vầy
Xua đuổi kình ngư cho hổ rống
Dẹp đùa ác điểu biểu rồng bay
Lịnh truyền nhân nghĩa vang như sấm
Chỉ chiếu Hiếu Trung sáng tợ mây
Nhìn lại điện quang đà tỏ rõ
Dà Lam đem đến Sắc Ân thầy
Cửu Trùng tu chỉnh được nên giềng
Xa Thơ chuyển bánh xa tai ách
Đạo pháp an nơi sạch nẻo phiền
Trong sáng tâm thần như học bác
Thảnh thơi trí não sánh thâm nghiêm
Cẩm Đường chị tặng em cài áo (Nhị Nương)
Nồng nực hương thơm đáng Hiệp Thiên
Cớ sao lại đến kẻ lưng vơi? (Nhựt Quang thán)
Mỏi mòn thể xác khôn đương gánh
Lở dở Huyền Cơ chẳng phải chơi !
Nhìn cõi mông lung xem điển chớp
Ngó miền biển khổ thấy sao dời
Thân phàm gió bụi thuyền đưa khách
Phủ gấm bờ duyên mới phận Trời (Tam Nương).
Lại đỉnh Thiên Cơ chốn nghịch lèo
Liểu điểm Nhựt Quang thêm sáng ảnh (Ngũ Nương)
Ngọc hoà Thu tiết Khiết trong veo (Cửu Nương)
Bạch Liên chẳng mọc trong vườn thắm(Bát Nương)
Hồng phúc thường gieo tại cảnh nghèo
Chiếu diệu Linh Tâm mờ sắc tướng
Mở bầu pháp dược thế mừng reo
Thiên Hậu hiện ra trước Phật Đoàn (Phật Mẫu)
Đưa mật chiếu truyền hình Bắc Lãnh
Phất tay diêu độ ảnh Nam Bang
Nhập thần thọ pháp hồi chuông đổ
Khai trí hoàn thân tiếng khánh ngân
Phụ lo Phổ Hiền nâng bửu đảnh
Chuẩn Đề truyền chiếu bốn phương vang
(Chiếu Lịnh của Đức Phật Mẫu)
Cứu thế thông lưu khí ngũ hành
Phật Thánh đưa đường công hiệu tất
Thần Tiên đỡ bước nghiệp viên thành
Nhạc thiều huyền ảo cung khoan nhặc
Vũ khúc liên hoàn thế chậm lanh
Từ chiếc Kim Tiên muôn điển chớp
Trong tay nhìn quả Ấn Tam Thanh
Hội ban ân huyền bí cao sâu
Khá tìm hiểu phép nhiệm mầu
Quán Thông Đạo Thế rỡ làu phương châm
Lời Ngự Mã truyền tâm thêm nữa
Bước lần hồi khỏi cửa Huyền Thiên
Đạo đời trong buổi ngửa nghiêng
Phải kềm tay lái con thuyền mới an
Nơi cõi thế kiện toàn Thiên Mạng
Túc còi sương vẹt án mây mù
Mở đường phải có công phu
Phân thành thế biển vận trù Thiên năng
Nhìn chủng tộc khôn ngăn nét thảm
Cứu giống nòi hoá cảm Đông tây
Nghĩa nhân đất Thánh thơm lây
Từ Nam chí Bắc đấp xây mối giềng
Lằn vĩ tuyến giang biên nối lại
Đoàn Thánh quân chẳng nại gai chông
Thừa nguy mà cứu Lạc Hồng
Xa thơ vận chuyển Nam Phong phô bày
Đường thuyết phục ngoại lai chẳng khó
Làn vô thần, trở gió, mây trôi
Con Thầy thì phải gom hồi
Nhứt gia đoàn tụ đấp bồi non sông
Hươi kiến tri khai thông tường án
Mở lối thần cứu đám dân khờ
Hoà đàm thiên hạ ngẩn ngơ
Hết cơn đen đỏ Đồ thơ trang hoàng
Nơi Hiệp Thiên bảo toàn Thiên lý
Rồi Thời Quân cũng ý tâm đầu
Cửu trùng giúp pháp thông công
Chỉnh tu Hội Thánh ân hồng rưới chan
Màu danh lợi phủ tràn cửa thế
Hiểu cho tường liệu kế tiến hành
Minh Hiền và khối tinh anh
Tuỳ duyên trao phận, tuỳ ngành định chơn
Nhạc đạo đức tiếng đàn khoan nhạc
Dây âm dương réo rắc pháp linh
Chương đài cô luyện âm thinh
Qua nơi ẩn khúc, đăng trình vinh quang
Tiển chân thêm có Từ Hàng
Dặn riêng tỉ mỉ châu toàn huyền cơ.
