|
Phần Thứ BaTHI VĂN
|
PHẦN THI VĂN
của ĐỨC CAO THƯỢNG SANH
Trong phần nầy chúng tôi sưu tập các bài thi của Đức Ngài làm lúc còn sanh tiền. Đa số các bài thi nầy trích từ Đặc san Thông Tin của Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý Tòa Thánh Tây Ninh. Thường thì Đức Ngài lấy bút hiệu là Huệ Giác.
MINH CANG LIÊM KHIẾT
Dầu Đạo hay Đời muốn trọn nên,
Minh cang liêm khiết gắng công rèn .
Sạch trong chặc giữ phàm ra Thánh,
Chánh trực nhuần trau tục hóa Tiên .
Trí dũng ngàn năm gương tạc để,
Nghĩa nhân muôn thuở sử bia truyền .
Lánh vòng danh lợi là phương pháp,
Bốn chữ vẹn gìn hưởng phúc duyên .
HUỆ GIÁC
(Trích Thông Tin số 8, ngày 12-07-1970)
THƯƠNG NGƯỜI KHÁC THỂ
THƯƠNG THÂN.
Thương người nào khác thể thương ta,
Nhơn loại thờ chung một Đấng Cha .
Bác ái làm phương vơi nỗi khổ,
Từ bi dụng chước tạo tâm hòa .
Tránh điều đố kỵ gây thù hận,
Lập chí tương liên vững nước nhà .
Đã quyết tu hành theo Đại Đạo,
Nương nhau dìu đến Hội Long Hoa .
HUỆ GIÁC
(Trích TT số 9, ngày 27-7-1970)
ĐÊM KHÔNG NGỦ
Ánh nguyệt lờ mờ nửa phiến lu,
Ra vào trằn trọc suốt đêm thâu .
Mấy màu trời vẽ tranh ly loạn,
Ngàn dặm mây che cảnh mịt mù .
Gió phất thoảng đưa hồn tử sĩ,
Súng gào nhặc bước gót chinh phu .
Chạnh tình non nước tình đau xót,
Nghe tiếng quyên than những gợi sầu .
HUỆ GIÁC
(Trích TT số 10, ngày 11-8-1970)
ĐẠO ĐỜI TƯƠNG ĐẮC
Đạo Đời muốn vẹn nét hồn nhiên,
Chung sức vì dân lúc biến quyền .
Nương Đạo, Đời thêm vui phúc trạch,
Cứu Đời, Đạo mới phỉ lòng nguyền .
Vun bồi cội ái, Đời hưng thạnh,
Xây đắp nền nhân, Đạo thống truyền .
Đạo dụng từ bi, Đời dụng đức,
Đời nên vị Thánh, Đạo ngôi Tiên .
HUỆ GIÁC
(Trích TT số 10, ngày 11-8-1970)
TỰ THUẬT
Tuồng đời nhàm trải vẻ đai cân,
Tòng bá chọn nơi Đạo gội nhuần .
Hẩm hút muối dưa an phận khó,
Thung dung ngày tháng đắp nền nhân .
Nương thuyền độ khách qua bờ giác,
Luyện tánh tầm chơn dứt mộng trần .
Gắng khổ quyết tâm lo giải khổ,
May duyên kịp buổi hưởng hồng ân .
HUỆ GIÁC - 1958
(Trích TT số 12, ngày 10-9-1970)
Cô THẤT- NƯƠNG cho thi
Bạc tình chi lắm hỡi ai ôi!
Bảy tháng chung vui đã mất rồi .
Khi hứng trăng thơ khi gió sách,
Đèn khuya nay luống một mình thôi .
ĐỨC THƯỢNG SANH họa nguyên vận:
Phải nào bạc bẽo hỡi em ôi!
Vì phận nghĩa kia xử khó rồi .
Tuy chẳng gần nhau như buổi trước,
Lòng kia quyết giữ đến cùng thôi .
(Trích TT số 13, ngày 25-9-1970)(Chú Thích: Bà Thất Nương lúc mới đến, xướng họa thi phú với ba vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang thì bà xưng là Tứ Muội và gọi các vị trên là Đại Ca, Nhị Ca và Tam Ca)
VỊNH NGƯ ÔNG
Trời nước nghêu ngao một chiếc thuyền,
Thú câu gẫm lại thú thần tiên .
Nhắp cần thao lược dò sâu cạn,
Nương sợi kinh luân sửa mối giềng .
Vinh nhục lánh vòng tai rửa sạch,
Gió trăng nặng túi cảnh vui riêng .
