UNICODE FONTs

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Toà Thánh Tây Ninh

Thi-Tập & Thi Văn Dạy Đạo


(Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển - Quyển Thứ Nhì)


Hội Thánh Giữ Bản Quyền
Năm Nhâm-Tý
1972

[ Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển Q. 2  ] [ Thi Tập ]  [ Thi Van Dạy Đạo  ]

 

    Thi -Tập


            Hội-Thánh xin trích-lục ra đây để cống-hiến chư Đạo-hữu những bài thi và những lời chỉ giáo của các Đấng Tiền-Bối đã sẵn lòng giúp ta xây-dựng nền Đạo .

            Những bài thi ấy cho từ lối cuối ƒt-Sửu (1925), lúc còn "'xây bàn" và lúc đầu năm Bính-Dần (1926), trước khi mở Đạo.

            Ngày mồng 6 tháng 6 năm ƒt-Sửu (26-7-25), vong linh của Cụ cố Cao-Quỳnh-Tuân, tức là Cụ thân-sinh của ông Cao-Quỳnh-Cư ( Đức Cao-Thượng-Phẩm) giáng cho trong cuộc "xây-bàn" bài thi sau nầy:

                Thi

          Ly trần tuổi đã quá năm nươi,
          Mi mới vừa lên ước đặng mười. (Mi tức là Ô. Cư)
          Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
          Tình thương căn-dặn gắng tâm đời.
          Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,
          Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh-thơi.
          Xót nỗi vợ hiền còn lụm-cụm,
          Gặp nhau nhắn-nhủ một đôi lời.

                Ký tên: Cao-Quỳnh-Tuân

            Ngày mồng 10 kế đó, cô Đoàn-Ngọc-Quế giáng cho ba bài dưới đây:

                Thi

          Nỗi mình tâm-sự tỏ cùng ai,
          Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
          Những ngỡ trao duyên vào Ngọc-các,
          Nào dè phủi nợ xuống Tuyền-Đài.
          Dưỡng-sinh cam lỗi tình sông núi,
          Tơ-tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
          Dồn-dập tương-tư oằn một gánh,
          Nỗi mình tâm-sự tỏ cùng ai,

          Trời già đành-đoạn nợ ba sinh,
          Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
          Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
          Khiến ôm mối thảm lại Diêm-đình.

          Người thì Ngọc-mã với Kim-đàng,
          Quên kẻ dạ-đài mối thảm mang.
          Mình dặn lấy mình, mình sẽ biết,
          Mặc ai chung hưởng phận cao-sang

                Ký tên: Đoàn-Ngọc-Quế

             Bà Bát-Nương giáng làm bài thi vấn đề "Tiễn-biệt tình-Lang" dưới đây:

                Thi

          Chia gương căn-dặn buổi trường-đình,
          Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
          Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
          Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
          Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
          Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
          Lần-lựa cô-phòng xuân thỏn-mỏn,
          Xa-xuôi ai thấu nỗi đinh-ninh.

                Bát-Nương

              Họa-Vận

          Ình-ình trống giục thảm trường-đình,
          Đau nỗi chia phôi một chữ tình.
          Hồng-nhạn đưa tin trông vắng dạng,
          Phụng-lầu gác quyển đợi hòa thinh.
          Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
          Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
          Kẻ ở phương trời người góc biển,
          Lòng thành nhắn gởi chữ khương-ninh.

                Quí-Cao

                ***

    Ngày 14 tháng 8 ƒt-Sửu (31-8-1925)

            Nhàn-Ân Đạo-Trưởng

                Thi

          Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
          Nhướng mắt dòm coi thế chuyển-luân.
          Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
          Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

            Rằm tháng 8 ƒt-Sửu (d.l. 1-9-35) vì có sự thành-khẩn, nên Lục-Nương giáng cho bài thi sau nầy:

                Thi

          Im-lìm cây-cỏ vẫn in màu,
          Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
          Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
          Sương lồng ướt đất liễu đeo châu,
          Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng.
          Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu,
          Non-nước đìu-hiu xuân vắng chúa,
          Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.

                Lục-Nương

            Giải nghĩa hai câu thứ 5 và 6 của bài thi:

        "Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,"
        "Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu."

          Trường-quang: ánh sáng mặt Trời
          Kim-Mã, Ngọc-Thố:
          Kim-Mã là ngựa vàng tức là mặt Trời.
          Ngọc-Thố là mặt Trăng (Thỏ ngọc).

          Có nghĩa là ngày giờ qua mau rất lẹ.

                ***

              Thất-Nương

          Lừa dịp đình chơn viếng cố-nhân,
          Cảm tình trông đợi dạ ân-cần.
          Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
          Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

                ***

              A. ˆ. Â.

          Thu về ngắm cảnh dạ buồn tanh,
          Nhớ đạo nghĩa nhau T... xúc tình.
          Động cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
          Non xưa rừng bá thảm buông mành.
          Phong-trần thương kẻ mang thân đọa,
          Bồng-đảo vì ai giữ tấc thành.
          Một bóng luống chờ ngày tái ngộ,
          Chơn thần gìn đặng vẹn tinh-anh.

                ***

              Bát-Nương

          Động-đình chạnh lúc tạm chia đường.
          Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
          Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
          Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
          Cờ thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
          Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
          Mượn vận lương-nhân xin nhắn nhủ,
          Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

                ***

              Quí-Cao

          Tử-sanh dĩ định tự thiên-kỳ,
          Tái-ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
          Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
          Giang Đông khán thụ lụy triêm y.

            Thất-Nương (giải-nghĩa hai câu chót):

        Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
        Giang Đông khán thụ lụy triêm y.

            Khi Như-Hoành ở Bắc-Ngụy đi thuyết-chiến bên Giang-Đông gặp Bạch-Hàm thì tâm đầu ý hợp, kết làm anh em.

            Như-Hoành than rằng: "Bắc Ngụy văn thiên-thụ."

            Bạch-Hàm than rằng: "Giang-Đông nhứt mộ vân."

            Nghiã là:

          Ngó Bắc-Ngụy nghe ngàn cây đưa tiếng bạn,
          Nhìn Giang Đông thấy khóm mây vẽ hình anh.