NHỰT QUANG (1)
(1) Bài Huyền Cơ trên đây do Nhựt Quang chấp bút lúc còn bị câu lưu tại khám lớn Chí Hoà Sài Gòn. Sau phiên toà án Quân sự Bạch Đằng kêu án treo. Minh Hiền và Minh Triết đến khám Chí Hoà thăm, Nhựt Quang trao bài Huyền Cơ này về cho Ban Thống Nhứt làm phương châm thi hành Chính Sách Hoà Bình Chung Sống
Ngày 14-4-Bính Ngọ (1966) bà Thân Mẫu ông Nguyễn Minh Ngời qui vị tại Sài Gòn trong lúc ông Ngời còn ở tù, anh em bên ngoài lo bảo lãnh cho ông được tự do trong vài ngày để trở về thọ tang nhưng không được.
Đám tang được cử hành theo phép Đạo, có Ban Lễ, Nhạc, đồng nhi ở Thánh Thất Phú Nhuận đến hành lễ rất long trọng, bà con ở Sài Gòn đến xem rất đông đảo và khen tặng.một số anh chị em ở Toà Thánh cũng xuống dự lễ tang trong mấy ngày.
Lễ an táng tại nghĩa trang Phật Giáo Phú Lâm.
**
BA ÔNG HOÀ BÌNH NHUNG – NGUYÊN-NGỜI
RA TOÀ ÁN QUÂN SỰ BẠCH ĐẰNG (SG)
Sáng ngày 9-3-Bính Ngọ (29-4-1966) Thứ sáu, anh chị em từ Tây Ninh và Biên Hoà đến Toà án Bạch Đằng do cụ Trình Đình Thảo – Luật sư bảo lãnh dẫn vào toà án quân sự vì vào đây rất nghiêm ngặt (Khu quân sự), những người không trách nhiệm không được phép vào.
Anh chị em Đạo Cao Đài và thân nhân mặc sắc phục Đạo đến dự phiên toà trên 50 người. Luật sư Trịnh Đình Thảo và luật sư đoàn cùng báo chí đến dự hạn chế vì đây là toà án quân sự xử các vụ quan trọng, đặc biệt.
9 giờ 30 phút xe bít bùng đến khám Chí Hoà đưa 3 ông Hoà Bình đến toà. Ba ông Nhung, Nguyên, Ngời xuống xe với bộ Đạo phục Hiệp Thiên Đài vào toà án.Anh em đồng Đạo đứng lên chào hỏi trong vẻ mặt nghẹn ngào.Ba ông chào mừng tất cả với vẻ mặt bình thản vui tươi.
Hội Đồng thẩm phán có năm vị ngồi trên và ba ông Hoà Bình đứng trước vành móng ngựa.
Thiếu tá chánh án khởi đầu câu hỏi với ông Nhung trong bầu không khí căng thẳng: Ông hô hào sống chung, nhưng sống chung với ai ? Ông là người Tôn Giáo sống chung với cộng sản được không ?
Ông Nhung đáp: Đường lối Hoà Bình của Đạo Cao Đài có giải pháp hẳn hòi, chớ không nói suông. Hai miền Nam Bắc Việt Nam vì tiền đồ Tổ Quốc giống nòi xoá bỏ hận thù, thành kiến, ngồi lại thương thuyết với nhau, đi đến Hoà Bình rồi mới nói chuyện chung sống, khác hẳn với thuyết sống chung Hoà Bình. Sống chung trước rồi mới Hoà Bình sau là mâu thuẩn, không thể thành tựu được.
