HỘI NHƠN SANH
Ðể tiện việc tham khảo phần trên đây được thêm vào. Nguyên bản chánh không có.
HỘI NHƠN SANH
Các hạng Ðại Biểu. Cũng như cái tên của nó đã chỉ, Hội nầy gồm các Ðại Biểu của Nhơn sanh trực tiếp bầu cử.
Làm đầu Nhơn sanh là Lễ Sanh, nên Ðại Biểu của Nhơn sanh kể từ phẩm Lễ Sanh trở xuống gồm có:
1. Chư vị Lễ Sanh, Ðầu Tộc Ðạo.
2. Nghị viên, tức là Ðại Biểu gián tiếp của Nhơn sanh. Ba vị mỗi Tộc Ðạo:
-
Một Chánh Trị Sự (Tất cả Chánh Trị Sự trong Tộc Ðạo xúm nhau công cử một người).
-
Một Phó Trị Sự (Tất cả Phó Trị Sự trong Tộc Ðạo xúm nhau công cử một người).
-
Một Thông Sự (Tất cả Thông Sự trong Tộc Ðạo xúm nhau công cử một người).
3. Phái viên, tức là Ðại Biểu trực tiếp của Nhơn sanh. Cứ 500 Tín đồ trường trai công cử ra một Ðại Biểu gọi là Phái viên.
Số Nghị viên và Phái viên nam phái thế nào, thì bên nữ phái cũng đồng số với nhau, theo qui tắc.
Hạn lệ nhiệm kỳ. Mỗi Nghị viên và Phái viên có nhiệm kỳ 3 năm. Ðến năm thứ tư thì tổ chức cuộc tuyển cử lại. Thảng trong thời gian ba năm đó, có người chết hoặc vì lẽ gì không thể đi dự hội, phải cử người khác thay thế trong hạn lệ của nhiệm kỳ.
ÐIỀU KIỆN TUYỂN CHỌN ÐẠI BIỂU HỘI NHƠN SANH
Như trên vừa nói, thì không có điều kiện chi quá đáng, đại khái có mấy điều như sau:
-
Phải là Tín đồ Cao Ðài Giáo thuộc Tòa Thánh Tây Ninh.
-
Phải trường trai.
-
Không phân biệt nam, nữ.
-
Phải trên 18 tuổi, là hạng tuổi đem tên vào bộ chánh của Ðạo.
Xem các điều kiện trên đây thì sự tuyển chọn Ðại biểu tùy theo địa phương và tỉ lệ nhơn số Tín đồ trong mỗi địa phương (élection par loccalité et élection proportionnelle).
Khi đã đắc cử rồi, mỗi Nghị viên và Phái viên Hội Nhơn Sanh chụp 3 tấm hình giao cho Khâm Châu Ðạo gởi về Tòa Nội Chánh (Lại Viện): (cỡ hình dán căn cước 4x6).
-
Một gắn vào Giấy Chứng Nhận Nghị viên, hoặc Phái viên.
-
Một gắn vào Bộ Nghị viên và Phái viên Hội Nhơn Sanh.
-
Một lộng khuôn để tại nhà nhóm.
Cả Nghị viên và Phái viên nơi Châu Ðạo hội nhóm lại nhằm ngày Rằm tháng Chạp, hiệp cùng chư Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu trong địa phương mình thảo luận chương trình của Hội Nhơn Sanh và lấy quyết nghị chung. Vi Bằng cuộc hội nhóm nầy làm 3 bổn, giao cho các Ðại Biểu 1 bổn, lưu chiếu 1 bổn, còn 1 bổn gởi về Lại Viện trước ngày khai mạc Hội Nghị.
