|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Kính Hiền Huynh, Tôi hân hạnh vừa tiếp nhận Thông Tri số: 09/NGPS/TT đề ngày19 tháng năm Bính Thìn (Dl. 12/10/ 1976) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam Nữ. Trong Thông Tri có đoạn: … Từ nay đề trong lòng Sớ Trấn Đạo Tây Ninh, Châu Đạo Tây Ninh và ghi “Hương Hoa Trà Tửu thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ”. Nếu đem so sánh với lòng sớ cũ thì thiếu: Đăng, Quả và lại dư Tửu. Kính Hiền huynh, Theo sự hiểu biết của tôi thì chữ “Thanh chước” là rượu ghi trong Sớ văn dùng trong những dịp tế lễ từ trước của Đời lẫn Đạo. Cũng như qua sự lưu tâm học Đạo của tôi thì lòng Sớ từ khi Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt, Ngài Trần Đạo Quang và quý Ngài chức sắc tiền bối đã dâng Sớ trong các Đàn cúng hơn 50 năm qua lẽ nào không thấy sai hay sao? Quý vị ấy cũng là túc Nho kia mà? Như gần đây khi cố Thời Quân Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài còn sanh tiền, có lần vị Thượng Thống Lễ Viện Phước Thiện thỉnh giáo Ngài về việc lòng Sớ thiếu chữ Tửu thì Ngài Hiến Đạo cho biết “Thanh chước” là rượu. Lại nữa, còn như bỏ đi “Đăng” và “Quả” thì thật tình mà nói, tôi không biết mỹ ý của Hội Thánh nghĩ thế nào mà bỏ đi phần ánh sáng và kết quả. Kính Hiền huynh, Tôi lấy làm khổ tâm là Thông Tri đã ban hành, mà bây giờ tôi mới thỉnh giáo, nhưng biết làm sao hơn. Bởi tôi tự nghĩ: Việc thay đổi lòng Sớ là một việc hệ trọng đối với Đạo, nên tôi phải dâng ý kiến nầy. Mặc dù biết rằng quý Ngài đang đa đoan Đạo sự, nhưng chẳng lẽ tôi không lên tiếng, rồi đây phần hệ trọng thiêng liêng, hoặc người thông học Đạo lại trách thiện, điều hay Hội Thánh lại bỏ, cái dở lại thêm vào. Trân trọng kính dâng Hiền huynh lượng xét. Nay kính Ngày 22 tháng 8 nh. năm Bính Thìn Trân trọng kính tường: - Bảo Đạo Qu. CQ/HTĐ. - Thái Đầu Sư - Thượng Đầu Sư - Ngọc Đầu Sư - Chơn Nhơn CQ/HT/PT. Qua bản văn thư thỉnh giáo của ông Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại dâng lên cho Qu. Ngọc Chánh Phối, không biết Hội Thánh lúc ấy giải quyết như thế nào mà hiện nay chúng ta thấy tất cả các lòng Sơ đều dùng câu trong Sớ văn cũ là: “Chư Thiên phong nghiêm thiết Đàn tràng Hương, đăng, hoa, trà, quả, thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ”.
KHỔNG TỬ VÀ NHO GIÁOTrong bài kinh “Xưng Tụng Phật Tiên Thánh Thần” có đoạn viết như sau: Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn, Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời. Ghi các sách ngàn lời để lại. Chép nhiều thơ vạn đại truyền ra. Chúng ta thử xét ý nghĩa những câu kinh trên và tìm hiểu về Đức Khổng Tử và Nho giáo. 1 - Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn, Câu kinh trên đại ý dạy: Nho giáo là một tôn giáo đem điều nhơn nghĩa để truyền dạy cho con người. Đạo Nho, còn gọi Nho giáo 儒 教, là một Đạo có từ trước khi Khổng Tử ra đời, nhưng phải nhờ đến Ngài, đạo Nho mới được phát huy để trở thành một học thuyết có hệ thống tư tưởng rõ ràng, biện giải các lẽ biến hóa của vũ trụ một cách khúc triết, qui định các nghi thức tế tự Trời đất quỉ Thần một cách minh bạch…Cho nên Nho giáo còn được gọi là Khổng giáo. Chữ Nho 儒 gồm một chữ nhân 人 là người, ghép với chữ nhu 需 là cần dùng hay chờ đợi. Vậy Nho có nghĩa là người cần dùng đến để giúp ích xã hội, hay người học giỏi chờ đợi người ta biết đến tài mình để đem hết sở năng mình ra giúp ích cho đời. Người đi học đạo của Thánh hiền để thông suốt lẽ Trời, đất, con người để đem thực hành ở xã hội, làm lợi ích quốc gia, xã hội, gọi là Nho gia, hay Nho sĩ. Chúng ta biết nghĩa nhơn 義 仁 hay Nhơn nghĩa là hai điều quan trọng trong Nho giáo, có đại ý nghĩa như sau: Theo thuyết Khổng Tử, Nhơn là “Trắc ẩn chi tâm, ái vật chi lý, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại đức 惻 隱 之 心, 愛 物 之 理, 不 殺 不 害, 體 好 生 之 大 德”, nghĩa là lòng bất nhẫn, lẽ thương vật, chẳng giết hại loài sanh vật thể theo đức háo sinh của Trời đất. Như vậy, lấy lòng nhơn phóng xá cho loài vật, đặng phần sống sanh hóa như loài người, mới có lòng từ bi bác ái, ấy gọi là nhơn…. Chữ nhơn (nhân 仁) là nhân đứng 亻 bằng chữ nhị 二, nhơn là người, nhị là hai, có nghĩa là làm người phải giữ cho đặng trọn hai phần, một là đối với Trời Ðất, thì phải noi theo phép công bình thiêng liêng của Tạo hóa, thuận tùng Thiên lý. Hai là đối với người, vật, thì phải giữ lòng đạo đức, thương người mến vật, trợ hiểm phò nguy mới trọn lòng nhơn… Chữ nghĩa là do chữ toàn 全 và chữ ngã 我 hiệp thành, chữ toàn là trọn, chữ ngã là ta, tức là làm người giữ trọn cùng ta thì nên nghĩa, còn chẳng trọn cùng ta là thất nghĩa. Muốn thật hành chữ nghĩa, thì phải noi theo câu: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn 己 所 不 欲, 勿 施 於 人”, tức là những việc gì ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu thì ta không nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa. Đạo Cao Đài là một tôn giáo lấy Nho tông chuyển thế, nên trước mặt tiền của ngôi Đền Thánh có đề hai chữ Nhơn Nghĩa, nhằm cho biết đạo lý của con người từ căn bản nhơn nghĩa mà phát huy ra làm cho nhân sinh được thuận hòa, an lạc, xã hội thanh bình, hạnh phúc. Thuyết đạo Đức Hộ Pháp khi nói về “Vấn Đề Nho Giáo”, Đức Ngài có dạy: Chức Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi, mà nhơn sanh không ưng nạp, bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng? Nhắc lại lời Thánh Giáo của Ðức Chí Tôn có dạy về chữ Nhơn... Ngày nào toàn thể quốc dân mà biết thực hành hai chữ nhơn nghĩa cho ra chơn tướng, thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến tranh sẽ trở nên thái bình an cư lạc nghiệp. 2 - Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời. Câu nầy ý nói Đức Khổng Phu Tử có tên thụy là Văn Tuyên Vương do các vị vua Trung Hoa đời trước truy tặng vì Ngài có công chu du các nước hầu đem cái đạo Thánh của ngài truyền bá rộng cho nhân dân.Theo sử liệu để lại: - Năm Khai Nguyên thứ 27 (739), vua Đường Huyền Tông truy phong làm “Văn Tuyên Vương 文 宣 王”. - Năm Đại Trung Tường Phù nguyên niên (1008), vua Tống Chân Tông gia thụy là “Đại Thánh Văn Tuyên Vương 大 聖 文 宣 王”. - Năm Đại Đức thứ 10 (1306), vua Nguyên Thành Tông gia hiệu “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương 大 成 至 聖 文 宣 王”. - Năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530), Minh Thế Tông phong làm “Chí Thánh Tiên Sư 至 聖 先 師”. - Năm Thuận Trị thứ 2 (1645), Thanh Thế Tổ phong làm “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Tiên Thánh Sư 大 成 至 聖 文 宣 王 先 聖 師” Khổng Thánh 孔 聖, tức Đức Khổng Tử, người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nay thuộc phủ Duyện Châu, tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Thân phụ Ngài là Thúc Lương Ngột làm quan võ, mẹ Ngài là Bà Nhan Thị. Ngài sinh vào mùa đông tháng mười năm Canh Tuất là năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Châu, tức là năm 551 trước Tây Lịch. Vì có cầu tự trên núi Ni Khâu, cho nên sinh ra Ngài mới đặt tên là Khâu 丘, tên tự là Trọng Ni 仲 尼. Khi Đức Khổng Tử lên ba tuổi, thân phụ Ngài mất, nhờ mẹ nuôi nấng và dạy dỗ nên người. Lớn lên Ngài là người học Nho, nên rất trọng về lễ nghi và những phép tắc của các Đế Vương đời trước. Ngài có ra làm quan cho nước Lỗ, nhưng thấy vua mê nữ sắc bỏ phế việc triều chính, Ngài bèn từ quan mà đi chu du liệt quốc chư hầu, mong tìm vị minh quân để phò tá, nhân đó xiển dương Thánh Đạo. Cuối cùng, Ngài thất vọng phải trở về nước Lỗ mở trường dạy học và san định lục kinh. Lúc Ngài viết quyển kinh Xuân Thu vừa xong, có tin người thợ săn bắt được một con kỳ lân què chơn trái, Ngài thắc mắc “Kỳ lân ra làm gì thế?”. Ít hôm sau nghe tin kỳ lân bị giết chết, Ngài bưng mặt khóc mà than rằng : Đạo Ta cùng vậy (Ngô Đạo cùng hỹ 吾 道 窮 矣). Ngài mất vào đời vua Ai Công nước Lỗ, tháng tư, ngày kỹ sửu thọ được 73 tuổi. Xét về tiểu sử của Khổng Thánh ta thấy Ngài là người theo đạo Nho cho nên những tư tưởng và sự học tập của Ngài cốt đem đạo Thánh Hiền ra thực hành trong dân chúng, hầu làm ích lợi cho nhơn quần xã hội. Do vậy, Ngài mới chu du khắp nước, mong muốn ra làm quan để đem cái đạo của mình khuyến dạy nhơn dân và cải tạo đời sống cho con người.