Chánh án : Chiến tranh này là chiến tranh tự vệ của chánh phủ và quốc dân trong khi cộng sản gây hấn phá hoại, ông đòi Hoà Bình thế nào chớ. Cộng Sản cứ buông khí giới đi tức nhiên chiến tranh sẽ ngưng.
Ông Nhung đáp : Chúng tôi không đòi Hoà Bình suông, mà chúng tôi có đưa ra một giải pháp để bình định miền Nam trước.
Ông Chánh án : Mặc dầu, nhưng ông đã lủng đoạn tinh thần chiến sĩ Quốc gia khi họ hăng say bảo vệ đất nước chốn cộng sản xâm lăng.
Ông Nhung đáp : Chúng tôi biết, lập chánh quyền dân sự với chánh quyền quân sự hai quyền này không được chi phối nhau, để chánh phủ được tôn trọng hoàn toàn và điều chỉnh quốc gia. Các Tướng lãnh các chiến sĩ có bổn phận ở tiền tuyến để làm tròn nhiệm vụ của mình
Chúng tôi chỉ yêu cầu được nói lên giải pháp của Đức Hộ Pháp để củng cố nhân tâm, mà khối tín đồ Cao Đài trên hai triệu người đã là hậu thuẩn cho chánh phủ.
Ông Chánh án : ông bảo miền Nam phải trung lập, trong khi miền Bắc có chánh thể vững chảy từ 20 năm nay, đồng thời nghiêng hẳn về phe vô sản, như thế miền Nam sẽ làm mồi cho cộng sản quốc tế thôn tính ?
Ông Nhung đáp : Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống chủ trương trong hiện tại. Chánh quyền đôi bên giữ nguyên vẹn nền tự trị của mình để sau đó thành lập Chánh phủ liên bang lâm thời thay mặt nước Việt Nam trước Liên Hiệp Quốc và điều hoà nền kinh tế tài chánh trong nước.
Vĩ tuyến 17 chỉ còn một ranh giới hành chánh, việc lưu thông toàn quốc được tự do, trong khi chánh quyền hai miền phải thi đua nhân nghĩa, khi dân tộc đã trưởng thành trong tự do dân chủ và khối dân tộc đã thống nhứt.
Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức để bầu cử Quốc Hội duy nhứt do Liên Hiệp Quốc giám sát, nước Việt Nam sẽ có thể chế thiệt thọ một chánh phủ duy nhứt trung lập và tự do. Như vậy chúng tôi chủ trương một nước Việt Nam trung lập khi nào chúng ta được thống nhứt và độc lập.
Ông Chánh án hỏi tiếp về cuộc họp báo không giấy phép :
- Ông Nhung đáp : Chúng tôi có đến Dinh Gia Long yết kiến Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu trước sự hiện diện của Trung tá bên Tổng nha cảnh sát. Chúng tôi có trình bày đường lối của Đức Hộ Pháp. được sự chấp thuận trên nguyên tắc của Quốc Trưởng cũng là người đồng Đạo với chúng tôi. Sau đó tôi có phái ông Sĩ Tải Ngời hiện diện trong phiên toà này đến gặp ông Trần Văn Tuyên (Phó Thủ Tướng) tại tư dinh để giải thích đường lối Hoà Bình Chung Sống. Ông Tuyên ngỏ lời mời tôi bàn kế hoạch họp báo. Gặp tôi, ông bảo để phần ông lo về phía chánh quyền và mời ký giả ngoại quốc, phần tôi mời báo chí trong nước.Tất cả phiên họp đừng quá 20 người và cứ việc họp báo vào ngày giờ nào cũng được.Tin cậy thiện ý của ông, chúng tôi tiến hành cuộc họp báo.
Không ngờ khi phải đối chấp trước toà dự thẩm ông vắng mặt hai lần và khai rằng ông tin tưởng đường lối của Đức Hộ Pháp là cao cả nhưng không nhận rằng có sự đồng ý với chúng tôi trong cuộc họp báo.
Thiếu Uý uỷ viên chánh phủ nói : Tôi nhìn nhận lòng ái quốc cao cả của Đức Hộ Pháp khi Đức Ngài đưa ra chủ trương hoà giải Nam Bắc. Nhưng ông kêu gọi ngưng bắn toàn diện trong khi âm mưu đen tối của cộng sản làm cho quốc gia không thể tin được, thì lời kêu gọi đó ngược lại giúp cho cộng sản vừa đánh phá miền Nam vừa tuyên truyền sách động quần chúng ?