Khề khà rượu Thánh qua ngày tháng,
Tránh chốn phồn hoa tránh lợi quyền .
HUỆ GIÁC
(Trích TT số 13, ngày 25-9-1970)VỊNH TIỀU PHU
Gió mát trăng thanh lộc bốn mùa,
Đổi cơm ra sức khỏi tiền mua .
Con rìu lưng giắt tài xông lướt,
Lợi thế tai ngơ nỗi được thua .
Rượu cúc rừng tòng quen thú cũ,
Khóm mai cụm trước bạn ngày xưa .
Sạch lòng lê hoác hằng no ấm,
Mặc kẻ cầu cao thế sự đua .
HUỆ GIÁC
(Trích TT số 13, ngày 25-9-1970)
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG
Việt Chủng vì chưng rõ gốc nguồn,
Đua nhau lễ giỗ Đức HÙNG VƯƠNG .
Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương .
Văn Hiến tạo nền còn chói rạng,
Lạc Hồng roi giống há khinh thường ?
Hềm đang tranh chấp chia bờ cõi,
Cầu nguyện Bắc Nam hiệp nhứt phương .
HUỆ GIÁC
(Trích TT số 26, ngày 20-4-1970)
Cô ĐOÀN NGỌC QUẾ cho thi
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài .
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài .
Dưỡng sanh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai .
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai .
Ông CAO HOÀI SANG họa
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai,
Nông nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài .
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách chương đài .
Những ngờ duyên thắm trao phòng bích,
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai .
Một giải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai .
Trích TT số 28, ngày 19/ 5/ 1970
Ông CAO HOÀI SANG xướng:
Sầu dài ngày vắng dễ chi vui,
Toan tính thâu đêm ruột rối nùi .
Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi .
Bước đường danh lợi thêm gay trở,
Ngảnh lối tang thương luống ngậm ngùi .
Lần lựa xuân hè năm tháng lụn,
Thôi thôi đến thế, thế thì thôi .
Cô ĐOÀN NGỌC QUẾ họa nguyên vận:
Chung tình đoạn gánh khó làm vui,
Lần gỡ chưa xong chỉ rối nùi .
Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt rạng,
Hương thề nay thả giữa dòng trôi .
Kim rời cải rụng lòng ngao ngán,
Đá nát vàng phai dạ ngậm ngùi .
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi .
Ngày 4/8/ Ất Sửu (dl 21/ 9/ 1925)
TÂM SỰ
Chất mối sầu tư ruột nát bầm,
Thời thôi đành phải giả làm câm .
Thiệt thòi cam chịu mình đau xót,
Tranh cạnh để chi kẻ hiểu lầm .
Hắc bạch phú cho vầng nhựt nguyệt,
Thị phi chờ thoát bóng quang âm .
Sóng trần bể khổ mây mờ mịt,
Nghĩ nỗi gần xa lệ ứa dầm .
THƯỢNG SANH tự HUỆ GIÁC
(Trích TT số 29, ngày 2/ 6/ 1971)
TỰ THÁN
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình.
Tà mị phàm rung rinh Thánh chất,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng,
Nay Bửu Đình hiu quạnh lụy nhìn.
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu,
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.
ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
HỌA VẬN
Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay ngó rập rình .
Trước Điện lai rai ba chú Đạo,
Sau hiên meo mốc mấy pho Kinh .
Rừng xơ vẻ thắm chim khôn đỗ,
Cảnh cũ màu xanh khách biếng nhìn .
Rường cột Đạo mầu bao thuở dựng,
Sụt sùi để bước khó làm thinh .
ĐỨC CAO THƯỢNG SANH
CẢM PHI LONG CÔNG CHÚA .
Giềng mối giữ an phận liễu bồ,
Dặm ngàn xa phải chịu thân cô .
Phiền gan ngẩn chạnh tình chăn gối,
Ứa lệ buồn trông bước Hớn Hồ .
Duyên nợ vẹn đền toan dạ gắng,
Hận thù chung trả trọn lòng thờ .
Phiên thành tạc để danh trung hiếu,
Điên đảo khiến rời rã tóc tơ .
HUỆ GIÁC
(Thuận nghịch đọc)
(Trích TT số 36, ngày 14 /9/1971)
HOÀI HỮU
(gởi bạn THUẦN ĐỨC) .
Xa xuôi chiều ngóng mấy vầng mây,
Thắt thẻo dường như nhạn lạc bầy .
Vắng khách cảnh còn xơ xác quạnh,
Chờ người sầu vẫn chập chồng xây .