                ***

              Vịnh Mai

          Mai là cốt-cách liễu tinh-thần,
          Thi thiệt hồn mai, tuyết ấy trần.
          Mai tuyết không thi mai tuyết não,
          Thi không mai tuyết thế không xuân.

                9-12-1925

          Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,
          Tuyết vẽ mày mai thắm-thía xuân.
          Xuân có tuyết mai xuân hiệp tuyết,
          Tuyết mai vầy bạn xúm chào xuân.

          Cũng đồng địa-vị cũng đồng đường,
          Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
          Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
          Tuyết giành trong sạch, mai gành hương.

          Nhơn vô tùng thế đắc tùng thiên,
          Ưu-lự trần-gian ý vị nhiên.
          Mạc hối tiền trình tình căn vĩ định,
          Tự-nhiên dĩ hậu phản như tiền.

                14-10-1925

                ***

              A. ˆ. Â.

          Mừng thay gặp-gỡ Đạo Cao-Đài,
          Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
          Rộng mở cửa răng năng cứu chuộc,
          Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

                19-12-1925

          Có cơ có thế có tinh-thần,
          Từ đấy Thần, Tiên dễ đặng gần.
          Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
          Ngày sau toại hưởng trọn thiên-ân.

                20-12-1925

                ***

            Thất-Nương (cho Ông Chấn)

          Hồ-thủy vẫy-vùng đáng phận trai,
          Trời chiều nay đã rạng cân-đai.
          Gành Nam nếu đặng người tên tuổi,
          Đất Bắc mừng an bước lạc-loài.
          Lộc nước gắng đền công chín tháng,
          Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.
          Qui điền có lúc phong trần rảnh,
          Đinh-sắt một lòng chí chớ lay.

                21-12-1925

                ***

              Bà Thiên-Hậu

          Trước có căn duyên ở ngọc cung,
          Cầu con nên phải đến phân cùng.
          Thiên-cơ mạc lộ chờ đôi lúc,
          Nương cậy về sau khỏi não-nồng.

                21-12-1925

                ***

              Thất-Nương

          Đã cùng nhau trót mấy lời giao,
          Cách mặt mà lòng chẳng lảng-xao.
          Đàng Đạo càng đi càng vững bước,
          Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

          Một nhà vầy hội rất mừng thay,
          Đạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
          Một bước một đi đường một tới,
          Lòng thành xin trọng thấu Cao-Đài.

                22-12-1925

                ***

              Lục-Nương

          Cha-chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
          E chư Huynh-trưởng trách em thầm.
          Tuy xa cách mặt lòng không cách,
          Buồn dở thơ hòa đọc lại ngâm.

                23-12-1925

                ***

              Bát-Nương

          Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
          Vì nghĩa sơ-giao phải đến thường.
          Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
          Dứt dây oan-trái chớ riêng thương.

          Mừng nay Thanh-Thủy giải dây oan,
          Đường Đạo từ đây bước vững-vàng.
          Tình-ái nhành-dương đem rưới tắt,
          Nắm tay dìu lại cõi Tiên-bang.

                ***

            Huệ-Mạng Trường-Phan (1)

          Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
          Nào dè có đặng buổi hôm nay.
          Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
          Bồng-đảo ngày nay đặng hiệp vầy.

          Tây-Ninh tu-luyện động Linh-Sơn,
          Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.
          Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
          Công-hầu vương-bá dám đâu hơn.

                23-12-1925

    ______________________
    (1) Huệ-Mạng Trường-Phan là Ông Thầy-Chùa nhỏ trên núi Điện-Bà.

                ***

              A. ˆ. Â.

          Trước vốn thương sau cũng thương,
          Một lòng nhơn-đức giữ cho thường.
          Trông ơn Thượng-Đế tuông rời-rộng,
          Sum-hiệp ngày sau cũng một trường.

                ***

            Hớn-Thọ Đình-Hầu

          Tiết-nghĩa trung-cang Hớn đảnh xây,
          Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
          Kinh-Châu thất-thủ nơi Thiên định,
          Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

                25-12-1925

                ***

              A. ˆ. Â.

          Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
          Vui lòng tu-niệm hưởng ân thiên.
          Đạo-mầu rưới khắp nơi trần-thế,
          Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

                ***

            Lý-Bạch (Noel 1925)

          Đường trào hạ thế hưởng tam quan,
          Chẳng vị công-danh chỉ hưởng nhàn.
          Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
          Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
          Một bầu phong-nguyệt say ngơ-ngáo,
          Đầy túi thơ-văn đổ chứa-chan.
          Bồng-Đảo còn mơ khi bút múa,
          Tả lòng thế-sự vẽ giang-san.

            Đỗ-Mục-Tiên (họa Lý-Bạch)

          Chẳng kể công-khanh bỏ ấn quan,
          Bồng-Lai vui Đạo hưởng an-nhàn.
          Thi-thần vui hứng ngoài rừng Trước,
          Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.
          Nồng hạ Trời thương đưa gió quạt,
          Nắng thu đất cảm đổ mưa chan.
          Vân du thế-giới vui mùi Đạo,
          Mơi viếng kỳ-sơn tối cẩm-san.

                ***

              Lục-Nương

          Vui nhơn vui Đạo lại vui thiền,
          Vui một bước đường một bước yên.
          Vui bóng Cao-Đài che khắp chốn,
          Vui gương Ngọc-Đế thấy như nhiên.
          Vui ngàn thế tải ngăn nhơn-sự,
          Vui một màu thiên đóng Cửu-tuyền.
          Vui vớt sanh-linh nơi bể khổ,
          Vui Trời rưới khắp đủ ân-thiên.

                Noel 1925

                ***

              Lục-Nương

          Mừng nay đường Đạo đã êm chơn,
          Vàng ngọc công-khanh chẳng dám hơn.
          Rượu-cúc Bàn-đào chờ hội ẩm,
          Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh-tồn.
          Bồng-lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
          Dinh-đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
          Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
          Cân phân thế-tục phẩm chi sờn.