- Ông Nhung đáp : Chúng tôi lấy chánh quyền miền Nam làm căn bản pháp lý thì trước khi tiến tới ngưng bắn toàn diện, miền Nam phải được bình định, chánh phủ phải vững mạnh, đủ nhân đạo đủ tinh thần cách mạng phục vụ dân và thu phục lòng dân.
- Ông Thiếu Uý uỷ viên chánh phủ nói : Trong lúc chánh phủ còn đương đầu với bọn du kích, phá hoại cộng sản còn bận rộn về các cuộc biểu tình chống đối bị can họp báo bất hợp pháp để nêu ra lý thuyết Chung Sống Hoà Bình Trung Lập gây hoang mang cho dư luận đại chúng đồng thời làm rối thêm cho chánh phủ.
- Ông Nhung đáp : Kính thưa ông Uỷ viên chánh phủ, chúng tôi kêu lên tiếng than về sự rời rạc trong nội bộ miền Nam, làm rạn nứt khối Quốc gia và suy yếu chánh phủ. Do đó chúng tôi kêu gọi tình thương chơn thật và thống nhứt toàn thể giúp chánh phủ giải quyết mọi bế tắc.Trong tuyên cáo của chúng tôi, chúng tôi không chấp nhận mọi cuộc biểu tình gây rối cho chánh phủ
- Ông Uỷ viên chánh phủ nói : Trong bức thư gởi ngoại quốc ông đề cao vai trò lãnh đạo kháng chiến Hồ Chí Minh với một chánh quyền vững mạnh đồng thời cộng sản Bắc Việt lủng đoạn cả giới công nông miền Nam, có đúng vậy không ?
- Ông Nhung đáp : Tôi muốn so sánh hai chánh thể Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh. Dầu cộng sản mỵ dân và bưng bít thế mấy đi nữa, họ nắm nhân tâm, nhờ vậy chánh quyền họ mạnh. Hơn nữa, với công kháng chiến chống Pháp giành độc lập, ông Hồ Chí Minh hẳn có uy thế đối cùng với công nông miền Nam. Trong lúc chánh phủ Ngô Đình Diệm có những hành động thất nhơn tâm, gây chia rẽ Đảng phái, Tôn Giáo, đàn áp đối lập, bóc lột dân chúng trắng trợn là nhận xét xác đáng không phiến diện.
Đó là một nhận xét khách quan để tìm lối thoát cho chánh phủ miền Nam, khi kiểm điểm được ưu và nhược thế, tôi không có ý đề cao ông Hồ Chí Minh.
- Ông Uỷ viên chánh phủ đáp: Ông kêu gọi thương yêu và thống nhứt để giải quyết vấn đề Việt Nam. Liệu cộng sản ông lấy tình thương lay chuyển họ được không ?
- Ông Nhung đáp : Không phải những người theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đều là cộng sản. Cũng không phải toàn dân Bắc Việt là cộng sản, chúng tôi kêu gọi sự thống nhứt toàn thể trong tình thương thật sự để cứu quốc và kiến quốc.
Những mưu đồ khác ngoài ý muốn và chủ trương của Đức Hộ Pháp lưu lại sẽ không tồn tại
Cuộc thẩm vấn ông Nhung đến đây kết thúc.
Ông Chánh án gọi lần lượt 2 ông Sĩ Tải Nguyễn Thanh Nguyên và Nguyễn Minh Ngời, đại để ông chánh án thẩm hỏi chức vụ của 2 ông và ý kiến về bản Tuyên cáo của ông Nhung.
Cả hai trả lời : Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ông Nhung về bản Tuyên cáo.
- Ông Chánh án hỏi : Các ông hoạt động chánh trị từ hồi nào ?