Hai câu kinh nầy đại ý nói Ngài ghi các kinh sách để lại với ngàn lời dạy khuyên của các Thánh hiền xưa, hầu lưu truyền muôn đời về sau. Xét về lịch sử, Đức Khổng Tử có công ghi chép và san định các kinh sách. Kinh sách của Ngài soạn ra gồm có sáu bộ, đời sau gọi Lục kinh. Sau khi Ngài mất rồi, những sách của Ngài bị mất mát theo và nhứt là bị đời nhà Tần đốt đi nên bị mất nhiều. Sau này hậu Nho góp nhặt và phụ họa vào thành ra Ngũ kinh 五 經: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu. Ngoài ra, học trò của Ngài và người đời sau còn viết để lại nhiều sách khác, trong đó có Tứ thư: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử… Sau khi Đức Khổng Tử mất, một số môn sinh của Ngài như Tăng Sâm, Tử Hạ, Tử Trương, Trọng Cung…theo gót Ngài mở trường dạy học, do đó mà tư tưởng trong lục kinh lần lần truyền bá và đi sâu vào tâm hồn của dân chúng, trong số đệ tử đó có Tăng Sâm, là người có công đem cái lý nhứt quán của Ngài viết trong quyển Đại Học để vạch ra mục đích của Khổng giáo. Còn một số môn sinh khác ra làm quan để thi hành đạo của thầy và chủ trương lấy đức trị dân thành một lý tưởng chính trị, gọi là nhân trị hay vương đạo. Một số môn đệ khác ghi chép lại những lời đàm đạo, hay dạy khuyên của Khổng Tử để truyền lại cho học trò hay con cháu. Rồi sau này có người gom những lời châm ngôn đó lại thành bộ Luận ngữ. Kể từ khi Đức Khổng Tử mất, bốn trăm năm sau Sử gia nhà Hán là Tư Mã Thiên đã xuy tụng công đức Ngài như sau: Các quân vương, hiền nhân trong thiên hạ không phải là ít, còn sống thì vinh quang, chết rồi là hết. Duy có Khổng Tử là người áo vải, tới nay đã trên mười đời, vẫn được các Nho gia tôn sùng. Ở Trung Quốc, từ bậc thiên tử vương hầu trở xuống, hễ bàn tới lục nghệ đều lấy Ngài làm tiêu chuẩn. Ngài thật là bậc Chí Thánh vậy.
ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCHTrước khi nhập môn vào đạo Cao Đài, ông bà Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh (Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Nữ Đầu Sư Hương Thanh) có quy y tại Chùa Giác Hải và làm đệ tử với Hòa Thượng Thích Từ Phong, sau vị Hòa Thượng nầy lấy pháp danh là Hòa Thượng Như Nhãn. Ông Thái Thơ và bà Hương Thanh rất sùng tín Phật pháp, nên sau nầy Đức Chí Tôn thâu nhận hai ông bà làm môn đồ và phong cho Ngài Thơ làm Phối Sư phái Thái và Lâm Ngọc Thanh làm Nữ Chánh Phối Sư. Ngài Thái Thơ Thanh và bà Hương Thanh nhờ giàu có, lại có lòng tin tưởng các Đấng Thiêng Liêng, nên ông bà đã hiến rất nhiều tiền bạc cho Đạo trong buổi sơ khai để xây dựng nền móng cho tôn giáo Cao Đài. Ngoài ra, lúc bà Lâm Ngọc Thanh nhập môn theo đạo, bà cho rằng đạo Cao Đài là Chấn Hưng đạo Phật, trong Tiểu Sử do bà tự viết có đoạn: “Khi tôi gặp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tôi có lập một kiểng chùa Phật tại quận Vũng Liêm, sau ngày tôi hiến thân cho Đạo rồi, thì tôi hiểu rằng đạo Cao Đài thật là Chấn Hưng đạo Phật đó vậy …”; và trong phần Khai Đàn bà cũng viết: Tôi hợp với chức sắc và cô Ngọc Hồ với Nguyễn Thị Hương đi khai đàn thượng tượng, rồi tôi giảng đạo và đọc Thánh Ngôn cho chư vị mới nhập môn nghe cho hiểu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Chấn Hưng Phật đạo, bởi vì tôi biết phần đông nhơn sanh còn tín ngưỡng đạo Phật nên tôi giải nghĩa cho thiện tín nghe rõ, rồi nhập môn (úp bộ hết tại Vũng Liêm). Do quan niệm buổi đầu của Bà Hương Thanh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Phật Giáo Chấn Hưng nên bà cùng với Ngài Thái Thơ Thanh thường có những tín ngưỡng như một Phật tử, ví dụ ông bà thích tạc tượng để thờ. Nhứt là Bà và Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền riêng để khai thác 100 mẫu rừng hoang để xây dựng khu Thái Cực Toàn Đồ với ý muốn quy tụ các tăng ni Phật giáo quy hiệp về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ý tưởng thành lập cảnh Thái Cực Toàn Đồ được Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh ghi lại trong Sớ Văn dâng lên Hội Thánh và tâu trình với Đức Chí Tôn như sau:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ (Đệ lục niên) Chánh ngoạt, sơ nhị nhựt, Tân Vị, Khâm Thiên Tổng quản Tài Chánh, phụng sắc Chưởng quản tài liệu, Tổng lý Công viện, Lương viện, Hộ viện, Nông viện, Phổ Độ viện. Quyền Thái Đầu Sư Chủ Tọa Hội Thánh, Quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đệ lục niên, Chánh ngoạt, sơ tam nhựt, Tân Vị, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh đề bút, Tượng mảng Đại Đạo hoằng khai Tam Kỳ Phổ Độ lưu truyền thiên vạn cổ, bủa khắp Ngũ Châu, thì nền Chơn đạo phải to tát mới ra cảnh tượng thể thống Đạo cả. Vì vậy mà hai tôi nong nả đêm ngày lo mở mang cuộc Thánh địa, chế ra nền Tây Vức, bởi công trường cực nhọc, trên nhờ sức thiêng liêng Đại Từ Phụ ban bố, mới xui khiến mua thêm được 100 mẫu đất rừng, của tư bổn vợ chồng tôi xuất ra mua, liên tiếp Thánh địa, nối dài ra tới Ngã ba Mít Một (Boulevard d'Anglais), bề mặt tiền trên 2000 mét, giáp ranh Bá Huê Viên, nối liền Động Đình Hồ, 1000 mét Thánh địa nữa, cộng chung là 3000 mét. Cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ơn ngày sau Hội Thánh mở mang 3 phía là Đông, Nam, Bắc, mỗi phía 3000 mét, vuông vức cộng là 12.000 mét vuông, đặng xây vách thành cao lớn giáp 4 phía, dựng nên miền Tây Vức, đề hiệu là THÁI CỰC TOÀN ĐỒ. Trong chia ra 2 cuộc: Phía Chánh Bắc, xây cửa thành lớn, đắp nổi cao chữ "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", lộ ra 4 chữ to tát là "ĐẾ THIÊN THƯỢNG HOÀNG"; còn phía Chánh Nam, cũng tại cửa thành y kiểu 3 mặt như nhau, đề hiệu là "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", hiện ra 4 chữ "ĐẾ THÍCH PHẬT TỔ"; phía Chánh Đông, tạo một cuộc Ngũ Quang Môn, nghĩa là Đại Thành Môn, có 5 cửa Ngũ Chi Đại Đạo, hiện ra 4 chữ "THÁI CỰC TOÀN ĐỒ"; còn Chánh Tây Môn thì cửa thành y kiểu 3 phía đề hiệu là Tây Vức Cảnh. Trong Thái Cực Toàn Đồ chia ra làm 2 cuộc: Bên phía Bắc là BẠCH NGỌC KINH, tạo tác Tổ Đình, có Bá Huê Viên, Động Đình Hồ, Đức Thế Tôn ngự mở cảnh thoát trần, Đức Di Lạc giáng thế khai Long Hoa Hội. Hai bên là Rừng Thiên Nhiên, phía sau lập Cửu Viện, Thiên Phong Đường, Đầu Sư Đường, Chánh Phối Sư Đường, Hộ Pháp Đường, Thái Y Viện, Dưỡng Lão Ấu, Tịnh Thất Sở, và Học Đường, Dưỡng Đường, với các xưởng Bá công kỹ nghệ. Còn các con đường: 1) Như Lai Đồ, 2) Di Lạc Đạo, 3) Phước Đức Cù, 4) Oai Linh Tiên, 5) Bình Đặng Đồ, 6) Sử Quân Tử, 7) Thái Hòa Lộ, 8) Bình Dương Đạo. Còn bên phía Nam thì tạo CỰC LẠC VÔ VI CẢNH GIỚI, là đắp con đường chữ Thập lớn dài từ Nam chí Bắc, từ Đông giáp Tây, gọi là TỨ TƯỢNG ĐỒ biến BÁT QUÁI, chính giữa Ngã Tư biến ra Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Giữa trung tim, un đúc một cảnh Nội Điện Đế Thích, giống in như cuộc cổ tích trên chốn Đế Thiên gần nước Xiêm La vậy. Phía bên hữu Tây Bắc thì tạo Quan Âm Các, phía bên tả Tây Bắc thì dựng Long Nữ Điện. Phía bên hữu Đông Bắc thì cất Tòa Kinh Viện 15 căn lầu 3 từng nóc. Phía bên tả Đông Nam thì xây núi Tô Sơn,trên chót núi có đắp tượng Đức Thế Tôn nằm qui Niết Bàn, bề dài 12 thước tây, trên đảnh trung có thạch động Phổ Đà Sơn, Đức Từ Hàng Đạo Nhơn thành Phật, ấy là 5 cuộc to lớn. Còn các cuộc nhỏ khởi tạo trước là: tạo Thất Bửu Tháp, đào Tây Vức Trì, cất Thưởng Liên Đình, tạo Từ Thiền Lâm. Trong cuộc Từ Thiền có 3 con đường cái: 1) Bát Nhã Đạo, 2) Bồ Đề Lộ, 3) Như Ý Cảnh. Lựa những bậc chơn tu trường trai khổ hạnh, từ trung thừa sắp lên mới cho vào trong cuộc Từ Thiền Lâm nầy, vuông vức 500 công. Ấy là bên hướng Nam. Còn bên hướng Bắc thì Thái Bình Địa, cũng 500 công, cất Chợ Từ Bi, Nhà Thương, Nhà Thí, Nhà Mát, Nhà Nghỉ cho bực tín đồ nhập môn theo Hạ thừa sắp lên thì được phép ở. Ước mong ngày sau, Hội Thánh mở mang cuộc Thánh Địa nầy cho giáp hết núi Điện Bà đặng ra vẻ nền Chơn đạo. Trân trọng một bài kính cáo, nguyện cầu Đạo mạch hoàn toàn lưu truyền, trăm họ trước sau an nhàn. Thái Thơ Thanh, Lâm Hương Thanh kỉnh đề. Chuyển đạt Thiên Đình, ngưỡng vọng Đại Từ Phụ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chứng chiếu. Ngu đệ tử phục thủ bá bái.