Chuông ngân luống nhắc lời giao ước,
Trống giục càng mong buổi hiệp vầy .
Đợi bạn thuyền từ chưa tách bến,
Nhớ nhau xin cạn chút niềm tây .
HUỆ GIÁC -19/ 12/ Kỷ Hợi (17/ 1/ 1971)
(Trích TT số 37, ngày 28 /8/ 1971 )
HỌA VẬN
Xuôi ngược thêm buồn hội nước mây,
Trời sương ảm đạm nhạn kêu bầy .
Mơ hồn hồ điệp đêm trăng lạnh,
Thương cái dã tràng bãi cát xây .
Năm tháng chưa phai lời ước hẹn,
Tẻ vui còn nhớ buổi sum vầy .
Chỉ vì lan tất không duyên hợp,
Mảng đứng bờ đông vọng bến tây .
THUẦN ĐỨC
Ông BẢO PHÁP (THUẦN ĐỨC)
gởi lên Ngài THƯỢNG SANH ( HUỆ GIÁC)
CẢM THUẬT
Tuy xa nguồn Đạo tác phong còn,
Trăm giũa ngàn mài một tấm son .
Thuyền sớm ra khơi quày lại bến,
Chim chiều bạt gió hướng về non .
Trông lui chưa toại công ti tí,
Nghĩ tới buồn cười chuyện cỏn con .
Cúi ngửa giữ cho lòng khỏi thẹn,
Mặc ai toan bóp méo ra tròn .
HỌA NGUYÊN VẬN
Còn sống đâu quên nhiệm vụ còn,
Bến mê độ khách tạc lòng son .
Tuồng Đời đã trải nhiều đau khổ,
Nợ Đạo toan đền rạng nước non .
Nhường nhịn gắng qua cơn khảo lớn,
Ngược xuôi mong vững chiếc thuyền con .
Ơn Trên xây chuyển xin cầu nguyện,
Hòa hiệp đệ huynh nghĩa vẹn tròn .
HUỆ GIÁC
7/12/1959
MƯA THU
Tịch mịch mây bay cuốn bóng thiều,
Trời thu ướt át cảnh buồn hiu .
Canh thâu rúc rắc mưa tuôn nhặc,
Ngày vắng xơ rơ gió thổi vèo .
Sương phủ rừng thiền cành lá đổ,
Gương mờ cung quế mảnh trăng treo .
Lầu gần đêm vẳng hồi chuông điểm,
Chạnh nỗi niềm riêng ruột chín chiều .
HUỆ GIÁC
ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
giáng cơ:
Đổi tục về Tiên sắc đượm nhuần,
Rưới chan cho khắp giọt hồng ân .
Rừng tòng thanh nhã say mùi Đạo,
Bể khổ mênh mang vớt khách trần .
Linh dược đầy bầu là cội ái,
Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân .
Buồm trương lái vững chờ sông Lệ,
Đưa chiếc thuyền Sen dựa đảnh thần .
(Trích TT số 97 ngày 26 /4/ 1974)
CAO THƯỢNG SANH
họa nguyên vận
Hứng giọt nhành dương đã gội nhuần,
Sao cho xứng đáng hưởng Thiên ân .
Lóng chuông cảnh tỉnh tan niềm tục,
Dìu khách phồn hoa lánh bể trần .
Từ ái là nền xây cảnh trí,
Nâu sồng luyện tánh đắp non nhân .
Xôn xao bến huệ trương buồm hạnh,
Mượn sức huyền linh đến bến thần .
ĐỨC THƯỢNG SANH đến thăm
ĐỨC HỘ PHÁP bị đồ lưu 5 năm,
mới về Tòa Thánh
ngày 4 tháng 8 Bính Tuất ( 30/ 8/ 1946)
CẢM TÁC:
Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người .
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp bạn nầy khi khóc lộn cười .
Nguồn Đạo xưa trông đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi .
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời .
HUỆ GIÁC
HỌA NGUYÊN VẬN
Sắc son nhuộm tánh đượm màu tươi,
Hay dở khen chê để miệng người .
Đày đọa xét thân không hổ thẹn,
Sang vinh nghĩ phận quá buồn cười .
Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,
Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi .
Ước trả mảy may ơn xả tắc,
Nợ muôn đền một kể chi lời .
ĐỨC HỘ PHÁP
LUẬT PHÁP CHƠN TRUYỀN
Thánh giáo bảo tồn thất ức niên,
Nhờ nơi Luật Pháp hiệp Chơn Truyền .