                13-1-1926 (Cầu-Kho)

                ***

              Thầy

          Thành-tâm niệm Phật,
          Tịnh, tịnh,tịnh, tịnh, tịnh.
          Tịnh, là vô nhứt vật,
          Thành tâm hành Đạo.

                14-1-1926

                ***

          Ông Đốc-Bản xin chấp-bút.

              Thầy

          Bút nở mùa hoa đã có chừng,
          Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
          Gắng công ắt đặng công mà chớ,
          Buồn bực rồi sau mới có mừng.

                ***

          Tu như cỏ úa gặp mù sương,
          Đạo vốn cây che mát-mẻ đường.
          Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
          Đôi năm mệt-nhọc vạn năm bường.
          Có thần nuôi-nấng thần càng mạnh,
          Luyện khí thông-thương khí mới tường.
          Nhập thể lòng trong gìn tịnh-mẫn,
          Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.

                Qúi-Cao 16-1-26

                ***

              Thầy

          Thiệt thiệt hư dễ biết chăng,
          Hành-tàng chơn đạo gọi sao rằng.
          Khai Thiên lập Địa ai là chủ?
          Thánh Phật là ai dám đón ngăn?

                21-1-1926

          Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
          Có thương mới biết đấng Cao-Đài.
          Cũng con cũng cái đồng môn-đệ,
          Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai?

                22-1-1926

          Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
          Truyền Đạo chia ra nhánh-nhóc ba.
          Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
          Thánh, Tiên, Phật Đạo vốn như nhà.

                23-1-1926

                ***

              Lục-Nương

          Công-quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
          Nợ trần bước tục phải đua chen.
          Võ-đài chờ trả rồi oan-trái,
          Xũ áo phồn-hoa lại cảnh Thiên.

                27-1-1926

                ***

          Khai Đàn nhà Cao-Quỳnh-Cư.

              Thầy

          Đã để vào Tòa một sắc hoa,
          Từ đây đàn nội tỷ như nhà.
          Trung-thành một dạ thờ cao-sắc,
          Sống có Ta thác cũng có Ta.

          Đài sen vui nhánh trổ thêm hoa,
          Một Đạo như con ở một nhà.
          Hiếu-nghĩa tương-lai sau tựu-hội,
          Chủ trung Từ-Phụ vốn là Ta.

                27-1-1926

                ***

              Lý-Bạch

          Có công phải biết gắng nên công,
          Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
          Kinh-sách đầy đầu chưa thoát tục,
          Đơn tâm khó định lấy chi mong.

                27-1-1926

                ***

              Thầy

          Một ngày thỏn-mỏn một ngày qua,
          Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
          Luyện đặng tinh-thông muôn tuổi thọ,
          Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.

          Cương-tỏa đương-thời đã giải vây,
          Đừng mơ oan-nghiệt một đời nầy.
          Hữu-duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
          Tu-niệm khuyên bền chí chớ lay.

                28-1-1926

                ***

            Thầy vui vì các con thuận-hòa cùng nhau; Thầy muốn cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân-trọng.

                29-1-1926

                ***

              Thầy

          (Khai đàn cho Ông Lê- văn-Trung)

          Một Trời một Đất một nhà riêng,
          Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền
          Cầm mối Thiên-thơ lo cứu chúng,
          Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên.

                31-1-1926

                ***

              Thầy

          Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
          Cái công giáo-hóa cũng đồng sinh.
          Đạo đời tua biết rằng đời trọng,
          Một điểm quang-minh một điểm linh.

                3-2-1926

     

    Top of Page

     

    Thi-Văn Dạy Đạo


          Khổ đời muốn lánh gắng tìm phương,
          Giành-giựt đừng mong chác thế thường.
          Xạo-xự tuồng đời lừng bợn tục,
          Trau-tria nét đạo nực mùi hương.
          Rừng Thiền ngàn dặm Trời soi bước,
          Biển khổ muôn chia khách lạc đường.
          Gặp được nẻo ngay đời có mấy?
          Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương.

                ***

          Gắng sức trau-giồi một chữ tâm,
          Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
          Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
          Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.
          Tâm ái nhân-sanh an bốn biển,
          Tâm hòa thiên-hạ trị muôn năm.
          Đường tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
          Có buổi hoài công bước Đạo tầm.

                ***

          Phải giữ chơn-linh đặng trọn lành,
          Ngọc-Hư toàn ngự đấng tinh-anh.
          Luật điều Cổ-Phật không chừa tội,
          Hình phạt Chí-Tôn chẳng vị tình.
          Chánh trực kinh oai loài giả-dối,
          Công-bình vừa sức kẻ chơn-thành.
          Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
          Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.

                ***

          Màn trời đã vẹt ngút mây trương,
          Bước tới Đài-Hoa thấy tỏ-tường.
          Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
          Lối mòn động Bích chớ lầm đường.
          Chánh tà đôi nẻo tua tầm chước,
          Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
          Mê-tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
          Rừng thiền nô-nức loán mùi hương.

                ***

          Tìm Đạo mà chi khá hỏi mình,
          Bến mê mới vững vớt quần-sinh.
          Vun-trồng cội phúc ơn chan thấm,
          Giong-ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
          Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
          Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh.
          Thiên-cơ tuy hẳn nêu trưởng khảo,
          Lướt khỏi, ngàn thu quả đắc thành.

                ***

          Đổi tục về Tiên sắc đượm-nhuần,
          Rưới-chan cho khắp giọt hồng-ân.
          Rừng tòng thanh-nhã say mùi Đạo,
          Bể khổ mênh-mang vớt khách trần.
          Linh-dược đầy bầu là cội ái,
          Kinh-luân nặng túi ấy nguồn nhân.
          Buồm trương lái vững chờ sông lệ,
          Đưa chiếc thuyền sen dựa đảnh Thần.

                ***

          Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường,
          Cho roi cho vọt mới là thương.
          Nhơn-tình ví chẳng mưu thâu-phục,
          Thế-giới mong chi phép độ-lường.
          Nhỏ dại Thầy nuôi mùi Đạo-hạnh,
          Lớn khôn bây xứng mặt hiền-lương,
          Vinh-hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
          Khổ cực các con chớ bỏ trường.