Do Bài Sớ Văn của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh tâu trình lên Đức Chí Tôn, nên ngày 27 tháng 6 năm Bính Dần (Dl. 5/8/1926), Thầy giáng cơ dạy Ngài Thái Thơ Thanh không nên chuộng về hình thức thái quá trong việc tu hành. Bài Thánh giáo đó có nội dung như sau: Thơ, nghe dạy: Thời kỳ mạt pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Ðộ, các sự hữu hình phải hủy phá tiêu diệt. Thầy đến chuyển đạo, lập lại vô vi. Các con coi thử bên nào chánh lý: Hữu hình thì bị diệt đặng, chớ vô vi chẳng thế nào diệt đặng. Thơ, Thầy đã khiến con đi ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH đặng xem cho tạng mặt hữu hình. Nội thế gian nầy ngày nay, ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng? Lòng đạo đức con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến. Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối. Chẳng cần chi con lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên "Bảo Sanh" là bổn nguyên Thánh chất Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi, phần hồn về Thầy. Qua bài Thánh giáo trên, Đức Chí Tôn có cho biết Đế Thiên Đế Thích là Đền thờ hùng vĩ nhứt của nước Cao Miên thời cổ đại, vậy mà hiện thời đã điêu tàn. Chúng ta thử tìm hiểu về Đền thờ nầy. Đế Thiên Đế Thích do từ tiếng Miên Angkor Wat là khu đền thờ và Angkor Thom là khu đền vua. Theo tiếng Phạn, Angkor là kinh thành, đô thị, Wat là chùa Thom nghĩa là to lớn. Như vậy, Angkor Wat là khu Đền thờ, Angkor Thom là khu Đền vua. Đế Thiên Đế Thích được xây dựng vào đầu và cuối thế kỷ thứ XII, dưới thời các vua Miên có nền văn minh rực rỡ, vùng đất đó rộng lớn trù phú, ruộng đất phì nhiêu, mầu mỡ, nằm về phía Bắc Siem Reap, gần với Biển Hồ. Angkor Wat là quần thể Đền đài tại Campuchia và là di tích tôn giáo lớn nhứt thế giới, rộng 162, 6 hecta. Trong đó, ban đầu xây dựng làm Đền thờ Ấn Độ giáo rồi sau đó dần dần chuyển thành Phật giáo vào cuối thế kỷ XII. Ankor Wat là khu đền thờ Thần Vishnou, trước chánh điện có xây một cái tháp lớn và bốn tháp nhỏ bao quanh. Trong tháp lớn có lầu chuông, lầu trống và các tượng Thần lớn nhỏ. Khu đền này được bao bọc bởi hành lang bằng đá tảng, trên đó có chạm khắc những bức phù điêu, trông rất cổ kính. Nó đã trở thành biểu tượng của đất nước Campuchia xuất hiện trên là quốc kỳ và là điểm thu hút du khách hàng đầu đất nước. Đường vào Angkor Wat là một đại lộ lót toàn những tảng đá lớn, dài gần 2 cây số. Cuối đường có xây một cái cổng lớn, rộng độ 200 thước. Dọc theo hai bên đường có hành lang bằng đá, trong có chạm khắc hình rắn thần bảy đầu. Trước chính điện có một sân lót đá, dùng để làm nơi tổ chức các buổi lễ. Chánh Điện là một cái tháp lớn, cao khoảng 60 thước, chung quanh tháp lớn là bốn cái tháp nhỏ. Angkor Thom là thành phố thủ đô cuối cùng và lâu dài nhất của Đế quốc Khrmer. Hoàng thành được vua Jayavarman VII xây dựng vào cuối thế kỷ XII. Thành rộng 9 km2, bên trong có nhiều đền thờ từ các thời kỳ trước cũng như các đền thời được Jayavarman và những người nối nghiệp ông xây dựng. Tại trung tâm thành là ngôi đền quốc gia của Jayavarman, đền Bayon, với các di tích khác quần tụ quanh khu quảng trường Chiến thắng nằm ngay phía Bắc đền. Khu hoàng thành Angkor Thom là một hình vuông, dài mỗi cạnh độ 3 cây số, bao quanh bởi tường bằng đá tảng, rất kiên cố. Trong tường thành là một luỹ đất vòng quanh, có xây đài chỉ huy và các trạm gác chung quanh, còn ngoài tường thành là hào nước sâu như một con sông bao quanh để bảo vệ hoàng thành. Hoàng thành Angkor Thom có năm cửa cổng đi vào Điện Bayon, trong đó thờ vua Jayavarman VII và hàng ngàn tượng Thần, tượng Phật. Khu Đế Thiên Đế Thích hiện nay được liệt vào một trong những kỳ quan thế giới, tượng trưng cho một nền văn hoá cổ của nước Cao Miên.
TẢ HỮU PHAN QUÂNTả Hữu Phan Quân là hai vị chức sắc đặc biệt trong đạo Cao Đài, có nhiệm vụ cầm phướn hướng dẫn các chức sắc vào Đền Thánh bái lễ Đức Chí Tôn. Tả Phan Quân là vị chức sắc cầm phướn Thượng Sanh đứng bên tay trái của Đức Thượng Sanh khi chầu lễ Đức Chí Tôn. Còn Hữu Phan Quân là vị chức sắc cầm phướn Thượng Phẩm, đứng bên tay mặt của Đức Thượng Phẩm. Tả Hữu Phan Quân là hai vị chức sắc không thuộc Hiệp Thiên Đài và đối phẩm với Giáo Sư bên Cửu Trùng Đài. Đạo phục của Tả Hữu Phan Quân giống hệt với Hộ Đàn Pháp Quân, nhưng hai vị Phan Quân không có buộc dây Sắc Lịnh ở lưng, nghĩa là mặc áo tràng trắng như Thời Quân, đội Nhựt Nguyệt Mạo, lưng không thắt dây Sắc lịnh như Hộ Đàn Pháp Quân. Trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường, đêm 19 tháng 6 năm Bính Ngọ (Dl. 5/8/1966). Phò loan: Hiến Pháp - Khai Đạo. Tái cầu lúc 21 giờ 45, Đức Hộ Pháp giáng cơ dạy Hộ Đàn Pháp Quân và Tả Hữu Phan Quân không phải là chức sắc thuộc Hiệp Thiên Đài. Đoạn Thánh giáo được chép lại như sau: “Đức Thượng Sanh bạch: – Hội Thánh Hiệp Thiên Đài còn thắc mắc về trường hợp của ba vị: Hộ Đàn Pháp Quân, Hữu Phan Quân và Tả Phan Quân về việc sau đây, cầu xin Đức Ngài chỉ giáo. a). Trong các phiên nhóm của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài để giải quyết về chánh trị đạo, ba vị trên đây có được mời dự nhóm và bàn cãi hay không? – Mấy vị đó không phải là Chức sắc Hiệp Thiên Đài nên miễn mời hội. b). Khi sắp hàng vào Nội Nghi đảnh lễ Đức Chí Tôn, ba vị nầy phải giữ trật tự như thế nào? Hiện giờ chỉ có từ phẩm Cải Trạng trở xuống Luật Sự, sau nầy có phẩm Chưởng Ấn và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn thì thứ tự như thế nào? – Dầu có hai phẩm ấy hay không, Hộ Đàn Pháp Quân và Tả Hữu Phan Quân cũng cứ ngoại vòng Chức sắc Hiệp Thiên Đài, nên khi đảnh lễ, xướng: Chức sắc Hiệp Thiên Đài nhập nội nghi, lễ bái rồi, phải xướng một lần nữa: Hộ Đàn Pháp Quân và Tả Hữu Phan Quân nhập nội nghi. Như vậy đúng trật tự. c). Khi thiết lễ bồi yến Hội Yến Diêu Trì Cung, ba vị nầy có quyền dự hay không? – Tất cả bổn đạo đều nhớ Bần đạo không