Tuân hành đúng mức đường tu vững,
Tự tác sai chiều bước Đạo nghiêng .
Lướt khổ đã mong hồi cựu vị,
Gieo nhân há để vướng tà quyền .
Thiên điều tại thế nên tôn trọng,
Vẹn phận ngàn thu hưởng phúc duyên .
CAO THƯỢNG SANH
TT số 101, tháng 7/ 1974
TỨC SỰ
Lui tới kinh thành lối ngựa xe,
Đỉnh chung xạo xự ngán như chè .
Giọng kình tỉnh thế lay hồn bướm,
Tiếng quốc gào hôm động giấc hòe .
Chẳng thích buộc ràng nơi gác tía,
Chỉnh ham thong thả chốn rừng tre .
Chí mong lánh khỏi vòng nhân sự,
Muôn dặm đường Tiên chắp cánh sè .
HUỆ GIÁC
TT số 102 ngày 14/7/ 1974
Ông BẢO PHÁP Nguyễn Trung Hậu
Đạo hiệu THUẦN ĐỨC Qui Tiên .
ĐIẾU BẠN
BẢO PHÁP CHƠN QUÂN đã lánh trần,
Nương về cựu vị cảnh đài vân .
Trường đời tuy vắng hình tri kỷ,
Cửa Thánh còn mơ dạng cố nhân .
Nhớ tiếc đức tài trau vẹn đủ,
Chạnh thương tà chánh định cân phân .
Bao nhiêu công khó vun nền Đạo,
Kim Khuyết xin tròn hưởng huệ ân .
HUỆ GIÁC
TT số 102 ngày 14/ 7/ 1974
THUẦN ĐỨC về Tiên đã thảnh thơi,
Tấm thân bảy thước trả cho đời .
Túi văn Đạo Đức đành chôn chặt,
Ngọn bút thần cơ vội gãy rơi .
Trêu thảm ngậm sầu khi thức ngủ,
Mưa chiều nắng sớm lệ đầy vơi .
Mấy năm hội hiệp ngàn năm biệt,
Bạn hỡi hồn linh chứng mấy lời .
CAO THƯỢNG SANH
10/ 9/ Tân Sửu 1961
KHÓC NGÀI BẢO VĂN PHÁP QUÂN
Nhìn lại Trung Tông cảnh đượm sầu,
CAO QUÂN VĂN PHÁP có còn đâu .
Dìu đời cửa Thánh đương mong đợi,
Thoát tục non Tiên vội đến chầu .
Ủ dột rừng tòng xơ xác cảnh,
Rơi tan khối ngọc sụt sùi châu .
Lời vàng trau đổi từ đây dứt,
Giấc mộng họa chờ gặp gỡ nhau .Đã từng cực nhọc đắp nền nhân,
Chưa toại ước mong vội lánh trần .
Đau khổ trả xong trường thế sự,
Nghiệp công ghi tạc chốn Đài vân .
Tiếng cầm ấp lỗ đương êm ái,
Ngọn bút thần cơ đã đoạn phân .
Vì Đạo mấy muơi năm tận tụy,
Nghìn thu lưu mãi nét tinh thần .
THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG
TT số 103 ngày 23 /7/ 1974
TIỄN HÀNH
hai vị CHỨC SẮC đi truyền Đạo
MIỀN BẮC và TRUNG
Chia đường tạm biệt buổi hôm nay,
Đi, ở dường khêu mối cảm hoài .
Trời Bắc gắng khua chuông cảnh tỉnh,
Cõi Trung gìn giữ trí anh tài,
Soi gương đạo nghĩa nêu tâm chánh .
Dìu dắt phồn hoa trải tiết ngay,
Non nước sẵn cầm tay tạo khách,
Ra công cho xứng phận làm trai .
HUỆ GIÁC
TIỄN HÀNH KHÂM TRẤN ĐẠO BIÊN HÒA
Giáo Sư Thượng Cảnh Thanh.
Rồi đây Khâm Trấn bước lên voi,
Đáo nhậm Biên Hòa thấy có mòi .
Bổn Đạo hoan nghinh vang tiếng trống,
Đồng bào tiếp đón dội hơi còi .
Noi gương Thánh đức tiền nhân nối,
Truyền giáo Cao Đài hậu thế roi .
Bốn biển như nhà quân tử chí,
Công thành danh toại đáng vàng thoi .
HIẾN PHÁP TRƯƠNG HỮU ĐỨC
HỌA VẬN
Hành Đạo đâu cần dụng ngựa voi,
Miền Đông Khâm Trấn đã nên mòi .