- Đáp : Thưa ông Chánh án, chúng tôi hoạt động từ năm 1956 là năm Đức Hộ Pháp xuất ngoại lên Nam Vang đề xướng Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống trong một Cương Lĩnh ngày 26-3-1956 gởi chung với nhiều thơ cho chánh phủ hai miền NAM BẮC và LIÊN HIỆP QUỐC, các cường quốc Tây Phương.Chúng tôi nghĩ rằng việc làm của Đức Hộ Pháp công khai minh bạch từ trong và ngoài nước nên không ngần ngại phổ biến đường lối cứu thế ấy.
- Ông Chánh án hỏi : Công việc phổ biến ấy đi đến đâu ? Có được sâu rộng không ?
- Đáp : Chúng tôi phổ biến Đường lối trong Đạo lẫn ngoài Đời, nhứt là trong Đạo chúng tôi. Chúng tôi hy vọng nó sẽ lan tràn sâu rộng cả Quốc dân thì càng hay.
Cụ Luật sư Trịnh Đình Thảo biện hộ cho 3 bị can nêu lên trên pháp lý hành động của ba ông gọi “ phá rối trị an “.
“Một hành động phạm pháp là khi nào nó được thi hành. Đàng này các ông Sĩ Tải vừa mở cuộc họp báo thì bị cảnh sát đến ngăn, như vậy hành động chưa thành hình, thế nào làm tội người ta được. Tuy nhiên ba ông đã bị giam cầm 1 năm rồi. Bây giờ lại lên án nữa sao ?
Gần đây, người ta biểu tình hành hung cảnh sát, đả thương cả người Mỹ, gây thiệt hại vật chất, mà có ai bị lôi ra toà không ? Người ta hoan hô cả Hồ Chí Minh nữa kia !
Nói phá rối trị an thì các ông Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch đã bị nhà cầm quyền Pháp lên án rồi. Nhưng khi họ qua đời thì tên họ được đặt cho mấy con đường ở Sài Gòn. Biết đâu các ông này (chỉ 3 bị can) sẽ là ân nhân của Quốc dân ?
Về đường lối Hoà Bình Chung Sống, tôi xin đọc bức thơ Xuân của Đức Hộ Pháp gởi cho Quốc dân năm 1955.
Cụ Luật sư nhắc lại lời Gallile khi biết mình chịu oan ức trước Toà Công Giáo ngửa mặt lên trời than : nhưng trái đất vẫn quay kia mà ! ” và kết luận xin toà tha bổng các thân chủ của ông
Sau khi năm ông chánh án và phụ thẩm vào phòng kín nghị án 15 phút, trở ra đứng lên bàn móng ngựa giữa toà có lính quân cảnh cầm súng giàn chào.
Toà tuyên án
- Sĩ Tải Phạm Duy Nhung 8 tháng tù treo
- Sĩ Tải Nguyễn Thanh Nguyên 6 tháng tù treo
- Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời 6 tháng tù treo
Phiên toà bế mạc đúng 12 giờ trưa.
Sau phiên toà anh chị em đến nhà Luật sư Trịnh Đình Thảo để ủng hộ chi phí biện hộ. Cụ Trịnh Đình Thảo nói : Anh em vâng lịnh Đức Hộ Pháp làm Hoà Bình bị tù tội nhiều lần, còn tôi làm cố vấn pháp luật cũng do Đức Hộ Pháp giao phó, đó là bổn phận, anh em đừng ngần ngại, có việc gì cứ đến cho tôi hay.
*
THẦN MỘNG ỨNG THI
Hồi 2 giờ sáng ngày 14/02/Tân Mão (9-01-52)
Cho Luật Sự Phạm Duy Nhung
Cảnh khuya tiếng nhạn khóc sương rơi
Thấu đến Huyền Khung vội dẫn lời
Đạo Đức chiến bào tâm định thế
Kinh luân tịnh thuỷ trí an đời
Vinh hư lý nhiệm quang khai rạng
Huyền ẩn pháp linh huệ chiếu ngời
Khuyến trẻ dập tàn cơn lửa khổ
Vãng lai Bồng Đảo có đâu nơi.
***
PHIÊN TOÀ QUÂN SỰ NHA TRANG
XỬ ÁN HOÀ BÌNH
(20-4-1966)
TOÀ ÁN QUÂN SỰ
(Điều 47 Bộ Quân Luật)
Chúng tôi Thiếu tá Trần Văn Thục, Dự Thẩm Quân Sự Toà án Quân Sự Nha Trang.