bao giờ cho việc ấy.” Sau đây là sơ lượt về tiểu sử của Tả Phan Quân và Hữu Phan Quân. TẢ PHAN QUÂN Tả Phan Quân là vị chức sắc cầm cây phướn Thượng Sanh, đứng bên trái Thượng Sanh, được Đức Chí Tôn phong cho ông Trang Văn Giáo năm 1927. Trang Văn Giáo, sanh ngày 27 tháng chạp Kỷ Hợi (1899) tại xã Long Thành, Tổng Hàm Ninh, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ ông là Trang Văn Keo (Hương Cả) và thân mẫu là bà Bùi Thị Khuê. Hiền nội của ông là Nguyễn Thị Thơm, hai ông bà có bảy người con gồm sáu người con trai và một người gái. Thời niên thiếu ông theo học quốc ngữ tại các trường thuộc tỉnh Tây Ninh. Sau khi tốt nghiệp Tiểu học, ông ra đời tìm việc mưu sinh, ngoài ra, ông cũng có tham gia nhiều chức vụ trong ban Hội Tề từ 1921 đến 1927. Theo quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trong một Đàn cơ ngày 21 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 26/11/1926), ông Trang Văn Giáo có đến hầu đàn. Đức Chí tôn thâu nhận ông làm Môn đệ và cho một bài thi như sau: Làm song ngăn đón lũ gian hùng, Mạnh yếu đánh thoi cũng gọi hùng. Quyết lập thân danh tua sửa lưỡi, Nói hiền kẻ dữ nịnh thành trung. Thâu Khi Hội Thánh Cao Đài tổ chức Lễ Khai Đạo tại chùa Gò Kén, với tinh thần hăng hái, đầy nhiệt huyết sẵn có, ông đã giúp ích một cách đắc lực trong buổi khai đàn mở Đạo năm 1926. Ông theo lịnh Đức Quyền Giáo Tông để giúp đỡ cho Đạo những nhu cầu và các thứ vật dụng cần thiết cho lễ và nhạc… Do đó, ông được Đức Quyền Giáo Tông tín nhiệm, giao cho việc hầu bút, hoặc chép những Thánh Giáo mà Đức Chí Tôn hay các Đấng giáng cho khi thâu nhận môn đồ trong các đàn cơ phổ độ lúc sơ khai. Ngày 18 tháng chạp năm Đinh Mão (1927) ông thọ phẩm Tả Phan Quân tại chùa Gò Kén. Từ đó ông lại càng tận tụy với công việc và hy sinh với Đạo hơn, ông theo Đức Thượng Phẩm, góp công vào việc khai phá rừng hoang, xây dựng Tòa Thánh để tạo thành vùng Thánh địa ngày nay. Ông thường ở bên cạnh mấy vị tiền bối của Đạo như Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp để phục vụ cho Đạo. Nền Đạo đã trải qua nhiều cuộc biến thiên, thăng trầm, nhưng trong lòng ông vẫn giữ một dạ sắc son, trung thành với Đạo. Hội Thánh đã gặp phải những nghịch cảnh, khó khăn nguy hiểm, ông đều có mặt để giúp đỡ hoặc chia đau sớt thảm. Năm 1946, Đức Hộ Pháp hồi loan, sau hơn 5 năm đồ lưu nơi Hải ngoại, ông xin vào phục vụ nơi văn phòng Tòa Đạo, tức Bộ Pháp Chánh bây giờ. Ông là người rất siêng năng cúng kính, mặc dù ban ngày phải làm việc mệt nhọc nhưng không bao giờ ông bỏ sót một thời cúng khuya nào cả. Ông là người làm việc rất tích cực, lúc nào cũng miệt mài với nhiệm vụ, cho đến lúc tuổi già sức yếu, ông mới vắng mặt ở văn phòng làm việc và trút hơi thở cuối cùng vào lúc 22 giờ đêm, mùng 2 tháng 5 năm Bính Thìn (Dl. 30/5/1976), hưởng thọ 78 tuổi. HỮU PHAN QUÂN Hữu Phan Quân là vị chức sắc cầm cây phướn Thượng Phẩm, đứng bên tay mặt Đức Thượng Phẩm. Chức Hữu Phan Quân được Lý Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phong cho ông Lê Văn Thoại năm 1965. Ông Lê Văn Thoại sinh năm Kỷ Mùi (1919) tại xã Hòa An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sađéc, nay là Thị xã Kiến Phong, tỉnh Đồng Tháp. Xuất thân từ một gia đình có đạo Cao Đài, được sự dạy dỗ của song thân nên ông đã giác ngộ đạo pháp rất sớm, từ năm 12 tuổi, ông được may duyên về Tòa Thánh Tây Ninh làm công quả, tức vào khoảng năm 1931. Tuy chưa đủ tuổi nhập môn, nhưng ông Thoại cầu xin Hội Thánh được nhập môn vào đạo. Vào ngày rằm tháng 7 năm Tân Mùi (Dl. 28/08/1931), Đức Hộ-Pháp cho phép ông nhập môn, nghĩa là Ngài đã ban đặc ân cho ông thêm 9 tuổi, để ông được nhập môn theo luật Đạo đã quy định. Lớn lên Lê Văn Thoại là một Thanh niên đầy nhiệt huyết, ông mong muốn phụng sự cho Đạo và giúp ích đất nước Việt Nam, nên ông đã gia nhập vào đội “Nội Ứng Nghĩa Binh”, do Trần Quang Vinh (tức Giáo-Sư Thượng Vinh Thanh) thành lập vào đầu năm 1943, hợp tác với quân đội Nhựt đảo chánh Thực dân Pháp. Sau ngày đảo chánh Pháp thành công, Ngài Lê Văn Thoại trở về tiếp tục đời sống tu hành, lập công tại Tòa Thánh Tây Ninh. Khi tham gia vào quân đội Cao Đài với cấp bậc sau cùng là Thiếu Tá cho đến khi quân đội Cao Đài được quốc gia hóa dưới thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, vào khoảng năm 1956. Ông Lê Văn Thoại là người tình nguyện nhận lịnh của Đức Hộ Pháp, hướng dẫn ba ông nữa là Kỳ, Đại, Lợi đem lá cờ Nhan Uyên (Bạch kỳ Nhan Uyên) ra cắm giữa cầu Hiền Lương (Bến Hải), thuộc vĩ tuyến 17 để phân ranh hai miền Nam Bắc. Vào đêm mùng 4 tháng Giêng năm Ất Mùi (Dl.15/02/1956), Đức Hộ Pháp quyết định tự lưu vong sang Miên quốc, ông Lê Văn Thoại cũng tình nguyện xin theo hầu, Đức Ngài cho phép nên ông cũng được rời khỏi Hộ Pháp Đường đi trên chuyến xe đó. Trong Đàn cơ tái cầu vào ngày 17 tháng 10 năm Ất Tỵ (Dl. 09/11/1965), Đức Lý Giáo Tông, Nhứt Trấn Oai Nghiêm, đã phong cho Ngài Lê Văn Thoại phẩm Hữu Phan Quân. Khi Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý được thành lập, Hội Thánh bổ Ngài Khai Đạo Hiệp Thiên Đài làm Giám Đốc Cơ quan, còn ông Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại làm Phó Giám Đốc để điều hành mọi việc như xây dựng cơ sở, quản lý máy móc, tuyển mộ chuyên viên, nhứt là kiểm tra những bài vở phát thanh hàng tuần của cơ quan. Tuy rất bận rộn công việc hằng ngày, nhưng ông Lê Văn Thoại là người rất siêng năng cúng kính, hằng ngày ông thường xuyên đến Tòa Thánh cúng Tứ Thời, cho đến khi tuổi già sức yếu, ông không còn đi dứng được nhiều nữa mới giảm dần các thời cúng. Vào cuối tháng 3, thình lình ông phát bệnh, qua đến ngày 25 tháng 6 năm Đinh Hợi (Dl. 07/08/2007), vào lúc 11 giờ 30 thì ông quy liễu, hưởng thọ 89 tuổi (tuổi trong giấy là 98 tuổi). Buổi sinh thời ông Lê Văn Thoại có làm rất nhiều bài thơ, ký với bút hiệu là Tử Trước và Chánh Công. Sau đây xin chép lại vài bài thơ của ông.