Kinh luân rộng mở vun nền Thánh,
Hòa ái bền giao nhặc tiếng còi .
Gắng chí độ đời danh tạc để,
Tận tâm dìu chúng sử truyền roi .
Công thành Thiên vị thêm cao trọng,
Hơn được vàng cân nặng mấy thoi .
CAO THƯỢNG SANHTHI
Dòng trôi người của cũng tiêu đồng,
Tự tỉnh trường tu gắng để công .
Bờ giác lần theo vầng nguyệt rạng,
Bến mê dập tắt mảnh hương nồng .
Đạo mầu sớm học noi gương Thánh,
Đảnh túy sau vui dựa nệm Bồng .
Giành giựt mà chi rồi phủi sạch,
Tuồng đời nhìn thấy những đau lòng .
CAO THƯỢNG SANH
TT số 113 ngày 23 / 12 / 1974
THI XUÂN
Thanh thoát rừng thung tiếng gió ngàn,
Muôn hồng ngàn tía báo Xuân sang .
Xung xăng khóm liễu khoe cành biếc,
Hớn hở vườn mai điểm nhụy vàng .
Chan rưới ân hồng Trời đổi sắc,
Phô trương cẩm tú đất thay màn .
Thái bình chung hưởng cầu trăm họ,
Đời Đạo trùng hưng trọn vẻ vang .
CAO THƯỢNG SANH
TT số 116 ngày 7 /3/ 1975
KHUYẾN TU
Trước làm Tiên Phật phải làm người,
Muốn đặng làm người chẳng phải chơi.
Bác ái ví chưa tròn bước Đạo,
Từ bi đâu vẹn chí thương Đời.
Mùi trần dầu thoát bao vòng lụy,
Bể khổ còn qua mấy dặm khơi.
Trau rạng lòng son sanh chúng độ,
Thênh thang nương bóng ngọn đèn Trời.
HUỆ GIÁC (1948)
(Trích TT số 98, ngày 16-5-1974)
ĐIỆU SONG THANH
Xẩn bẩn trời mơi kế xế chiều,
Sầu đâu chất ngất cứ đeo theo.
Xa nhà bát ngát lòng trông mãi,
Quạnh cảnh xơ rơ trí nghĩ nhiều.
Lách tách mưa thưa đêm bứt rứt,
Bùi ngùi trống gióng tiếng đìu hiu.
Âm thầm tự sự ai hay biết,
Lật bật đông phong tối thổi vào.
CAO THƯỢNG SANH (15-11-58)
(Trích TT số 98, ngày 16-5-1974)
TRÒ ĐỜI
Thế thường khinh nghĩa trọng tiền tài,
Hễ thấy hơi đồng chực mó tay.
Không bạc túi, dầu tròn cũng méo,
Sẳn tiền lưng, thật dở ra hay.
Tham vàng hại chúng đời ly loạn,
Cứu khổ dìu người Đạo chuyển xoay.
Nhắn kẻ tu hành nên vẹn phận,
Đừng mê của quấy, đọa hình hài.
HUỆ GIÁC (4-3-Canh Tuất- 1970)
(Trích TT số 98, ngày 16-5-1974)
AI ĐIẾU BẢO ĐẠO
Cỡi hạc anh đà tách dặm tây,
Từ nhau oằn oại gánh tình nầy.
Muôn lằn sóng thảm nơi trần tục,
Ngàn dặm bước nhàn tách gió mây.
Cõi thọ anh nương theo huệ bóng,
Thân phàm em trẻ chịu chia bầy.
Vui buồn sớt thảm ơn xưa tạc,
Càng nhớ càng sầu khó giải khuây.
PHAÏM HỘ PHÁP
HỌA NGUYÊN VẬN
Hoàng hôn ác lặn xế non tây,
Cách trở xui chi cảnh thảm nầy.
Độ chúng xưa từng chia gánh khổ,
Lìa trần nay vội tách đàng mây.
Rừng thiêng ngắm chạnh nhà chinh bóng,
Đảnh túy buồn trông én tách bầy.
Lau lụy ít hàng xin kỉnh điếu,
Tình nồng bao thuở dạ đâu khuây.
CAO THƯỢNG SANH
(Trích từ quyển Tiểu Sử Đức Q. Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt)
- HẾT -
SƯU TẦM & CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ
NỘI DUNG :
HT Hồ Xưa , HT Mai Văn Tìm
ĐÁNH MÁY :
Ban Thế Đạo Tiểu Bang Washington -
Hoa Kỳ