Các Nghị viên và Phái viên lãnh một Tờ Chứng Nhận tạm của Chức Sắc địa phương sở tại, khi về đến Tòa Thánh Tây Ninh, vào trình diện tại Văn Phòng Lại Viện (Tòa Nội Chánh) đặng đổi Giấy Chứng Thiệt Thọ và ghi tên vào sổ để tiện việc sắp đặt trật tự. Hạn lệ phải đến Tòa Thánh ít nhứt hai ngày trước ngày mở Hội, nghĩa là phải đến Tòa Thánh vào ngày 13 tháng Giêng và lưu lại đến ngày Hội bế mạc. Nếu vô cớ đến trễ thì không được dự hội. Còn trong thời gian hội họp mà vô cớ không đến nhóm hội thì:
Các năm sau, chư Nghị viên và Phái viên nhớ đến lệ thì về nhóm chớ không có thơ mời, nhớ đem Giấy Chứng Nhận theo mới đặng nhập Hội.
Ngày nào từ giã Tòa Thánh, phải trình ghi Giấy Thông Hành tại Tòa Nội Chánh (Lại Viện).
Mỗi năm, vào ngày 1 tháng Chạp thì Nghị Trưởng gởi chương trình những vấn đề sẽ đem bàn cãi cho các Châu Ðạo. Nơi Châu Ðạo nhóm ngày Rằm tháng nầy (Chạp) đem ra bàn cãi, xem xét trước cho kỹ lưỡng.
Nghị viên nào muốn xin canh cải, thêm bớt, hủy bỏ điều chi trong Luật Ðạo, hay điều chi khác nữa thì phải gởi Tờ xin phép Nghị Trưởng hai mươi (20) ngày trước Ðại Hội và phải nói rõ mình muốn xin canh cải, thêm bớt, hoặc hủy bỏ điều chi.
TƯ CÁCH CỦA CHƯ HỘI VIÊN
a) Y phục: Nếu là Chức sắc hay Chức việc thì mặc Ðạo phục, nếu là Tín đồ vào hạng Phái viên thì mặc thường phục (áo dài trắng khăn đen).
b) Khi đứng ngồi: Phải thủ lễ, ngồi ngay ngắn không nên dựa nghiêng, dựa ngữa, không được ăn trầu, hút thuốc.
Ðương nhóm mà vị nào có việc cần ra ngoài, phải xin phép Nghị Trưởng, xong rồi trở vô liền.
c) Khi nói năng: Khi Nghị viên đương nói mà có vẻ nổi giận, Nghị Trưởng rung chuông ngăn lại, đặng khuyên giải. Nếu không vâng lời, Nghị Trưởng hỏi ý kiến các Nghị viên, nếu phần đông đồng ý kiến, thì Nghị Trưởng mời vị đó ra khỏi Hội.
Khi một Nghị viên đương nói, các người khác phải im lặng nghe, chẳng nên xen vào làm đứt đoạn.
Khi vị nào mặt có sắc giận dữ, xin phép nói đặng tỏ ý giận của mình, Nghị Trưởng có quyền không cho phép nói.
Tóm lại, tất cả Nghị viên phải tuân y "Luật lệ chung của các Hội".
BIỂU QUYẾT CÁC VẤN ÐỀ
Có hai cách biểu quyết:
-
Gặp việc quan trọng cần yếu thì phải bỏ thăm kín.
-
Gặp việc thường thì quyết nghị bằng cách giơ tay lên.
Với cách thứ nhứt, hay cách thứ nhì, Quyết nghị các Hội vẫn lấy thái bán số thăm làm quy tắc, nghĩa là bên nào được một lá thăm nhiều hơn bên kia là thắng số và vấn đề ấy được công nhân hay bác bỏ.
Thảng như số thăm thuận và thăm nghịch đồng nhau, Nghị Trưởng đồng ý kiến với bên nào, thì bên đó thắng số.
Vấn đề thường hay trọng yếu nào có một phần ba (1/3) số Nghị viên hiện diện xin bỏ thăm kín, thì Nghị Trưởng cho lịnh y theo.
TỔ CHỨC HỘI NHƠN SANH
Chiếu theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ tư, điều thứ tư của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (Ðệ Ngũ Niên) thì Thượng Chánh Phối Sư làm Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh.