Chiếu thủ tục thẩm cứu các bị can :
1. Trần Quang Hiển, sinh năm 1901 tại Điện Sơn, Hoà Vang, Quảng Nam, con của Trần Đạm và Nguyễn Thị Nhự, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang số đính bài 18.347/CTP.
2. Võ Trọng Hồng, sinh năm 1930 tại Phan Rang, Thanh Hải, Ninh Thuận con của Võ Trọng Thể và Nguyễn Thị Phương, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.348/CTP
3. Hứa Huyển, sinh năm 1906 tại An Phước, Hoà Vang, Quảng Nam con của Hứa Chi và Nguyễn Thị Da, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 349/TCP
4. Phạm Lực, sinh năm 1917 tại Phú Mỹ, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, con của Phạm Sức và Trương Thị Hoà, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.350/CTP
5. Nguyễn Diên, sinh năm 1900 tại Văn Giang, Phú Vang, Thừa Thiên, con của Nguyễn Liên và Nguyễn Thị Giá, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.351/CTP
6. Đỗ Xuân Cư, sinh năm 1925 tại Đà Lạt, con của Đỗ Xuân Xên và Võ Thị Thâm, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.352/CTP
7. Lê Thành Dương, sinh năm 1917 tại Cát Hiệp, Phù Cát, Bình Định, con của Lê Huấn và Trần Thị Sửu, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.353/CTP
8. Nguyễn Hữu Phước, sinh năm 1918 tại Vọng Thạnh, Vĩnh Xương Khánh Hoà, con của Nguyễn Phao và Dương Thị Thứ, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.354/CTP
9. Nguyễn Thuận, sinh năm 1913 tại An Trạch, Hoà Vang, Quảng Nam con của Nguyễn Nhan(c) và Nguyễn Thị Nha (c ), hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.355/CTP
10. Lê Hữu Đức, sinh năm 1932 tại Cát Hiệp, Phù Cát, Bình Định con của Lê Huấn và Trần Thị Sửu hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.356/CTP
11. Trần Phan, sinh năm 1915 tại Cát Hiệp, Phù Cát, Bình Định, con của Trần Hoan (c ) và Lê Thị Chút (c ), hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.357/CTP
12. Hứa Tỵ, sinh năm 1908 tại Bồ Bảng, Hoà Vang, Quảng Nam con của Hứa Chi và Nguyễn Thị Da, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.358/CTP
13. Lê Sỹ, sinh năm 1909 tại Tham Hội, Bình Sơn, Quảng Ngãi con của Lê Trang và Trịnh Thị Phương, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.359/CTP
Phiên toà này cũng do luật sư Trịnh Đình Thảo biện hộ Toà tuyên bố trắng án và trả tự do cho anh chị em hoà bình.
Sau hai lần biện hộ cho Hoà Bình ở toà án quân sự Bạch Đằng và toà án quân sự ở Nha Trang, một người bạn trí thức đến hỏi luật sư Trịnh Đình Thảo.
- Anh có biết mấy người Đạo Cao Đài Hoà Bình đó không
- Cụ Thảo đáp : Biết rõ chứ, tôi có bị giam chung với họ mà. Lại nữa, các văn kiện Hoà Bình từ Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đến mấy ông sau này đều có nghiên cứu.
- Đạo Cao Đài không nhìn nhận mấy người Hoà Bình được anh biện hộ (ý nói 6 Sĩ Tải bị Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh trục xuất ra khỏi Đạo).
- Cụ Thảo đáp : Tôi không phải là người Đạo Cao Đài nên không cần biết chi về việc của họ. Tôi chỉ biết họ tranh đấu không có lợi lộc, không có quyền thế, không dựa vào ai, chỉ tranh đấu cho lẽ phải và công lý với tinh thần trung lập thật sự. Tôi đồng ý với họ, chớ còn nói tranh đấu cho đất nước, cho dân tộc mà chạy theo ngoại quốc, là bán nước, là phản bội dân tộc.