                ***

          Trau-giồi giữ xứng phận nga-my,
          Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
          Thanh-sử từng nêu gương nữ-kiệt,
          Hồng ân chi kém bạn nam nhi.
          Lọc-lừa chớ để đen pha trắng,
          Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
          Hạnh-đức điểm tô non nước Việt,
          Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.

                ***

          Thiều-quang nhặt-thúc khuất màu xuân,
          Trở bước quanh-co rán liệu chừng.
          Hứng giọt Ma-Ha lau tục lụy,
          Ngừa thuyền Bát-Nhã thoát mê-tân.
          Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,
          Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.
          Phước gặp Tam-Kỳ Trời cứu độ,
          Gắng tu kiệp buổi lướt Đài-Vân.

                ***

          Rừng thiền nhặt-thúc tiếng chuông trưa,
          Phước gặp về Ta buổi đã vừa.
          Nẻo hạnh làu soi gương nguyệt thắm,
          Sân ngô rạng vẻ cảnh thu đưa.
          Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi,
          Dử tận hiền thăng khách lọc-lừa.
          Vui Đạo gắng trau lòng thiện-niêm,
          Duyên may tìm lại phẩm ngôi xưa.

                ***

          Rẽ lối non-sông thấy động đào,
          Bừng con mắt tỉnh giấc chiêm-bao.
          Đường gai-gốc gắng lần qua khỏi,
          Cảnh rạng ngần tua rán bước vào.
          Mùi tục lần xa, vui đạo-đức,
          Cõi tâm rộng mở, khổ giồi trau.
          Nước dương rưới sạch trần ai cũ,
          Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.

                ***

          Cần lo học Đạo chí đừng lơi,
          Phú-quí sương tan lố bóng Trời.
          Lợi-lộc xôn-xao rồi một kiếp,
          Nghĩa-nhơn tích-trữ để muôn đời.
          Làm lành sau cũng lành vay trả,
          Chác dữ âu hay dữ vốn lời.
          Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
          Thân danh bể-khổ mặc buông trôi.

                ***

          Lần-lừa ngày tháng cảnh đưa xuân,
          Ướm chổi huỳnh-lương tỉnh dậy lần.
          Rạng nẻo chung soi đèn Bạch-Ngọc,
          Dò đường xúm núp bóng Hồng-Quân.
          Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,
          Tiếng trống giác-mê nhặt đỉnh Thần.
          Biết Đạo khá lo trau hạnh-đức,
          Dữ lành đợi buổi cũng cân-phân.

                ***

          Ngày chầy dặm thẳng gắng đưa qua,
          Chụi khổ trau tâm chí mới già.
          Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ-rõ,
          Quét lằn bụi đỏ thế phui-pha.
          Lòng trần gội sạch noi đường chánh,
          Nét đạo gìn thanh lánh nẻo tà.
          Đèn huệ chực soi mau tiến bước,
          Nơi miền Cực-Lạc dễ đâu xa.

                ***

          Đường về muốn vẹn để công-trình,
          Bóng nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.
          Xuân hé đã hay cơn ác lố,
          Đông tàn khá biết lúc Trời chinh.
          Trau tài trau phận tua trau đức,
          Biết thế biết nhân mới biết mình.
          Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,
          Hay chi thế tục chước cầu vinh.

                ***

          Nhiệm-mầu Tạo-hóa cuộc vần-xây,
          Thưởng phạt cũng do một buổi nầy.
          Đức trước hưởng thừa tâm vẹn giữ,
          Nhân sau để dấu chí đừng lay.
          Đường mây thẳng gió hồng trương cánh,
          Bước Đạo êm chơn nguyệt rọi mày.
          Dìu-dắt sanh-linh lo tế-độ,
          Thiên-niên danh-tạc chốn Vân-Đài.

                ***

          Liễu-Huệ nhuần sương Liễu-Huệ tươi,
          Chiều Xuân nguyệt rạng vẻ hoa cười.
          Màn Trời mây khỏa muôn sao lố,
          Thuyền Đạo buồm treo một sắc phơi.
          Cội trước gió đưa hơi nhắn khách,
          Rừng tòng khách giục cảnh chờ người.
          Lần theo bước rạng non Thần đến,
          Chớ luyến phồn-hoa lụy đến nơi.

                ***

          Vun nền đạo-hạnh khá rèn lòng,
          Gặp hội đành vui chữ sắc không.
          Cúc rải đường qua vang tiếng nhạn,
          Rừng tà bóng khuất vẳng hơi thung.
          Xuôi chiều đổ bến êm dòng bích,
          Phải lúc nương mây chớp cánh hồng.
          Nhuần-gội ơn Trời âm-chất vẹn,
          Mau chơn ngày tháng đã qua đông.

                ***

          Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,
          Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.
          Ách đất rắp nhồi trường náo-nhiệt,
          Cửa Trời kịp mở vớt quần-sinh.
          Nâng đời khá gắng trau nhơn-đức,
          Học Đạo tua năng luyện tánh-tình.
          Khổ-hạnh chí mong qui nẻo chánh,
          Ngoài tai chớ chác miếng hư-vinh.

                ***

          Non chiều ác-xế bóng Trời thâu,
          Nẻo chánh may nương buổi đáo đầu.
          Theo bước kịp thì tìm ánh-sáng.
          Ngừa thuyền ấy lúc lánh dòng sâu.
          Soi gương hạnh-đức trau lòng tục,
          Hứng giọt Từ-Bi rửa bợn sầu.
          Nhặt-thúc quang-âm xuân đã lụn,
          Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu.

                ***

          Thìn trau đức-tánh để nêu-gương,
          May gặp đạo mầu gắng liệu phương.
          Cội Bắc chim về chiều ngả bóng,
          Non Nam ác lố ánh tan sương.
          Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,
          Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.
          Độ chúng cứu đời công-nghiệp để,
          Thiên-ân hưởng trọn khá lo lường.

                ***

          Cành mai thơ-thới đượm hơi xuân,
          Dìu-dắt đem nhau lại đảnh Thần.
          Tích đức để lòng trau khổ-hạnh,
          Diệt phàm gắng chí thoát mê-tân,
          Lừng Trời vẹt ngút mây xây mịt.
          Đài ngọc khoe gương sắc rạng ngần,
          Công-nghiệp dồi-dào âm-chất đủ,
          Long-Hoa đợi hội hưởng Thiên-ân.