Vậy, Hội Nhơn Sanh sắp đặt như sau:
-
|
Thượng Chánh Phối Sư : |
Nghị Trưởng. |
-
|
Nữ Chánh Phối Sư : |
Phó Nghị Trưởng. |
-
|
Lễ Sanh, |
Hội Viên. |
|
Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự
và Phái viên: |
Nghị Viên hay Hội Viên. |
-
|
Một Nghị Viên Nam
Một Nghị Viên Nữ: |
Từ Hàn. |
-
|
Hai Nghị Viên Nam
Hai Nghị Viên Nữ: |
Phó Từ Hàn. |
Ngoài ra chư vị Ðại Biểu của Nhơn sanh trên đây còn có:
1. CỬU TRÙNG ÐÀI
a) Thái và Ngọc Chánh Phối Sư.
b) Chư vị Chức Sắc Ðại Thiên Phong cầm quyền Cửu Viện Nội Chánh đến dự Hội để trả lời những điều nào Nghị viên không rõ xin bày tỏ, hoặc minh triết những vấn đề Nghị viên chất vấn.
Nếu có một vấn đề thuộc Viện nào bị chỉ trích thì Chánh Phối Sư hay Thượng Thống Viện đó phải giải thích cho rõ ràng và bày tỏ đủ lý lẽ để khỏi sanh điều khó khăn cho việc bàn cãi và giúp chư Nghị Viên giải quyết dễ dàng nhanh chóng.
c) Dự thính: Cả Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu không đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh, được thong thả đến Tòa Thánh nhập Hội, nhưng chỉ được dự thính mà thôi. Nơi nhà nhóm có sắp đặt chỗ ngồi riêng cho những vị nầy.
2. HIỆP THIÊN ÐÀI
Một Chức sắc Hiệp Thiên Ðài (thường thì có vị Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh và các Ty Pháp Chánh địa phương) đến chứng kiến và bảo thủ luật lệ không cho Hội phạm đến.
PHẬN SỰ CỦA HỘI NHƠN SANH
Hội Nhơn Sanh nhóm để bàn cãi những việc nầy:
-
Giáo hóa Nhơn sanh.
-
Liệu phương hay cho Ðạo với Ðời khỏi phản khắc nhau, và nâng cao tinh thần trí thức của Nhơn sanh.
-
Phổ Ðộ Nhơn sanh vào cửa Ðạo, dìu dắt Tín đồ cho khỏi trái bước và trọn dâng theo các luật lệ của Ðạo.
-
Xin sửa cải, thêm bớt hay hủy bỏ những luật lệ của Nhơn sanh.
-
Lo cho nền Ðạo được trong ấm ngoài êm và đủ phương tiện đặng phổ thông nền Chơn Giáo.
-
Xem xét và công nhận phương diện Chánh trị của Ðạo, quan sát sổ thâu xuất, tài sản, nghị số phỏng định năm tới.
NƠI NHÓM HỌP
Ðại Hội Nhơn Sanh nhóm nơi nhà nhóm riêng tại Tòa Thánh.
THỜI KỲ LÀM VIỆC CỦA ÐẠI HỘI NHƠN SANH
Ðại Hội Hội Nhơn Sanh mỗi năm nhóm lệ một lần, khai mạc vào ngày Rằm tháng Giêng.
Khi có việc chi thiệt trọng hệ thì được phép nhóm ngoại lệ Ðại Hội tại Tòa Thánh mỗi năm một kỳ mà thôi. Như vậy, thì thiệp mời phải gởi đến trước 15 ngày, hoặc điện tín thì phải gởi trước 3 ngày.
Trước bữa Ðại Hội mà nam nữ sẽ nhóm chung nhau, Thượng Chánh Phối Sư hoặc Nữ Chánh Phối Sư có điều chi phải hỏi ý kiến riêng Hội viên phái mình thì được quyền mời nhóm (Nam theo Nam, Nữ theo Nữ).
Kỳ nhóm nầy Từ Hàn phái nào theo phái nấy, lập Vi Bằng 2 bổn, Nghị Trưởng và Từ Hàn ký tên (1 bổn để lưu chiếu, còn 1 bổn thì Chánh Phối Sư nam gởi cho Chánh Phối Sư nữ, còn Chánh Phối Sư nữ thì gởi cho Chánh Phối Sư nam), hầu hiểu rõ những điều của mỗi phái bàn tính.