Một số bằng hữu yêu cầu ông làm bài Thi để lúc quy liễu là bài Thài cúng tế, ông bèn viết:
CỬA PHẠM VÀ PHẠM MÔNI - CỬA PHẠM Phạm 梵 do tiếng Phạn là “Brahma”có nghĩa là Phật, nếu dùng như một tính từ thì chữ Phạm dùng để chỉ những gì trong sạch, thanh tịnh. Ví dụ: Cửa Phạm là cửa Phật, cũng có nghĩa là cửa chùa, chỉ nơi tu hành. Trong đạo Cao Đài từ cửa Phạm có thể hiểu là cửa Thánh Thất, cửa Điện Thờ. Phạm hạnh 梵 行 có nghĩa là người xuất gia có đời sống thanh tịnh, đạo hạnh trong sạch, giữ đúng giới luật của tôn giáo. Phạm chúng 梵 衆 dùng để chỉ tăng chúng gìn giữ giới luật nghiêm minh. Từ “Cửa Phạm” trong Thi Văn Dạy Đạo dùng để chỉ cửa chùa hay nơi tu hành có bài thi như sau: Suối lành đổ nước hóa sông thanh, Ðức hạnh muốn trau vẹn tánh lành. Trước muốn đưa chơn vào Cửa Phạm, Hỏi mình có trọn tấm lòng thành? Như vậy, cửa Phạm trong đạo Cao Đài thường dùng để chỉ Thánh Thất, Điện Thờ … Quyển Đạo Sử Xây Bàn của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trong Đàn cơ Đức Chí Tôn thâu môn đệ và dạy Đạo ngày 21 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 26/11/1926) có ban cho Bà Đoàn Thị Liên một bài thi như sau: Nam Mô hai chữ dựa màu thiền, Ðến nửa kiếp còn lắm lợi riêng. Gia nghiệp đã an con cái đủ, Khá tua Cửa Phạm đến cầu duyên. Cũng trong Đạo Sử, ngày 6 tháng 1 năm Đinh Mão (Dl. 7/3/1927), Đức Lý Giáo Tông ban cho Bà Đinh Thị Đuổi bài thi như sau: Ðuổi xô Cửa Phạm chẳng từng quen, Chẳng nễ ai sang, chẳng bỏ hèn. Lấp ló như người mang tội trộm, Ta không nỡ để đến nhiều phen. Và trong tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận của Bà Đoàn Thị Điểm cũng có một đoạn thi nhắc đến từ “Cửa Phạm”: Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối, Chùa thu không bóng tối mịt mờ. Oanh về tổ, dế reo tơ, Đường về vắng bước như tờ canh khuya. Tiếng u minh tía lia gợi thảm, Giọng kình khua Cửa Phạm dập dồn. Câu kinh tiếng kệ gọi hồn, Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân. Trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp cũng dùng Cửa Phạm để chỉ cửa Phật hay cửa Phạm Môn. Ngài nói: Hội Thánh Phước Thiện là thay thế cho Hiệp Thiên Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài chỉ có lãnh lịnh bốn, năm vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái Bí Pháp, chi Pháp Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh Truyền không có định, Bần Đạo chỉ lấy bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành dầu cho cả chơn hồn đã siêu lạc nơi nào sau nầy cũng phải nơi Cửa Phạm về cùng Ngài. 2 - PHẠM MÔN Như ta đã biết, cửa Phạm được dịch từ tiếng Phạm Môn, mà Phạm Môn 梵 門 trong đạo Cao Đài là một cơ quan do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lập ra dành cho những tín đồ muốn tu chơn, không thọ phẩm tước, áo mão như những chức sắc bên Cửu Trùng Đài hay Hiệp Thiên Đài, chỉ chuyên lo lập công bồi đức mà thôi. Đó là con đường thứ ba của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Việc lập ra Phạm Môn, theo Đức Hộ Pháp là do Thánh ý của Đức Chí Tôn trong bài thi sau đây:
Theo nghĩa bài thi trên thì chữ “PHẠM MÔN 梵 門”, là “cửa Phật”, và căn cứ theo hai câu liễn của Phạm Môn nói lên tôn chỉ của cơ quan nầy thì ta có thể kết luận chữ “Phạm 梵” là Phật. Đôi liễn Phạm Môn được viết như sau: 梵 教 随 元 救 世 度 人 行 正 法 PHẠM giáo tùy nguơn cứu thế độ nhân hành chánh pháp 門 權 定 會 除 邪 滅 魅 護 眞 傳 MÔN quyền định hội trừ tà diệt mị hộ chơn truyền. Giải nghĩa hai câu liễn: Phật dạy tùy theo nguơn mà cứu thế độ người, thực hành chánh pháp. Quyền hành nơi cửa Phạm, định ra khoảng thời gian để trừ tà diệt mị, bảo hộ chơn truyền. Từ khi Đức Hộ Pháp lập Phạm Môn và cất Phạm Nghiệp, bị nhiều người hiểu lầm cho là cơ nghiệp của nhà họ Phạm, tức họ của Ngài Phạm Công Tắc. Những người đó lầm tưởng chữ “Phạm 梵” là Phật với chữ “Phạm 范” là họ của Đức Hộ Pháp (Ngài tên 范公稷) Trong đạo Cao Đài, nếu chữ Phạm là họ Phạm thì chúng ta thấy có xây dựng phủ thờ dòng họ Phạm, gọi là Phạm Phủ Từ. Còn Phạm Môn, Phạm Nghiệp là những cơ quan thuộc về Phạm là Phật. Khi nói về lịch sử thành lập Hội Thánh Phước Thiện, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có nhắc đến việc bị chỉ trích như sau: Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn, có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng, nếu không thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được. Bởi chữ Phạm Môn là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, chớ không phải Phạm là họ Phạm. Buổi đó cũng có nhiều tiếng phân vân nói Bần Đạo lập Phạm Môn tức là lập theo họ Phạm của Bần Đạo, Bần Đạo cũng như tấm bình phong đứng giữa hứng chịu. Sao Bần Đạo không đầu kiếp các nơi họ Nguyễn, họ Trần mà đến ngay nhà họ Phạm mà để khiến cho Bần Đạo phải chịu oan ức. Những tiếng phân vân ấy, Bần Đạo cũng chẳng màng, cứ lo cho kỳ được, bởi vì sự công chánh. Bần Đạo đứng giữa đây Bần Đạo phải nói Bần Đạo nói thiệt cả sự nghiệp của Đạo còn tồn tại đây là do nơi tay của Phạm Môn nếu không có Phạm Môn thì Bần Đạo không đứng vững, Đức Chí Tôn đã định cho Bần Đạo thâu 72 vị Môn Đệ mà chia ra hành sự 36, 37 vị, buổi đó Thầy trò chịu cực khổ tầm phương để tạo nghiệp mà bị chúng sanh đánh đổ đến đổi vận lương thực lục tỉnh đem về Tòa Thánh mà cũng bị ngăn cản quyết bỏ đói cho chết, mà tội nghiệp thay họ không thối chí ngã lòng, cứ cương quyết theo Bần Đạo cho đến ngày lập thành Hội Thánh Phước Thiện.
THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNGTheo tín điều của các tôn giáo, con người sống ở cõi thế gian tùy thuộc hành vi thiện, ác lúc sinh tiền, khi chết phải thác sinh vào một trong hai cõi: Thiên Đường là cõi giới thanh cao, trong sáng và Địa Ngục, là cõi giới thấp kém, tối tăm. Tại sao lại có Thiên Đường Địa Ngục? Chúng ta biết, Luật pháp thi hành cho con người ở thế gian tùy theo công tội. Nếu có công thì được thưởng, còn có tội thì bị phạt: Đó là thể hiện luật công bình ở thế gian, gọi là công thưởng tội trừng. Còn triết lý các tôn giáo, cũng như giáo lý Cao Đài đều cho rằng trong cõi vô vi cũng vậy, chơn linh những người sanh tiền làm việc thiện thì khi chết linh hồn nhẹ nhàng được lên cõi Thiên Đường hay cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, còn vong hồn của những kẻ lúc sống làm việc ác thì khi chết phải bị đọa vào cõi Địa ngục tối tăm. Như vậy, Thiên Đường và Địa Ngục là hai cảnh giới hoàn toàn đối nghịch nhau, thể hiện cán cân công bình thiêng liêng của Tạo Hóa và còn để giúp vào việc thúc đẩy sự tiến hóa các chơn linh trong Càn không vũ trụ, vạn vật. Riêng trong tôn giáo Cao Đài, ngoài hai cõi giới Thiên Đường và Địa Ngục, còn có một cõi giới thứ ba là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng. Theo Thánh giáo của các Đấng Thiêng Liêng cho biết, con người khi chết về thể xác, linh hồn và chơn thần sẽ nhập vào cõi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng chờ xét xử công tội, sau đó hoặc được đưa lên Thiên Đường, hoặc phải sa vào Địa Ngục. Chúng ta thử căn cứ theo lời phê, lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, hoặc lời giáng cơ của những chơn linh đã từng nhập vào cõi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng để tìm hiểu về cõi giới nầy. Theo lời phê Đức Hộ Pháp, ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi lúc sinh tiền đã từ bỏ một trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng thì khi chết phải tái kiếp trở lại tu hành, nhưng nếu ông được nhập vào cõi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng là may phước là vì ở đó có thể tiếp tục tu hành để vào cõi thiêng liêng. Nguyên trước đây ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi xin từ chức Giáo Thiện để vào núi Linh Sơn (núi Bà Đen) tu chơn, mặc dầu chưa được thượng quyền chấp thuận, nhưng ông vẫn bỏ chức vào chân Núi Điện Bà lập cơ sở, không tùng Hội Thánh Phước Thiện, thay áo trắng, cạo đầu, mặc áo quần màu dà để tu chơn. Khi ông Giáo Thiện quy vị, do Tờ xin tội đề ngày 3 tháng 11 năm Canh Dần (Dl. 