Hồi trước tôi cũng binh vực cho hai ông Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu. Có lần hai ông tuyệt thực đến ngày thứ 9 tại khám lớn Sài Gòn, tôi đến gặp Thống Đốc Nam Kỳ Pages và qui trách nhiệm cho ông này về sanh mạng của ông Ninh và ông Thâu.
*
Thời Tý ngày 17-6-Bính Ngọ tại khám Chí Hoà, ông Nhung xuất Thần chấp bút bài Hội Kiến Huyền Thiên, thập thủ liên huờn (10 bài thơ bát cú), 10 bài song thất lục bát của Đức Hộ Pháp.
*
LỄ QUỐC KHÁNH (1-11-1966) (19-9-Bính Ngọ)
Ba ông Nhung, Nguyên, Ngời được trả tự do, mặc sắc phục Đạo ra về làm cho tất cả anh em tù rất ngạc nhiên và kính nể. Các ông giám thị ở đây cũng tỏ vẻ cảm mến.
Ra tù lần này là lần thứ ba, 19 tháng 16 ngày, anh chị em ban bộ tổ chức bữa tiệc mừng rất long trọng.
Ngày 15-10-Bính Ngọ, anh chị em tổ chức cúng vía và kỷ niệm Đệ ngũ chu niên ngày lập nguyện tại Phụng Kỳ 1961, phát động phong trào Hoà Bình giai đoạn thứ nhì, hoạt động ra Quốc tế.
Đến ngày 30-11-1966 báo Thần Chung có bài xã luận ở trang nhứt, trích lục nguyên văn như dưới đây:
GIẢI TOẢ HOÀ BÌNH
Thần Chung đã nhắc tới những bản án Hoà Bình cần phải xét lại, nhưng chúng tôi cho rằng chánh quyền đã nghĩ đến chuyện đi trước chúng tôi nên Sĩ Tải Phạm Duy Nhung mới ra kịp ngày Quốc Khánh sau khi đã trải qua bao nhiêu thủ tục giấy tờ.
Thần Chung chỉ làm nhiệm vụ của một tờ báo đi theo hướng tiến của dư luận của đồng bào của lịch sử.
Trong khi dư luận trong nước và thế giới đều cổ võ cho Hoà Bình và đều tha thiết mong mỏi và vận động cho Hoà Bình sớm trở lại ở Việt Nam. Thần Chung thấy có bổn phận phải nhắc nhở tới những người đã mang lại vì hai chữ Hoà Bình, những tội phạm “Hoà Bình” mà trước đây người ta cho rằng cũng nguy hiểm như tội phạm chiến tranh.
Sĩ Tải đã bị câu lưu, đã xét xử dã man án từ lâu nhưng chưa được về nhà là vì còn phải ở thêm theo biện pháp hành chánh chiếu theo vụ số 6 của Ngô Tổng Thống hiện còn hiệu lực, do đó mà nhiều người đã bị câu lưu mà không được Toà án xét xử.
Ký giả Nam Đình
Trong hai cuộc họp báo ở Sài Gòn, thời đó có mấy chục tờ báo, nhựt báo và tuần báo đều có bài tường thuật tỏ vẻ hài lòng về cuộc vận động Hoà Bình của ông Nhung với nhóm người Đạo Cao Đài đúng lúc cuộc chiến tranh leo thang. Ký giả Nam Đình chủ nhiệm báo Thần Chung viết nhiều loạt bài ca ngợi. Luật sư Nguyễn Long sáng chế ra danh từ “Hoà phạm” mà từ trước tới giờ chỉ có danh từ chiến phạm mà thôi. Nhà văn Thiếu Sơn viết bài bênh vực trong báo Liên Á báo Đất Tổ, báo Dân Chủ Mới, báo Đuốc Nhà Nam, báo Chính Luận, báo Sống v.v…
Báo Hoà Bình của Linh Mục Trần Du đăng liên tiếp tài liệu Hoà Bình của Đức Hộ Pháp và của Sĩ Tải Phạm Duy Nhung.