LỄ KHAI MẠC ÐẠI HỘI
Trước giờ mở Hội, thì Nghị Trưởng phái vài Hội viên đi rước Giáo Tông và Hộ Pháp đến dự lễ.
Khi nhị vị Ðại Thiên Phong nầy đến thì Lễ Viện cho nhạc trổi tiếp mừng. Chánh, Phó Nghị Trưởng, Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài và Nội Chánh nam, nữ ra cửa đón rước. Toàn thể Hội Viên đứng dậy, chờ cho nhị vị an tọa rồi mới ngồi xuống sau.
Giáo Tông ngồi ghế Chủ Tọa, bên tay mặt thì Hộ Pháp, bên tay trái Nghị Trưởng.
Giáo Tông đọc bài Diễn văn khai mạc, Hộ Pháp chú giải những khoản Luật Pháp mà Hội không hiểu rõ. Kế đó, Nghị Trưởng đọc bài Diễn văn trình bày chương trình nghị sự.
Xong rồi nhị vị Ðại Thiên Phong trên đây ra về. Lễ đưa sắp đặt cũng như lễ rước, nghĩa là Nghị Trưởng, Phó Nghị Trưởng đưa ra tới cửa, chư vị Hội Viên đứng dậy chào như lúc đến.
Lễ Khai mạc Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh giống như nhau, chỉ khác có nơi nhóm họp mà thôi.
BAN ỦY VIÊN
Sau khi khai mạc Ðại Hội, Nghị Trưởng trình bày chương trình nghị sự, xong rồi thì toàn Hội chọn cử ra các Ban Ủy Viên ngánh theo Phái đặng tùy phương diện thảo luận các vấn đề cho cặn kẽ thấu đáo.
Có 4 Ban Ủy Viên:
-
Phái Thái.
-
Phái Thượng.
-
Phái Ngọc.
-
Phái Nữ.
Mỗi Ban Ủy Viên gồm có:
-
Một Nghị Trưởng.
-
Một Phúc Sự Viên.
-
Số Nghị Viên còn lại chia đều cho các Ban.
Mỗi khi bàn định điều chi rồi thì Phúc Sự Viên tóm tắt lại, lập Tờ Phúc đệ ra Ðại Hội nghị quyết.
Ban Ủy Viên khi nhóm thì mặc Ðạo phục thường dùng hằng ngày.
VIỆC TRẬT TỰ
Một vị Lễ Sanh Phái Ngọc lãnh phần Cai quản cơ Tuần phòng Bảo Thể Quân, mặc Thiên phục, buộc dây Sắc Lịnh tam sắc Ðạo của Hiệp Thiên Ðài ban cho trong lúc hội nhóm. Khi Hội giải tán thì đem nạp lại cho Hiệp Thiên Ðài.
SAU KHI HỘI NHÓM
Hai mươi ngày (20) sau khi hội nhóm bế mạc, Từ Hàn phải lập Vi Bằng cho rồi, trong đó Nghị Trưởng, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam, nữ và một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ký tên vào.
Vi Bằng nầy phải lập ra năm bổn:
-
Một bổn gởi cho Thượng Hội.
-
Hai bổn gởi cho Hội Thánh.
-
Một bổn gởi cho Hiệp Thiên Ðài.
-
Một bổn lưu chiếu.
Khi Thượng Hội và Hội Thánh gởi trả lại ba bổn với những lời phê công nhận hay bác bỏ khoản nào thì Thượng Chánh Phối Sư giữ một bổn, một bổn gởi cho Nữ Chánh Phối Sư, một bổn gởi cho Ngọc Chánh Phối Sư đặng cho hai vị đó thi hành.