11/12/1950) của ông Nguyễn Văn Thế cùng với 16 vị thệ hữu của ông đồng đứng đơn xin dâng công quả để chuộc tội cho Võ Văn Đợi. Đức Hộ Pháp trong lời phê có viết như sau: "Đợi bị phế vị là vì nó từ chối Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, ngày nay theo Thiên điều thì nó phải tái kiếp mà hành đạo lại, nếu nó đặng ở Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mà tu hành nơi cõi Hư linh cũng là may phước cho nó, còn quyền thiêng liêng thưởng phạt là do quyền Ngọc Hư Cung, có phải của Bần đạo đâu mà xin Bần đạo. Còn dâng công quả cho Đợi, chỉ có vợ con của Đợi mới đặng. Còn mấy em, ai thèm đâu mà dâng." Như vậy, các chơn linh khi nhập vào cõi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng thì không biết mình có công hay có tội, thăng hay đọa, phải chờ Tòa Tam Giáo Ngọc Hư Cung xét định. Có chơn linh được nhập vào nơi đó một thời gian học đạo hoặc tu luyện thêm, rồi sau đó, nếu có công được nhập vào cõi Thiêng liêng Hằng Sống. Chính trong Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp ngày 26 tháng 10 năm Tân Mão (Dl. 24/11/1951), Ngài cho biết: Khi Bà Đoàn Thị Điểm vừa quy vị, thì chơn linh cũng nhập nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, nhờ cô Thất Nương xuống độ Bà về Lôi Âm Tự, rồi nhờ Bà viết ra một cuốn Nữ Trung Tùng Phận, Bà mới siêu thoát được. Ngoài những lời dạy của Đức Hộ Pháp, chúng ta còn có thể tìm hiểu thêm cõi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng qua những chơn linh đã từng được đưa vào cõi giới đó về giáng cơ kể lại. Đàn cơ tại Hộ Pháp Đường, ngày 2 tháng 12 năm Ất Hợi (Dl. 27/12/1935), do Hộ Pháp và Tiếp Đạo phò loan, có một chơn linh tên là HỒ QUÍ DIÊN giáng cơ cho biết như sau: Tiểu nhân xin chào chư vị Đại Đức. Lụy…
– Thưa Hộ Pháp, kẻ vô phước nầy chỉ trông công con tu niệm mong mỏi cảnh Thiên, nào dè bạc phận, chúng nó vô Đạo không tu, gây thêm nghiệp chướng. Hộ Pháp hỏi: Còn thằng Sĩ thế nào? – Sĩ nó bị quả kiếp tiền khiên nên đã luân hồi tái thế. Tớ có gặp Lễ Sanh Thuận ở tại Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, hôm nọ cùng tớ mới thọ lịnh Ngọc Hư đắc phong Thần vị. Hộ Pháp hỏi: Còn Lễ Sanh Nhượng? – Tớ không thấy vào Thanh Tịnh nên không biết. Hộ Pháp hỏi: Xin cho biết có gặp ai quen ở đó không? – Không dám. Sau đây là câu chuyện do một vị trong Phạm Môn giáng cơ kể lại lúc ông thoát xác nơi cõi trần bị đưa vào Thanh Tịnh Đại Hải Chúng. Vị Phạm Môn đó có tên là ông hai Chiếm, quê ở quận Bến Lức Tân Ân. Lúc sinh tiền ông làm công quả nơi nhà sở Giang Tân, chẳng bao lâu vì mang cơn bịnh ngặt, ông mất. Các anh em thệ hữu cùng sở Giang Tân chung nhau lo chu toàn đám tang cho ông. Trong một Đàn cơ tại Hộ Pháp Đường, Phối Thánh Phạm Văn Màng giáng cơ báo cho Đức Hộ Pháp biết rằng: Ông hai Chiếm được vào phẩm Địa Thần, có Đức Quyền Giáo Tông làm chứng. Đến ngày 4 tháng 5 năm Bính Tý (Dl. 22/6/1936), Đàn cơ tại Hộ Pháp Đường, Phối Thánh Phạm Văn Màng giáng cơ bạch với Đức Hộ Pháp: Thưa sư phụ, anh Chiếm có về còn đứng ở ngoài cửa vì chưa có lịnh của sư phụ nên không dám vào. Đức Hộ Pháp cho lịnh gọi vào, sau đó cơ liền viết: Dạ con là Chiếm nè. - Sao em không dám vô? - Vì con sợ sư phụ quá. Con viết không được, nhờ anh Ba (Phối Thánh Phạm Văn Màng) viết giùm. Hôm con mới chết, ôi thôi! Nó khổ biết chừng nào! Một nỗi bị mẹ thằng Đường (vợ của Chiếm) nó kêu tới kêu lui, chịu đà không nổi! Thảm mới vừa hết đau thì có lịnh Ngọc Hư Cung sai Như Ý Đế Quân bắt đem qua Thanh Tịnh Đại Hải Chúng. Thưa Sư phụ, ở chỗ đó khó ở quá! Bị bọn quỉ lồi, cô hồn gì đủ thứ, nó mắng nhiếc tối ngày, nhứt là nó chửi con là đồ làm biếng, tu gì, tu gì cái đám thầy chùa mê hoặc. Hại nỗi bị mấy tay phản đạo cũng có trong đám đó đứng làm đầu xúi giục bọn kia chửi mãi. Con chịu như vậy hoài nên muốn chết đi cho khỏi, ngặt chết không đặng, nó hành con quá chừng! Đương cơn thảm khổ, con lại may gặp một bà thiệt là tử tế, nghe nói là Thất Nương Diêu Trì Cung đến thăm, rồi biểu con theo Bà. Con mừng quá, đi theo Bà liền, vì thấy Bà đó oai quyền lớn lắm. Nghe nói Bà đắc lịnh Ngọc Hư Cung vì có lời tình nguyện, lãnh phần cai quản Thanh Tịnh Đại Hải Chúng nầy đã từ lâu đặng giáo hóa và độ dẫn các vong linh vì tội tình bị sa đọa vào đây. Nội Thanh Tịnh Đại Hải Chúng nầy, ai cũng đều kiêng sợ. Bà dắt con đến gởi Đức Quyền Giáo Tông. Con ở đây một thời gian chẳng đặng bao lâu, thì Đức Quyền Giáo Tông kêu con nói rằng: Có lịnh Ngọc Hư cho con đi phó nhậm nơi tỉnh Ninh Bình, làm ông Thần tại đó. Thật cũng may quá, ấy là nhờ Bà Thất Nương thương tình thấy con ít oi thiệt thà, lại bị đám âm hồn ngạ quỉ hành hạ căn kiếp của con, nên Bà ra tay giúp đỡ. Tóm lại, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, như tên đã gọi, là một cõi thiêng liêng mà các chơn linh nơi đó rất đông đảo, trông như một biển người (đại hải chúng là biển người). Nơi đây các chơn hồn khi quy liễu tạm ở một thời gian, chờ Tòa Tam Giáo Ngọc Hư cung xem xét tội phước để phân định việc thăng hay đọa. Như vậy, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng là một khu vực phụ thuộc với cõi Âm Quang, chịu dưới quyền độ rỗi và giáo hóa của Địa Tạng Vương Bồ Tát và Thất Nương Diêu Trì Cung. Những chơn hồn khi sống có đạo đức, song chưa có công nghiệp lớn lao, khi chết chơn hồn nhập vào cõi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, nơi đây nếu chơn hồn chịu khó tu luyện thêm và nhờ sư giáo hóa của Thất Nương Diêu Trì Cung mà đắc quả vị nơi Thiêng Liêng Hằng Sống.
THẢO XÁ HIỀN CUNGThảo Xá Hiền Cung hiện nay là một ngôi nhà thờ Đức Cao Thượng Phẩm, nằm phía sau Thánh Thất Thành Phố Tây Ninh, tọa lạc tại số 112, đường 30/4, khu phố 4, phường 2 Thành Phố Tây Ninh. Thảo Xá Hiền Cung là một công trình kiến trúc đặc biệt trong đạo Cao Đài bằng vật liệu nặng. Ngôi thờ được kiến tạo theo một hình vuông vức, chia làm ba gian, với bốn cây cột bằng bê tông cốt sắt, mỗi bề dài khoảng 9 mét, có hành lang bao bọc chung quanh. Nóc ngôi thờ đúc bằng ciment gồm có ba từng mái, mỗi từng mái có bốn góc nhọn uốn cong như mái các ngôi chùa Phật cổ, sơn phết rực rỡ. Bên trong Thảo Xá Hiền Cung mặt trước gian giữa thờ ba vị thân sinh của ba chức sắc Đại thiên phong. Đó là: 1- Xuất Bộ Tinh Quân Cao Quỳnh Tuân, là thân sinh Ngài Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư. 2- Ngân Hà Công Bộ Phạm Công Thiện, là thân sinh Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc. 3- Xuyên Quan Tư Bộ Cao Hoài Ân (bên phải), là thân sinh Ngài Thượng Sanh Cao Hoài Sang. Ngay chính giữa ngôi Thảo Xá Hiền Cung có đúc tượng Đức Cao Thượng Phẩm cầm Long Tu Phiến đứng một cách uy nghi. Trước tượng có đặt cái bàn ba chân lộng trong tủ kính. Cái bàn ấy là vật kỹ niệm lần xây bàn đầu tiên tại nhà Ngài Cao Hoài Sang gần chợ Thái Bình Sài Gòn. Sát vách, phía sau tượng Đức Cao Thượng Phẩm là Bàn thờ Đức Ngài. Ngoài ra, nơi đây còn có bàn thờ của Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu và Bàn thờ thân mẫu của Ngài cùng lưu giữ một số kỹ vật trước ngày Khai Đạo. Nguyên Thảo Xá Hiền Cung trước kia là một ngôi nhà tranh, do Đức Cao Thượng Phẩm cất lên bằng cây ván, tại đất nhà của Ngài thuộc xã Hiệp Ninh, tỉnh Tây Ninh. Khi cất xong, ngôi nhà nầy trở thành nơi họp mặt, cầu cơ của các chức sắc Đại Thiên Phong như Đức Quyền Giáo Tông, Đức Phạm Hộ Pháp, Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, Đầu sư Hương Hiếu... vì Tòa Thánh đang trong thời kỳ xây dựng đầu tiên 1927-1929 Sau đó, trong Đàn cơ ngày 12 Tháng 6 năm Mậu Thìn (Dl. 28/7/1928) Bà Thất Nương Diêu Trì Cung giáng cơ đặt tên cho ngôi nhà ấy là “Thảo Xá Hiền Cung” và ban cho đôi liễn như sau: THẢO XÁ tùy nhơn, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất, 草 舍 隨 人, 愚 昧 貧 窮 迎 入 室 HIỀN CUNG trạch khách, thông minh phú quí cấm lai môn. 