                ***

          Đã nhiều danh lợi bước đua tranh,
          Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?
          Ác lố rọi tan lằn gió buị,
          Nguyệt lờ soi gượng bước công khanh.
          Đường tu ví sớm noi gương rạng,
          Cội phúc mai sau hưởng quả lành.
          Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,
          Ngựa qua cửa sổ cuộc tan-tành.

                ***

          Dặm dài bước lạ nẻo chưa quen,
          Tánh chất dầu trau gẫm chẳng hèn.
          Bóng trải dìm-dà xuân đợi chúa,
          Tiết nồng thơ-thới hạ khoe sen.
          Nhành dương nước rưới tan lòng tục,
          Nguồn Thánh Đạo dìu lại cõi Tiên,
          Phước gặp kỳ ba Trời phổ-độ,
          Mau chơn rán lướt tới rừng thiền.

                ***

          Day mặt Hồng-Quân ngó Địa-Hoàn,
          Rưới chan vạn-vật khối sinh-quang,
          Cõi Tiên mở rộng cung Đâu-Suất,
          Nước Phật sửa an cảnh Niết-Bàn.
          Cứu thế quyết ngưng quyền Địa-phủ,
          Độ đời cố tạo phước nhơn-gian.
          Thần-thông trói chặt Ma-vương quái,
          Dìu bước vạn-linh đến cảnh nhàn.

                ***

          Viết thử Thiên-thơ với nét trần,
          Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng-Quân.
          Chuyển-luân thế-sự đưa Kinh-Thánh,
          Trừ diệt tà-gian múa bút Thần.
          Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
          Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.
          Công-danh nước Việt tay đành nắm,
          Mưa mốc dân-sanh gắng gội nhuần.

                ***

          Đường mây sẵn lối gặp may duyên,
          Nâng gánh xa-thơ sửa mối-giềng.
          Anh-tuấn đất gìn nung khí-phách,
          Uy-linh Trời giữ tạc đài-liên.
          Hồn về nước cũ đời nương thế,
          Hạc lại tùng xưa đức lập quyền.
          Đảnh Việt chờ qua cơn bão-tố,
          Muôn năm tỏ rạng mối chơn-truyền.

                ***

          Có hiệp đem đường nẻo mới thông,
          Phân chia cội Đạo uổng vun-trồng.
          Quanh đường chớ cậy chơn kỳ-ký,
          Ngược gió tài chi sức Hộc-Hồng.
          Bể khổ mênh-mang lo giải khổ,
          Nên công nghiêng-ngửa gắng nên công.
          Phong ba dầu được dìu qua khỏi,
          Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng.

                ***

          Bạch-vân nhàn lạc khỏe thân già,
          Thương kẻ nặng mang nợ quốc-gia.
          Đời rạng lưu-tồn gương nhựt-nguyệt,
          Đạo thành vạn đại chiếu sơn-hà.
          Thiện-nam gắng giữ nền nhân-nghĩa,
          Chơn-nữ hằng ghi thuyết cộng-hòa.
          Trách-nhiệm thiệt-hành cho vẹn phận,
          Hồng-ân chung hưởng buổi âu-ca.

                ***

          Trần thế hầu gây náo nhiệt trường,
          Lánh nguy nguồn Đạo vẹn tìm phương.
          Vui sầu nay gắng chung vai gánh,
          Hưởng phước sau may hiệp bước đường.
          Cay đắng lần soi gương trí-huệ,
          Chia-phui chờ trải lối tang-thương.
          Dặn mình tua chặt trong gang-tấc,
          Sau trước lòng son giữ đặng thường.

                ***

          Biến-chuyển Trời Nam cuộc đảo-huyền,
          Trả vay cho sạch vết oan-khiên.
          Trường Đời đem thử gan Anh-Tuấn,
          Cửa Đạo mới ra mặt Thánh-Hiền.
          Đau khổ rán gìn nhơn-nghĩa vẹn,
          Tang thương chờ hưởng huệ-ân riêng,
          Non sông Việt-chủng ngày êm-lặng,
          Chung sức cùng nhau đức lập quyền.

                ***

          Những là khổ-nhọc chịu cơ đời,
          Hạnh-phúc thử nhìn đặng mấy mươi.
          Vinh-nhục đòi phen vui lẫn khóc,
          Ghét thương lắm lúc giận pha cười.
          Đường tâm tự tỉnh chơn ra giả,
          Nẻo đức gồm theo thiệt hóa chơi.
          Thoát tục ví ai tìm nẻo Thánh,
          Bến mê lướt sóng đến ven Trời.

                ***

          Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,
          Đầm-ấm hơi xuân nở mặt mày.
          Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,
          Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh-bai.
          Trường Tiên mở rộng chơn du-khách,
          Nẻo hoạn buông khơi trí đặc-tài.
          Lọc nước rửa đời Trời để dấu,
          Riêng che Nam-đảnh một cân-đai.

                ***

          Ác lồng nhựt rạng tản sương mơi,
          Gặp lối đường quanh khó tách-vời.
          Thuyền Đạo đẩy-đưa lằn sóng biển,
          Bước đời dùn thẳng bước thang Trời.
          Đai cân mảng luyến chưa nên phận,
          Danh lợi ham giành khó vẹn ngôi.
          Nhắn-nhủ phồn-hoa mau thức tỉnh,
          Lần lừa bỏ quá kiếp xuân thời.

                ***

          Lồng sương gió thoảng bặt hơi xuân,
          Để bước tìm nơi Đạo gội-nhuần.
          Sóng khỏa thuyền về còn lắc-lở,
          Rừng chờ khách trở buổi cân-phân.
          Trau gương hạnh-đức pha lòng tục,
          Giồi trí thanh-cao giữ tánh Thần.
          Thưa nhặt thoi đưa trời xế bóng,
          Xét mình một khắc một mau chân.