HỘI NGÁNH THƯỜNG XUYÊN HỘI NHƠN SANH
Mục đích của Hội Ngánh thường xuyên tại Tòa Thánh nầy là bàn tính các điều ngoại chương trình nghị sự của Ðại Hội và các việc trọng hệ xảy ra thình lình, nhứt là việc Chánh Phối Sư, hoặc Chức Sắc nào mà Hội Thánh ủy quyền cho giao thông với Chánh Phủ.
Hội Ngánh thường xuyên Hội Nhơn Sanh gồm có:
|
Nghị Trưởng. |
|
Phó Nghị Trưởng. |
- Từ Hàn Nam của Ðại Hội & Từ Hàn Nữ của Ðại Hội
|
Từ Hàn |
- Phó Từ Hàn Nam của Ðại Hội & Phó Từ Hàn Nữ của Ðại Hội
|
Phó Từ Hàn |
- Sau khi bế mạc Ðại Hội, mỗi Tỉnh chọn trong hàng Nghị viên của mình một người Nam, một người Nữ để thường xuyên tại Tòa Thánh (Nam Tông Ðạo hay các Tông Ðạo Ngoại Giáo cũng vậy).
|
Nghị viên |
- Chức Sắc Nội Chánh, Chưởng Quản các Viện tùy theo việc bàn tính
|
Ðại diện Cửu Trùng Ðài |
- Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài
|
Ðại diện Hiệp Thiên Ðài |
NGÀY GIỜ LÀM VIỆC
Hội Ngánh thường xuyên Hội Nhơn Sanh nhóm mỗi năm ba kỳ, (bốn tháng một kỳ).
SAU KHI HỘI NGÁNH THƯỜNG XUYÊN NHÓM
Mười ngày (10) sau ngày bế mạc Hội Ngánh, vi bằng phải lập xong và làm y như Ðại Hội. Chánh, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam, nữ, với một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ký tên vào Tờ Vi Bằng ấy.
BAN ỦY VIÊN XEM XÉT TÀI CHÁNH
Hội Ngánh thường xuyên chọn ba (3) vị Nghị Viên nam, và ba (3) Nghị Viên nữ lập thành một Ban Kiểm Soát Tài Chánh.
Trước ngày khai mạc thường lệ của Hội Ngánh thường xuyên, Ban Kiểm Soát nầy đến xem xét sổ sách của Hộ Viện, lập Tờ Phúc Trình đệ ra giữa Hội thảo luận.
NGỤ SỞ CỦA NGHỊ VIÊN THƯỜNG XUYÊN
Hội Thánh cắt đất trong châu vi Tòa Thánh chia cho các Tỉnh cất nhà cửa hoặc cơ sở vĩnh cữu đặng cho người Ðại Biểu của tỉnh mình ở thường xuyên gần Tòa Thánh, đó là phần của các Tỉnh thuộc Việt Nam.
Còn riêng các nước lân bang, Hội Thánh cất nhà khách đặng đón rước và làm nơi lưu trú cho chư Nghị Viên thuộc các nước đó. Về quyền hạn Ðại Biểu, họ vẫn đồng quyền như các Nghị Viên sở tại vậy.
TRÁCH VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA HỘI NHƠN SANH
Quyền Vạn Linh có ba Hội làm cơ quan như trên đã nói: Quyền Vạn Linh đối với Quyền Chí Linh, cũng như câu "Ý dân là ý Trời", cho nên Nhơn sanh có quyền hạn rất rộng rãi trong nền Chơn Giáo của Ðức CHÍ TÔN. Có như vậy ta mới thấy được mặt cân công bình Thiêng liêng tại thế.
I. Trách vụ Lập Pháp
Hiến Pháp của Ðạo tức là Pháp Chánh Truyền do CHÍ TÔN truyền xuống, bằng huyền diệu cơ bút, là một bộ Hiến Pháp bất di, bất dịch, bất khả xâm phạm (cang tánh Hiến Pháp).
Vậy thì quyền Lập Pháp nay, là lập các luật lệ thường thức đặng thi hành Pháp Chánh Truyền, khép mình vào khuôn viên Ðạo, để có thể đi trọn vẹn con đường phổ độ của Ðức CHÍ TÔN một cách sáng suốt, minh mẫn và trong sạch.