賢 宮 擇 客, 聰 明 富 貴 禁 來 門 Nghĩa là: Thảo xá tùy theo người, người ngu muội và nghèo hèn thì đón tiếp vào nhà. Hiền cung chọn khách, người thông minh và giàu sang thì cấm đến cửa. Nhắc lại vào năm 1928, trong lúc Cao Thượng Phẩm cùng các công quả lo xây cất Tòa Thánh bằng cây ván tạm và các cơ sở Ðạo như Hậu Điện, Đông Lang, Tây Lang, Phòng Trù trong khu Nội Ô Tòa Thánh, Ngài bị bọn người xấu vu cáo đục tủ hành hương lấy tiền của Ðạo bỏ túi riêng, rồi nhóm côn đồ ở Chợ Lớn dưới quyền của ông Nguyễn Phát Trước, tục gọi là Tư Mắt dẫn một số đông bộ hạ từ Chợ Lớn kéo lên Tòa Thánh Tây Ninh dùng bạo lực xua đuổi Ðức Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm ra khỏi Toà Thánh Tây Ninh. Đức Hộ Pháp phân vân chưa biết đi đầu thì ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh đề nghị Đức Ngài xuống tạm lánh nơi Thánh Thất Thủ Đức. Ở đó được một thời gian, Ban Cai Quản Thánh Thất đã không tôn trọng mà càng ngày càng tỏ vẻ xem thường Đức Ngài. Thấy vậy, Ngài chán ngán cho tình đời, quyết định phải ra đi. Trước khi đi Ngài có sáng tác một bài thi để lại Thánh Thất Thủ Đức như sau: Thắng khổ người tu vẫn để lòng, Ta thua Thủ Đức phải đành dông. Buồn chưa giỏi đứng trên đầu Rắn, Vui đã phân minh chí khí Rồng. Chẳng kể vịt gà chê tiếng Phụng, Chỉ phiền hồng hộc ghét đuôi Công. Mở kho nuôi đói đây trề miệng, Ta quảy hồng ân rải giáp vòng. Sau đó Giáo Hữu Thượng Minh Thanh nghe tin Đức Hộ Pháp rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, nên tìm lên Thủ Đức để rước Ngài về Thánh Thất Khổ Hiền Trang ở làng Phú Mỹ, tỉnh Mý Tho tạm trú. Khi ở Phú Mỹ, Ngài nhận thấy mọi người đều tôn kính và đặt trọn vẹn đức tin nơi Ngài, nên Ngài ở đó một thời gian gần hai năm, cho đến khi hay tin Đức Cao Thượng Phẩm lâm trọng bịnh, Ngài mới rời Thánh Thất Khổ Hiền Trang để về Tây Ninh thăm bịnh. Còn Đức Cao Thượng Phẩm, lúc ấy phải lui về Thảo Xá Hiền Cung là nhà riêng của Ngài để an dưỡng và tiếp tục tu hành. Tuy nhiên vì nghĩ lại cảnh tình hiện tại, Ngài đã hy sinh danh lợi, quyết lòng theo Thầy, theo Đạo, nhưng bị một số người bạc đãi, đuổi khỏi Tòa Thánh, Ngài đành ngậm đắng nuốt cay rời khỏi vùng Thánh địa, lui về Thảo Xá Hiền Cung tịnh dưỡng vì quá đau buồn và thất chí nên Ngài lâm trọng bịnh. Chính trong quyển Đạo Sử, Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có thuật lại giai đoạn nầy như sau: “Bỗng đâu đất bằng sóng dậy, nước lã khuấy nên hồ đem đến gieo ác cảm cho Ðức Cao Thượng Phẩm, làm cho Ðức Ngài phải về Thảo Xá Hiền Cung. Ðức Ngài quá buồn, vì vâng lịnh Ðức Chí Tôn về Tây Ninh mở Ðạo, Ngài phải bỏ sở làm chưa hưu trí, con còn đang du học tại Paris. Nhớ lại lúc bỏ sở làm thì anh em bạn nói rằng: Thầy Tư, sao Thầy quá tin dị đoan; con còn đang học bên Pháp mà Thầy đi như vậy thì việc học của con phải dở dang sao? Nhưng Ngài nhứt quyết nghe lời Ðức Chí Tôn dạy mà thôi, nên Ngài thu xếp gia đình, bỏ sở làm về Tây Ninh lo Ðạo, chịu biết bao nhiêu cảnh gian nguy vì xưa đến đây đầy những bụi cây, thú dữ phải ăn vác nằm sương mới tạo thành Tòa Thánh tạm và xây cất đủ mọi nơi thành khoảnh thì lại bị thiên hạ đuổi đi!!! Ðức Ngài về Thảo Xá, vì buồn rầu, vì xấu hổ với anh em bạn, mặt mũi nào trở về sở làm được nữa, thế nên Ngài thất chí ước nguyện của Ngài không thành. Vì khi ra đi Ngài quyết chí đem thân này làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn sai khiến, nhưng cơ đời rất nên cay nghiệt, xảy đến nhiều nỗi tang thương cho gia đình Ngài. Ðức Ngài quá đau khổ có làm một bài thi tự thán như vầy: Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh, Bằng địa sóng xao khiến rập rình. Tà mị phàm rung rinh chất Thánh, Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh. Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng, Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn. Thương Ðạo mến Thầy xin sớm liệu, Cộng tâm chung trí chớ làm thinh”. Trong một đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung, Thất Nương Diêu Trì Cung có ban cho Đức Cao Thượng Phẩm một bài thi để an ủi Đức Ngài: Nghĩ giận mà ra bắt nực cười, Nhờ ai an vị lại an nơi. Trăm năm chưa giữ bền thân sống, Một kiếp đã gây lắm tội đời. Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo, Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời. Nhắn lời nói với phường đen bạc, Ðến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời. Đến ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928) lúc 7 giờ, nghe tin Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng, Hội Thánh cho tạo lập một ngôi Tịnh Thất tại cụm rừng gần Báo Ân Từ hiện nay, rồi Chức sắc lưỡng đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng hiệp nhau đến Thảo Xá Hiền Cung rước Đức Ngài vào nhập tịnh. Ngài nhập Tịnh Thất tại Tòa Thánh một thời gian, khoảng hơn hai tháng, mà bịnh tình của Ngài cũng chưa thuyên giảm. Ngài lại quyết định trở về Thảo Xá Hiền Cung. Sau khi lìa Tòa Thánh, về Thảo Xá Hiền Cung tịnh dưỡng, cho đến ngày 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ, 1929, lúc 11 giờ trưa, Ðức Thượng Phẩm cho mời Ðức Hộ Pháp, ông Bảo Văn Pháp Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu, cùng một vài vị chức sắc khác có mặt. Theo quyển Đạo Sử viết, Ðức Thượng Phẩm nhìn Ðức Hộ Pháp trối rằng: Nay Qua về chầu Ðức Chí Tôn, em ở lại hiệp với Chức Sắc chung lo nền Ðạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự. Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn. Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt, kế day qua nói với bạn thân của Ngài (Bà Hương Hiếu) căn dặn để trọn tâm lo tròn phận sự; nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn êm ái, gương mặt cũng như người đương ngủ. Có một điều phi thường là lời trối Ngài nói có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Cả Chức Sắc có mặt đều cảm động ngùi ngùi thương tiếc”. Khi Ngài dứt hơi thì Ðức Hộ Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng Liên Ðài hình Bát giác để liệm Thánh thể Ngài, rồi quàn Liên đài tại Thảo Xá Hiền Cung ba ngày để làm lễ tế điện. Khi chức Sắc Hiệp Thiên Ðài cầu cơ, Ðức Thượng Phẩm có giáng tỏ vẻ vui mừng, được về bái mạng Ðức Chí Tôn cùng Đức Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung. Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt: CAO thanh miệng thế mặc chê khen, THƯỢNG trí màng chi tiếng thấp hèn. PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá, Từ bi tập tánh được thường quen. Khi Đức Cao Thượng Phẩm quy Tiên được thờ tại Thảo Xá Hiền Cung. Sau khi mãn tang Đức Ngài, Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu bèn hiến ngôi nhà thờ nầy và miếng đất chung quanh cho Hội Thánh, rồi vào năm 1930, bà tình nguyện đi hành Đạo ở địa phương. Hội Thánh cho sửa lại ngôi Thảo Xá Hiền Cung bằng ngói âm dương và trên miếng đất mặt tiền đó, Hội Thánh cho cất thêm một ngôi Thánh Thất, gọi là Thánh Thất Thị Xã Tây Ninh. Cuối cùng ngôi Thánh Thất Thị Xã Tây Ninh được trùng tu lại, đồng thời ngôi Thảo Xá Hiền Cung cũng được xây dựng lại như bằng vật liệu nặng như công trình ngày hôm nay. Tóm lại ngôi Thảo Xá Hiền Cung đã được Hội Thánh nhìn nhận là một di tích Đạo sử: * Là nguồn cội của chi Đạo Hiệp Thiên Đài. * Là nơi thông linh giữa các Đấng Thiêng Liêng và các Cao Đồ: Đức Quyền Giáo Tông, Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm, chư vị Thời Quân, Bảo Quân, bà Đầu Sư Hương Hiếu… trong thời kỳ đầu xây dựng Tòa Thánh (1927- 1929). * Là nhà Tịnh của Đức Cao Thượng Phẩm.
TÌM VỢ DÂNG DƯATrong tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận của Bà Đoàn Thị Điểm có một đoạn thơ như sau: Chẳng lẽ nói cho chàng đen bạc, Chẳng lẽ cho cỡi hạc quên nhà. Không đành nói thác ra ma. Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.
Không lẽ nói mến anh quên én, Không lẽ rằng trộm nén hương thừa. Nói chi Tìm Vợ Dâng Dưa, Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng Nga.
Không lẽ nói đi qua Đông độ, Không lẽ rằng vô số chinh phu. Lẽ nào nói bị tội tù, Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.
Còn nói thiệt rằng chàng phụ thiếp, Cũng vì mê theo kiếp làng chơi. E con đến lớn nên người, Gương cha để thẹn những lời bợm hoang.