NHÓM HỌP HOÀ BÌNH
Ngày 20-10-Bính Ngọ (31-11-1966)
Ban Châu Thành Thánh Địa Nam phái họp tại nhà ông Lễ sanh Ngọc An Thanh là Trưởng ban bị ông Chánh sự Lời (Tám Lời) đến Hương Đạo sở tại thuộc phạm vi gần văn phòng Khâm Thành Thánh Địa báo cáo Công an Tây Ninh đến bắt 15 người.
Việc báo cáo Hoà Bình là lịnh của các anh lớn xuống Bàn Trị Sự địa phương, nhưng cũng có nhiều Bàn Trị Sự địa phương không có báo cáo vì cho rằng làm Hoà Bình của Đức Hộ Pháp thì đâu có gì mà báo cáo.
*
BUỔI LỄ TIẾP TÂN TẠI THÁNH THẤT PHỤNG KỲ
(Tân Vạn Biên Hoà)
Khai mạc buổi tiệc vào lúc 10 giờ ngày Chúa nhật 23-10-Bính Ngọ (4-12-1966).
Hiện diện có ông bà Luật sư Trịnh Đình Thảo, bà Bác sĩ Phạm Văn Huyến, bà Luật sư Long, bà Ký giả Chiếm, ông bà Kỹ sư Cang, ông bà kỹ nghệ gia Cảnh, ông Thanh Nghị, ông Thiếu Sơn, ông Minh Tải, ông Đặng Văn Ký v.v…
Thành phần bên Đạo có quí Ngài Đạo Nhơn Phú, Giáo Hữu Dự, Truyền Trạng Nhơn, Sĩ Tải Nhung, Sĩ Tải Nguyên, Sĩ Tải Hưởng, Sĩ Tải Ngời, Sĩ Tải Tú, Sĩ Tải Giảm, ông Quản, ông Ninh, ông Tâm Thành … Cùng quí bà Chí Thiện Ngưu, bà Nhung, bà Quản, bà Nguyên, bà Hưởng, bà Ngời, bà Phụng, bà Mùa trong ban miền Nam và Châu Thành Thánh Địa, bà Đỗ Thị Tư, cô Trần Thị Cất trong ban nấu chay và tiếp khách, anh chị em Ban Trị Sự cùng ban bộ sở tại.
Cuộc tiếp đãi nồng hậu và vui vẻ.Món ăn chay nấu lạ miệng làm cho quí quan khách thưởng thức không ngớt lời khen tặng. Cuộc đàm đạo trong bữa tiệc cũng rất thân mật với nhiều hứa hẹn ngày tái ngộ. Hai giới Hoà Bình cùng chung một lý tưởng phụng sự cho đất nước giống nòi, sớm chấm dứt chiến tranh, hướng đến Hoà Bình thống nhứt Tổ quốc.
Sau bữa tiệc ông Nhung đứng lên tỏ lòng tri ân ông bà Luật sư Trịnh Đình Thảo đã dày công giúp đỡ anh em Hoà Bình trong các phiên toà quân sự Sài Gòn và Nha Trang với lời lẽ biện hộ đanh thép làm cho anh em Hoà Bình vô cùng cảm động.Ân cao trọng ấy anh em Hoà Bình càng ghi sâu mãi mãi. Chúng tôi cầu chúc Quí Ngài và Quí bạn được an khang quí thể, hầu phụng sự Tổ quốc giống nòi đến ngày thành đạt.
Cụ Thảo đứng lên thay mặt Quí ông bà để lời cám ơn chung toàn thể với bữa tiệc rất long trọng ngoài sự tưởng nghĩ của cụ. Cụ đã để lời chúc lành cho anh chị em và hẹn ngày tái ngộ.
Trước khi ra về ông Minh Tải thay mặt một số trí thức đô thành có bài thi nhắn các bạn Hoà Bình.
Đôi lời nhắn nhủ bạn Hoà Bình
Đoàn kết đến ngày dứt chiến tranh
Ly gián chúng gây mầm ác cảm
Đồng tâm ta giữ mối thâm tình
Bắc Nam già trẻ đều cương quyết
Âu Á xa gần thấy chứng minh
Dân tộc Việt Nam đầy dũng khí
Năm châu nhìn nhận chủ quyền mình
Đặng Văn Ký
(Minh Tải )
Ngày 5-11-Bính Ngọ (15-1-1967)
*