Tất cả ý nguyện của Nhơn sanh đề nghị, qua sự xem xét của Hội Thánh và Thượng Hội, được dâng lên xin quyền CHÍ TÔN phê chuẩn, tức nhiên thành Luật Lệ, ban hành trong toàn Ðạo.
Một đề nghị nào do ý nguyện của Nhơn sanh đưa ra ba Hội thay nhau thảo luận và chấp thuận, thì đã thành ra ý nguyện chung của ba Hội, mà ba Hội là Cơ quan của quyền Vạn Linh, tức nhiên ý nguyện đó thành ra ý nguyện của Vạn Linh rồi, cho nên Luật Lệ lập thành do ý nguyện của Vạn Linh là tượng trưng ý chí chung của toàn vạn loại, để ấn định quyền hạn của toàn Ðạo và tổ chức quyền chánh trị chung toàn Ðạo.
Nhơn sanh được tự do đề nghị và thảo luận thế nào cho đúng hợp với trình độ tiến hóa của Nhơn loại và thích nghi với khắp các địa phương.
Trách vụ lập pháp của Nhơn Sanh có thể chia ra:
a. Quyền sáng kiến: Lập pháp của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, CHÍ TÔN cho Nhơn sanh được tự lập để khép mình vào cái khuôn khổ do mình tạo ra, vì cớ Nhơn sanh được đưa đề nghị lập những Ðạo Luật mới, tùy theo sự tấn triển của nhơn trí. Các dự án Luật đó phải gởi trước một bổn đến vị Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh đặng vị nầy đem vào chương trình nghị sự giữa Ðại Hội Nhơn Sanh (Droit d'initiative).
b. Quyền phủ quyết: Thảng có điều luật nào không còn thích hợp với phong hóa, có thể cản trở bước đường đạo đức của toàn Ðạo, Nhơn sanh được quyền xin hủy bỏ (Droit de véto).
c. Quyền phúc quyết: Chia làm hai loại:
1. Phúc quyết thăm dò: Hội Thánh có thể đưa ra một dự án luật cho Nhơn sanh bàn cãi trước khi lập thành điều luật thiệt thọ.
2. Phúc quyết thừa nhận: Cũng có nhiều điều luật do Hội Thánh ban hành trong vòng một năm từ ngày Ðại Hội năm trước, tới kỳ nầy đem ra cho Nhơn sanh xem xét coi điều luật đó trong khi thi hành đã làm lợi cho Nhơn sanh hay là làm hại. Thảng đã làm lợi và còn thích hợp thì Nhơn sanh thừa nhận, để còn đủ hiệu lực. Bằng không, xin hủy bỏ. Trường hợp nầy, quyền phúc quyết thành ra quyền phủ quyết.
II. Trách vụ kiểm soát chánh trị
Trách vụ kiểm soát nền chánh trị của Hội Nhơn Sanh có nhiều khoản:
1. Quyền tuyển cử: Trong cửa Ðạo, mỗi Chức sắc của Ðạo đều tuyển cử bắt đầu từ Tín đồ trở lên. Cân công bình của CHÍ TÔN muốn cho con cái của Ngài tạo công nghiệp xứng đáng, tu tâm đức vững chắc, đặng lập vị Thiêng liêng phải đi có trật tự từ hàng Tín đồ vào hàng Chức việc Bàn Trị Sự trong Hương Ðạo, lần lần đủ công nghiệp y như Luật định, được đem ra quyền Vạn Linh xem xét công nhận. Nếu không có Nhơn sanh công nhận thì trừ phi do khoa mục, hay do quyền CHÍ TÔN ân tứ, chiếu theo công nghiệp phi thường thì không còn con đường nào khác đặng bước lên Thiêng Liêng vị. Mà tại thế nầy, đẳng cấp trong Cửu Phẩm Thần Tiên được nhìn nhận cân đối ngang nhau với Thiêng Liêng vị ngày qui liễu về cùng Ðức CHÍ TÔN.