                ***

          Dìu-dắt tìm ra lối lạ-lùng,
          Bóng trời xúm-xít đỡ nương chung.
          Dài đường chớ ngán con Kỳ-Ký,
          Ngược gió đừng nao cánh Hộc-Hồng.
          Nhướng mắt tua dò theo kẻ trí,
          Thìn lòng khá gắng đắp nền công.
          Sen tàn cúc nở qua ngày tháng,
          Nhặt bước đường hoa đến cội tùng.

                ***

          Cái kiếp hồng-nhan kiếp đọa-đày,
          Phải làm cho gái hóa ra trai.
          Linh-oai vẻ ngọc là gươm sắt,
          Mềm mỏng hình hoa ấy phép tài.
          Phòng tía cất thành hình thổ-võ,
          Cung loan lập giống dạng Cao-Đài.
          Muốn đi cho tận trường sanh-địa,
          Phải đổi giày sen lấy thảo-hài.

                ***

          Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
          Ngọc-Hư định sửa mối Thiên-thi.
          Cửu-Trùng không kế an thiên-hạ,
          Phải để Hiệp-Thiên đứng trị vì.
          Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
          Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
          Quyền-hành từ đấy về tay nắm,
          Phải sửa cho nên đáng thế thì.

                ***

          Đào-Nguyên lại trổ trái hai lần,
          Ai ngỡ Việt-Thường đã thấy Lân.
          Cung-Đẩu vít xa gươm Xích-quỷ,
          Thiên-Cung mở rộng cửa Hà-ngân.
          Xuân-thu định vững ngôi lương-tể,
          Phất-chủ quét tan lũ nịnh-thần.
          Thổi khí vĩnh-sanh lau xã-tắc,
          Mở đường quốc-thể định phong vân.

                ***

          Mở rộng đường mây rước khách trần,
          Bao nhiêu tình gởi nhắn nguyên nhân.
          Biển mê cầu ngọc liền phàm tục,
          Cõi thọ sông ngân tiếp đảnh Tần.
          Chuyển nổi Càn-Khôn xây Võ-Trụ,
          Nhẹ nâng Nhựt-Nguyệt chiếu Đài-vân.
          Cầm gươm huệ chặt tiêu oan-trái,
          Dìu-độ quần-sanh diệt quả nhân.

                ***

          Nầy lúc kỳ ba phổ-độ trần,
          Mau chơn thoát khỏi chốn mê-tân.
          Đường gai-gốc gắng lần qua khỏi,
          Đạo-đức sớm hôm khá vẹn cần.

                ***

          Nguồn đào lạc lối ấy duyên may,
          Gặp Đạo nương theo bước dặm dài.
          Nắng hạ héo khô vườn bá tánh,
          Dắt nhau tìm núp bóng Cao-Đài.

                ***

          Cao-Đài đứng chủ cả sanh-linh,
          Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.
          Mở mắt tỉnh lần cơ mộng-điệp,
          Hữu sanh hữu khổ phải toan gìn.

                ***

          Gìn lòng chơn-chánh chớ tà tây,
          Thưởng phạt về sau cũng hội nầy.
          Trước biết sửa mình tâm chí vẹn,
          Sau nương cảnh tịnh mới nên hay.

                ***

          Hay gần đạo-đức mới nên thân,
          Lánh chốn phồn hoa giữ tánh thần.
          Một nét vạy-tà Thần-Thánh chép,
          Rèn lòng trong-sạch thoát mê-tân.

                ***

          Tân toan khổ-hạnh phải trau-giồi,
          Bước tới đường dài chớ trở lui.
          Công khó độ-đời đừng nệ khó,
          Phước dư đợi lúc hưởng ơn Trời.

                ***

          Đông tàn cảnh ướm trở nên xuân,
          Xuân nở vườn mai há mấy lần.
          Lần-lựa cho đò xa bến Thánh,
          Thánh tâm mấy kẻ vẹn trau thân.

                ***

          Nghèo sạch rách thơm mới đáng người,
          Nệ chi cực-nhọc buổi xuân mơi.
          Nay đà gặp lúc thiên-ân rưới,
          Gắng bước đường tu hưởng phước đời.

                ***

          Tài tuy ít, đức nên nhiều,
          Nhiều đức mới tròn bước Đạo theo.
          Theo đặng bước nào gìn bước nấy,
          Trở lui e vướng lúc nghiêng nghèo,

                ***

          Tà nguyệt vườn thu ướm trở đông,
          Nhạn về đảnh Bắc tiếng qua sông.
          Bền lòng thiện-niệm bồi căn trước,
          Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.

                ***

          Lo-lường nền hạnh đặng lên cao,
          Cao đức nguồn Tiên mới bước vào.
          Vào đặng Tam-Kỳ Trời cứu khổ,
          Khổ thêm gắng chịu tánh năng trau.

                ***

          Đường Đạo tìm vào mới rõ cơ,
          Cơ mầu giải khổ chớ chần chờ.
          Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,
          Bến tục thoát vòng hết ước mơ.

                ***

          Trời thương đâu nệ nhọc công-trình,
          Chịu nhọc vì lo đám chúng-sanh.
          Sanh dưỡng dưỡng sanh rồi phải độ,
          Độ cho trở bước lại đơn đình.

                ***

          Giựt giành rốt cuộc cũng tay không,
          Nhân quả đeo mang tội chất đồng.
          Ví biết phép công cơ thưởng phạt,
          Đường tu sớm bước chí thong-dong.

                ***

          Sáng đường nhờ có bóng trời soi,
          Đạo-đức để tâm chớ đổi dời.
          Công-quả thìn lòng sau hưởng phước,
          Dặm dài đừng nệ bước xa-xôi.

                ***

          Gìn-giữ về sau mối đạo mầu,
          Nương theo bước trước gắng tìm châu.
          Thuyền chờ bến tục buồm truơng sẵn,
          Đưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.

                ***

          Quanh-co muốn khỏi gắng lòng thành,
          Chứa đức là phương phước để dành.
          Hứng giọt nhành-dương lau tục-lự,
          Hay chi thua được bả công-khanh.