Vừa nói Nhơn sanh tuyển chọn Chức sắc của Ðạo trong hàng Tín đồ. Bắt đầu cho chọn vào phẩm vị Chức việc Bàn Trị Sự rồi mỗi khi thăng cấp, phải có sự công nhận của quyền Vạn Linh, hay nói trước hết của Hội Nhơn Sanh.
Quyền nầy tánh cách như quyền khảo thí trong ngũ quyền Hiến Pháp của Tôn Dật Tiên (Quốc Phụ của Trung Hoa).
CHỦ NGHĨA DÂN QUYỀN CỦA TÔN DẬT TIÊN
Nhân dân có năm chủ quyền:
-
Quyền bầu cử.
-
Quyền ứng cử.
-
Quyền bãi miễn.
-
Quyền sáng chế.
-
Quyền phúc quyết.
Chánh phủ có năm trị quyền:
-
Quyền Lập Pháp.
-
Quyền Hành Pháp.
-
Quyền Tư Pháp.
-
Quyền khảo thí.
-
Quyền giám sát.
2. Quyền bầu cử và ứng cử Nghị viên: Quyền của Nhơn sanh được rộng rãi vô cùng, song không thể tất cả mọi người đều ra giữa nghị hội được, thành thử phải chọn người Ðại Biểu theo tỷ lệ.
Những người Ðại Biểu nầy được bầu cử trực tiếp (như Phái viên) hay gián tiếp (như Nghị viên).
Ðến quyền ứng cử, mọi người đều có quyền cũng như bầu cử. Vả lại, cũng là nhiệm vụ tối trọng của cả Tín đồ, phải tham gia việc chánh trong Ðạo đặng dự phần "cải cựu hoán tân" cho kịp theo trào lưu tiến hóa nhân loại.
3. Quyền ủy nhiệm quyền hành: Thường những quyền nào trong nền Chánh Trị Ðạo đã khuyết mà không người thay thế, vì nó có tánh cách quan hệ, cơ quan Chánh trị trao cho Hội Nhơn Sanh để Hội nầy giao lại cho người nào và trọn ủy nhiệm cho người đó hành sự.
Ví dụ như: Quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo thuộc về Ðầu Sư mà trong Ðạo khuyết phẩm Ðầu Sư nên Hội Nhơn Sanh năm Mậu Dần (1938) ủy nhiệm quyền thống nhứt cho Ðức Hộ Pháp cầm cho tới ngày nào có Ðầu Sư chánh vị.
4. Xem xét công việc đã thi hành và kết quả của nó: Mỗi năm, kỳ Ðại Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh trình bày công việc của mình sắp sửa làm, đang làm hoặc đã làm, và trình bày kết quả của nó giữa Hội và sẽ được Hội Nhơn Sanh thừa nhận hay là không.
III. Trách vụ kiểm soát tài chánh
Y như trong khoản phận sự của Hội Nhơn Sanh đã nói sơ lược và chiếu theo Nội Luật Hội Ngánh thường xuyên Hội Nhơn Sanh, thì Hội Nhơn Sanh còn có trách vụ quan sát tài sản, sổ thâu xuất và đề nghị số phỏng định cho năm tới.
Trước ngày Ðại Hội Nhơn Sanh, các cơ quan trong nền Chánh Trị Ðạo dự đoán sổ thâu xuất tài chánh trong năm tới của Cơ quan mình, rồi dâng lên Cửu Viện, nơi đây tổng số các khoản thâu xuất đem ra Hội Nhơn Sanh công nhận.
Quan hệ nhứt về vấn đề tài chánh nầy thuộc Phái Thái (có ba Viện: Hộ, Lương, Công) cho nên trong lúc Ðại Hội Ban Ủy Viên Phái Thái phải chú ý đến điều nầy, đến tại ba Viện trên, nhứt là Hộ Viện xem xét sổ sách, rồi Phúc sự viên lập tờ trình đem ra giữa Ðại Hội, đặng toàn Hội Nhơn Sanh thảo luận lại, hoặc công nhận, hoặc bác bỏ các khoản dự toán chi phí vô ích.