                ***

          Công-khanh xạo-xự cũng vai tuồng,
          Đêm lặng rừng thiền lóng tiếng chuông.
          Mê-luyến hồng trần mang ách khổ
          Cơn vui qua khỏi lệ sầu tuôn.

                ***

          Nẻo chánh tìm theo mối đạo gìn,
          Hay chi tuồng thế bước đua-tranh.
          Của nhiều ít đức sương trên cỏ,
          Giành giựt mà chi phải lụy mình.

                ***

          Đừng sợ khó, khó nên công,
          Công khó may gìn chữ sắc không.
          Không sắc, sắc không vui đảnh hạc,
          Hạc về chốn củ dựa rừng tòng.

                ***

          Rừng tòng tìm đến lánh cay chua,
          Đêm lặng lắng nghe tiếng khánh chùa.
          Lần gội tâm phàm vui cảnh trí,
          Đường trần lưu-luyến nhọc tranh đua.

                ***

          Dời-đổi thói đời lắm thị phi,
          Trăm năm chung-đỉnh có ra gì?
          Tìm nguồn đạo-đức tâm phàm gội,
          Danh mà chi, lợi ấy mà chi?

                ***

          Thông biết thế thời mới gọi thông,
          Thông minh học đạo vẹn trau lòng.
          Lòng trần dầu muốn phong-ba dứt,
          Độ chúng tu chơn chí nả-nong.

                ***

          Sáng đèn cánh bướm liệng xôn-xao,
          Lánh họa tua gìn hạnh-đức trau.
          Noi dấu đường ngay Trời tế-độ,
          Chen chơn nguồn Thánh bước lần vào.

                ***

          Ức lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
          Hiền-đức mà sao chụi khổ hoài,
          Lão nói tỏ-tường cho đó hiểu,
          Cũng là vay trả luật xưa nay.

                ***

          Dữ đọa hiền thăng ấy luật Trời,
          Lánh đường tà-vạy hưởng an vui.
          Nay con phước gặp nền chơn Đạo,
          Ngọc tốt bền trao sắc rạng ngời.

                ***

          Suối lành đổ nước hóa sông thanh,
          Đức-hạnh muốn trau vẹn tánh lành.
          Trước muốn đưa chơn vào cửa Phạm,
          Hỏi mình có trọn tấm lòng thành.

                ***

          Dối ai đâu dễ dối cùng Trời,
          Biết đạo răn mình cũng hết hơi.
          Từ bỏ lần-hồi lầm-lỗi trước
          Tự-nhiên bể-khổ lánh xa vời.

                ***

          Bá-tước công-khanh ý-vị gì?
          Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
          Nương chơn chưa biết chơn nào vững,
          Níu thử cân-đai thấy nặng trì.

                ***

          Được vàng chớ khá gọi là may,
          Vàng hết tội kia chất dẫy đầy.
          Bỏ đức bỏ nhân bao kiếp đọa,
          Khuyên con giữ đạo đến cùng Thầy.

                ***

          Lối ngay nẻo chánh gắng tìm đường,
          Lánh chốn thị-phi đạo mới tường.
          Dòng bích thuyền từ còn đợi bến
          Thu qua gặp gió cánh buồm trương.

                ***

          Cõi thế tìm nơi đạo-đức vào,
          Lòng thành Thần-Thánh chứng công-lao.
          Nhân-sanh thấy khổ đưa tay cứu,
          Chẳng mất phần sau địa vị cao.

                ***

          Thắm-thoát đời qua cuộc bể dâu,
          Ham vui chỉ chác cuộc mua sầu.
          Lập thân muốn tránh đường mưa gió,
          Tìm Đạo nương mình vững nghiệp sau.

                ***

          Rừng thiền trở gót mới thung-dung,
          Nhàn hạ riêng vui cảnh bá tùng.
          Lao lực thế tình chi xạo-xự,
          Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.

                ***

          Cung đàn chờ khách cận song thu,
          Năng mến Đạo mầu chí trượng phu.
          Biển khổ vớt người thuyền gặp lúc,
          Đeo-đai thế-sự chỉ mua sầu.

                ***

          Tách bến sông mê sóng tạt thuyền,
          Lọc lừa nghiệp quả kẻ may duyên.
          Trương buồn hạnh-đức xuôi chiều gió,
          Đưa khách phồn-hoa lánh nẻo phiền.

                ***

          Sao cho thành-kỉnh Phật-Trời thương,
          Đạo-đức chăm lo vững mối đường.
          Công-nghiệp phải lo sanh-chúng độ,
          Đàn sau để dấu kẻ soi gương.

                ***

          Mùi đời biết đặng lắm chua cay,
          Cay-đắng kiếp người khổ ớ ai?
          Ai dám xả thân hành chánh đạo,
          Đạo mầu theo dõi hết trần ai.

                ***

          Đồng thuyền kẻ trước dắt người sau,
          Sau trước nương nhau ấy chước mầu.
          Mầu-nhiệm dễ chi tìm thấu-đáp,
          Đáo đầu mới rỏ Đạo là cao.

                ***

          Đạo-đức gắng theo đỡ ít nhiều,
          Ngày thâu bóng nhựt đã hầu xiêu.
          Tu-thân dầu khổ, thân tiên độ,
          Có khó có nên nhọc phải chìu.

                ***

          Xử thế phải cho vẹn thế tình,
          Trau tâm trau đức sạch chơn-linh.
          Bến mê rước khách thuyền đương đợi,
          Đưa đến đào-nguyên hưởng phước lành.

                ***

          Dò theo đường chánh chớ sai lầm,
          Biết đạo cần trau một chữ tâm.
          Tiên Phật nơi mình đâu phải khó,
          Khó do chẳng trọn tấm chơn-thành.

                ***

          Đức-tánh khen con có chí-thành,
          Lần đường Đạo chẳng chút cầu danh.
          Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,
          Không quản lao-đao giữ tiếng lành.

                ***

          Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
          Lẽ chánh-tà kia phải xét thầm.
          Đừng bụng nghi-nghi rồi hoặc-hoặc,
          Tự nhiên rõ thấu đạo cao-thâm.

                ***

          Trau hạnh làm gương dắt kẻ sau,
          Một nhà đạo-đức khá thương nhau.
          Noi theo người trước đời trông cậy,
          Gắng sửa lều-tranh hóa động-đào.

                ***

          Nâu-sồng khổ-hạnh phép gần Tiên,
          Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
          Gắng chí tập lần thân cực-nhọc
          Bền tâm tu-luyện mới là nên.

                ***

          Cao đê thế-sự khá đinh-ninh,
          Một dặm xa-xuôi nhọc lộ-trình.
          Lần-lựa chỉ sầu tay gỡ rối,
          Trời tây bóng nhựt đã hầu chinh.

                ***

          Dư phước dành sau ấy thế hay,
          May chơn bước gặp bóng Cao-Đài.
          Sạch lòng để dạ vun nền Đạo,
          Phủi thế an-vui đợi đến ngày.

                ***

          Mạnh yếu rồi đây yếu được phần,
          Được phần máy Tạo khéo cầm cân.
          Cầm cân thăng-thưởng răn người thế,
          Người thế sao cho hạnh chói ngần.

                ***

          Tranh-đua đã quá nửa đời người,
          Thử hỏi phước phần được mấy mươi.
          Mưu được phần mình thì tổn đức,
          Của tiền dầu chất há an vui.

                ***

          Vui Đạo vui nhân ấy thiệt vui,
          Vui còn sóng sắc hại mình thôi.
          Vui nơi đổ-bác là vui khổ,
          Vui thói tà-gian lụy trọn đời.

                ***

          Đời qua thắm-thoắt cõi nhơn-gian,
          Sớm nở hoa kia chiều vội tàn.
          Mái tóc điểm sương chưa học Đạo,
          Họa kề dầu hối khó than van.

                ***

          Lắm kẻ còn xuân chẳng tiếc xuân,
          Tạo thành nghiệp dữ biết bao lần.
          Chớ quên máy Tạo nên mầu-nhiệm,
          Vay trả đồng-cân thế chuyển-luân.

                ***

          Chữ hiếu phải lo vẹn phận người,
          Sanh-thành đạo trọng há đâu chơi.
          Buông trôi ví chẳng tròn nhơn-đạo,
          Còn có mong chi đến đạo Trời.

                ***

          Có thân có khổ, khổ vì thân,
          Nào có sướng chi cái kiếp trần.
          Kẻ trí phải lo phương giải khổ,
          Tìm thuyền Bát-Nhã lánh mê-tân.

                ***

          Mê-tân là chốn đọa con người,
          Vương-bá công-hầu lụy mấy mươi.
          Ham miếng đỉnh-chung mê sắc đẹp,
          Hại thân tiếng xấu để muôn đời.

                ***

          Thảo ngay con vẹn giữ cho bền,
          Phải phận là phần đáng bậc trên.
          Dìu-dắt đàn em sau nối gót,
          Con đường đạo-đức bước càng lên.

                ***

          Nhiều nhân-quả trước phải đền nay,
          Chẳng gỡ cho kham cứ nhắc hoài.
          Một tiếng than-van thân cực-nhọc,
          Một oan chẳng chịu muốn gây hai.

                ***

          Cang-cường quen tánh hiếp dân nghèo,
          Nghe Đạo Phật Trời cũng muốn theo.
          Chẳng khác chồi non xô đại-mộc,
          Như sa vực-thẳm khó toan trèo.

                ***

          Tìm vào nẻo Đạo mới tri cơ,
          Cơ-Tạo huyền-vi chớ hững-hờ.
          Tỉnh giấc mộng chờ qua biển khổ,
          Thế-tình vui-vẻ chí đừng mơ.

                ***

          Say Đạo là say bậc Thánh-Hiền,
          Hiền xưa sớm để bước tầm Tiên.
          Tiên nguồn Thánh ngọn dò chân đến,
          Đến đặng là phương rưới lửa phiền.

                ***

          Tranh đức tranh nhân mặc sức tranh,
          Đừng tranh lợi quấy khổ thân hình.
          Hai đường họa phước tua lừa-lọc,
          Vay trả cơ Trời chớ dễ khinh.

                ***

          Đừng lòng kiêu-hãnh cậy mình tài,
          Nên nhớ chữ tài cận chữ tai.
          Tài ít đức nhiều còn hữu dụng,
          Tài suông thiếu đức họa nay mai.

                ***

          Nhơn nghĩa gắng gìn dạ sắc-son
          Thờ cha kính mẹ hiếu lo tròn.
          Nghèo mà trong-sạch danh thơn rạng,
          Phúc hậu Trời ban để cháu con.

                ***

          Họa phước vô môn chỉ tại người,
          Thỉnh mời rồi đổ bởi nơi Trời.
          Huệ-ân muốn hưởng noi đường Đạo,
          Hối-cải tu thân phải giữ lời.

                ***

          Mùi đời đã nếm biết chua-cay,
          Giành-giựt còn mong cậy sức tài.
          Nếu chẳng định tâm lo xét quấy,
          Nhãn tiền báo-ứng dễ đâu sai.

                ***

          Đừng quá so-đo việc phú-bần,
          Bần-hàn trong sạch mới nên thân.
          Thân trau khổ-hạnh thân đừng nệ.
          Nệ khó mong chi thoát thế-trần.

                ***

          Thế trần mộng-mị có ra chi,
          Giành-giựt rồi qua hỏi được gì?
          Tích-đức gắng gìn nhơn-nghĩa trọn,
          Chông-gai xa lánh cảnh sầu-bi.

                ***

          Nợ nước hai vai nặng gánh-gồng,
          Thần dân phận-sự phải lo xong.
          Gắng công đạo-đức trau hằng bữa,
          Chiu chít đừng quên giống Lạc-Hồng.

                ***

          Ơn Trời cho mở Đạo kỳ ba,
          Dìu-dẫn nhơn-sanh lánh vạy tà.
          Ví muốn tu-thân nhồi-quả trước,
          Gắng công sau sẽ đến cùng Ta.

           

                Hết

    Top of Page

         HOME


Tài liệu này do Đạo-hữu Huỳnh Trọng đánh máy lại.