Riêng chịu thảm không than với trẻ, Đổ lụy rơi theo khóe miệng cười. Vui là gắng gượng làm vui, Cái vui cùng trẻ là hồi ai bi. Đoạn thơ trên Bà Đoàn Thị Điểm có dẫn điển tích “Tìm vợ dâng dưa”. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của tích nầy. Điển tích “Tìm vợ dâng dưa” ý nói Lưu Toàn dâng dưa cho vua Diêm vương để tìm kiếm vợ là Lý Thúy Liên đã chết dưới Âm phủ. Điển tích nầy được dẫn trong truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân như sau: Ngày xưa, vua Đường Thái Tông có du Địa phủ. Lúc từ giã Thập Điện Diêm Vương, vua Thái Tông có hứa rằng về đến cõi Dương gian rồi sẽ sai người đem dưa tặng cho vua Thập Điện. Khi về cõi Dương gian, Vua nhớ lời hứa bèn cho treo bảng để chọn người đi xuống Âm phủ dâng dưa. Bảng treo được ít ngày thì có người tình nguyện xin đi. Người đó là Lưu Toàn quê ở Quảng Châu, nhà giàu có, tính người lại khẳng khái. Ông có người vợ là tên là Lý Thuý Liên, rất sùng tín đạo Phật. Một hôm có nhà sư đứng ngoài cổng khuyến giáo, nàng rút trâm vàng để cúng dường cho nhà sư, Lưu Toàn bắt được, cho vợ là mất nết, mắng chửi không tiếc lời, đến nỗi nàng tức giận treo cổ tự tử, bỏ lại hai đứa con còn khờ dại, một trai và một gái. Lưu Toàn buồn rầu, tức bực, gửi hai đứa con ở lại, quyết xuống Âm phủ tìm vợ, nên lãnh nhiệm vụ dâng dưa cho vua Thập Điện. Hôm dâng dưa, Lưu Toàn được đưa đến quán Kim Đình, đầu đội cặp dưa hấu to, túi đựng đầy giấy tiền vàng bạc, miệng ngậm thuốc độc. Giây lát, Lưu Toàn chết, linh hồn đội cặp dưa xuống Âm phủ. Khi đến Âm phủ, hồn Lưu Toàn trình với quỷ xứ rằng: Vâng lệnh hoàng đế Đường Thái Tôn xuống dâng dưa cho vua Thập Điện. Quỷ xứ bèn dắt Lưu Toàn vào Sum La điện ra mắt Diêm chúa. Hồn Lưu Toàn quỳ trước điện tâu rằng: Hoàng Đế Thái Tôn dạy tôi dâng cặp cho Bệ Hạ mà tạ ơn. Diêm chúa khen rằng: Vua Thái Tôn có đức nên hứa chẳng sai lời. Khen rồi mới hỏi tên họ người tình nguyện dâng dưa. Lưu Toàn mới kể việc gia đình mình gặp cảnh khổ sở, vợ là Lý Thúy Liên thắt cổ chết, bỏ lại hai đứa con khờ kêu khóc ngày đêm, nên tức mình bỏ nhà cửa, bỏ con dại mà đi dâng dưa để cho gặp vợ. Vua Diêm Vương truyền lịnh dẫn hồn Lý Thúy Liên đến để gặp mặt chồng. Lại truyền Phán quan đem bộ tử ra xem, thấy số vợ chồng Lưu Toàn sau thành Tiên hết thảy, mới sai quỷ xứ hườn hồn cho hai người. Quỷ xứ tâu rằng: Lý Thúy Liên chết đã ba tháng, thây đã rã rời, hườn hồn sao đặng? Vua Diêm Vương nói: Đường Ngự muội Lý Ngọc Anh nay đã mãn số. Vậy thì mượn xác thế vào. Quỷ sứ đưa hồn hai vợ chồng về cõi nhân gian, hồn Lưu Toàn đến Trường An nhập vào xác của mình ở quán Kim Đình. Riêng Thuý Liên vì đã chết quá lâu, xác bị thúi nát, quỷ sứ được lịnh Diêm Vương cho nhập vào xác của Công chúa vua Đường là Lý Ngọc Anh vừa mới té chết. Xác Công chúa, nhưng hồn là Lý Thuý Liên, nên khi tỉnh dậy, nàng không nhận mình là Công chúa, chỉ xin nhà vua cho tái hiệp với chồng là Lưu Toàn mà thôi. Vua Đường Thái Tông ưng thuận cho hai vợ chồng Lưu Toàn tái hiệp và ban thưởng hai người rất trọng hậu.
BIỆT NGHIỆP VÀ CỘNG NGHIỆPA - NGHIỆP Nghiệp là một từ ngữ thường dùng trong Phật giáo, dịch từ Phạn ngữ là Karma, nghĩa là tạo tác thiện ác từ thân, khẩu, ý. Nghiệp chính là con đường đi từ nhân tới quả của một kiếp hay nhiều kiếp. Theo giáo lý Phật giáo, nghiệp là những hành động có tác ý của thân, khẩu, ý, tức là những việc cố ý làm, có tính toán hay trong thâm tâm khởi lên những ước muốn, những dục vọng nào đó có tính cách thường xuyên và cố gắng thực hiện cho bằng được. Đó là những việc làm, những ý nghĩ thiện hay bất thiện được lập đi lập lại, tạo nên sức mạnh chi phối tự thân và hoàn cảnh. Đức Phật khuyên con người phải có ý thức về sự quan trọng của nghiệp, tức là buộc phải chú tâm về hành động của mình hầu tránh khỏi bị mang nghiệp. Chính con người là chủ nhân của nghiệp, một khi đã tạo ra nghiệp, cũng chính con người phải chịu hậu quả của nghiệp. Vì vậy, Đạo Phật chủ trương con người làm chủ hành động của mình và cũng chịu trách nhiệm về hậu quả hành động của mình, không ai chịu thay cho mình được. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết: Đã mang lấy nghiệp vào thân Thì đừng trách lẫn Trời gần Trời xa. Đức Thượng Sanh, khi luận về chữ nghiệp Ngài cũng có đoạn dạy: “Ðức Phật Thích Ca thấy chúng sanh cứ sanh rồi chết, chết rồi lại sanh, cứ mãi bị trói buộc trong vòng sanh tử để trả NGHIỆP quả không thể thoát ra khỏi nên gọi là Luân hồi. Giờ đây hiểu thấu cái nguyên nhân của sự vay trả ở cõi đời, tự nhiên ta nhận thức tại sao mà ta sanh ra ở cõi thế, ta từ nơi nào mà đến vậy và đến đây để đi về đâu? Tại sao con người phải khổ đau? Phải rên siết? Kinh nhơn quả có nói: “Dục tri tiền thế nhân kim sanh thọ giã thị, dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.” Nghĩa là muốn biết nhân đời trước xem kết quả đời này, muốn biết kết quả đời sau xem nguyên nhân đời hiện tại. Mỗi người đều mang vào thân cái quả hay là Nghiệp hoặc nhiều hoặc ít. Nếu trong kiếp sanh chúng ta vừa trả quả tiền kiếp vừa tạo nhân lành cho kiếp sau, nghĩa là mỗi người dầu ở trong hoàn cảnh nào đều giữ lòng công bình chơn chánh, thương người mến vật, khắc kỷ tu thân thì trên đời gió bụi này đâu còn trông thấy những cảnh trạng đau thương khốc hại nữa. Luật nhân quả vẫn mầu nhiệm sâu xa. Có khi nhân ở kiếp trước sanh ra quả đời này, có khi nhân ở kiếp nầy sanh ra quả ở kiếp sau. Các nhân quả ấy xen lộn hoặc nhập lại thành cái thân tâm và cảnh giới của con người để sắp đặt cuộc thành bại, hư nên, họa phước của mỗi cá nhân một cách công bình mực thước”. Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa một chiều, hễ nói nghiệp thì chẳng phải là điều xấu, điều ác không. Kỳ thật, nghiệp cũng có xấu và cũng có tốt, gọi là Thiện nghiệp và ác nghiệp. Thiện nghiệp là nghiệp lành, tức là những việc làm thiện từ kiếp trước, có tính cách giúp người, giúp đời thì các việc đó tạo thành thiện nghiệp. Nghiệp nầy sau sẽ nhận được những điều hiền lành, may mắn, hay hạnh phúc. Ác nghiệp là nghiệp dữ, tức là những việc làm thiếu đạo đức, gian ác thì các việc ấy gây thành ác nghiệp, sẽ theo báo hại cho kiếp sống sau của chúng ta. Ác nghiệp đã làm rồi thì không thể nào trốn tránh được kết quả của nó. Trong kinh Pháp Cú câu 127 Đức Phật có dạy: Không trên trời, dưới biển, Không lánh vào động núi, Không chỗ nào trên đời, Trốn được quả ác nghiệp. Chính do nghiệp mà con người cứ mãi ở trong vòng lẩn quẩn, tức là sanh ra, lớn lên, trả nghiệp cũ, vay nghiệp mới, cứ thế mà luân hồi để vay trả mãi mãi. B - BIỆT NGHIỆP VÀ CỘNG NGHIỆP Giáo lý đạo Phật có chia ra làm hai loại quả báo hay nghiệp báo: Nghiệp riêng và nghiệp chung. Nghiệp riêng thì gọi là biệt nghiệp và nghiệp chung thì gọi là cộng nghiệp. 1- Biệt nghiệp là nghiệp riêng, tức quả báo riêng từng người, ai tạo nhơn là nấy thọ quả. Theo luật nhân quả, người nào tạo nhân thì người đó phải gánh chịu quả nghiệp, không ai chịu thế cho ai. Trong Kinh Phật có câu: “父 作 不 善, 子 不 代 受, 子 作 不 善, 父 不 代 受. 善 自 獲 福, 惡 自 受 殃. Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ; tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ. Thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương”, nghĩa là cha làm điều chẳng lành, con không chịu thế được; con làm điều chẳng lành, cha không chịu thế được. Làm lành tự được phước, làm dữ tự mang họa. 2- Cộng nghiệp là nghiệp chung, tức quả báo chung cho nhiều người và họ sẽ chịu chung quả báo tùy theo thiện hay ác. Như nói cộng nghiệp của một gia đình, cộng nghiệp của một quốc gia. Quả báo chung của cộng nghiệp mà nhiều người thọ lãnh, gọi là cộng báo. Chúng ta nên biết, không phải một nghiệp ác đời nầy sẽ sinh ra quả báo ở đời sau, mà nó có thể gây ra từ nhiều kiếp trước, khiến họ do nhân duyên ràng buộc phải chịu chung quả nghiệp một lượt với nhau. Lại có khi một người làm ác mà cả nhóm đều hưởng lợi, thì những người trong nhóm cũng phải chịu chung một cộng nghiệp. Do những nguyên nhân trên, nghiệp đã tập trung những người có quả báo giống nhau về chịu chung một tai nạn với nhau. Ví dụ: Trận động đất kèm theo sóng thần đã xảy ra trên đảo Sulawesi, đông bắc Indonesia. Những nạn nhân trong cuộc động đất kèm theo sóng thần nầy trong quá khứ mỗi người đã tạo ra từng nghiệp khác nhau và ở rải rác khắp nơi trên thế giới. Nhưng quả báo của họ giống nhau là phải chịu chung trận động đất kèm sóng thần chôn vùi họ. Do vậy, nhân duyên đã đưa đẩy khiến nhiều người tự tìm đến sống quay quần dọc theo bờ biển, hoặc do nhân duyên ràng buộc khiến một số người có mặt tại nơi xảy ra tai nạn do công việc, hay do du lịch dúng vào ngày giờ đó. Chúng ta nghĩ, chưa chắc là những nạn nhân nầy đã từng tạo chung một nghiệp ác trong quá khứ. Có thể mỗi người tạo riêng cho mình mỗi nghiệp nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều chịu một quả báo giống nhau nên nhân duyên đã đưa đẫy họ cùng một quả báo. Vì vậy người nghiệp nặng thì bị chôn vùi nơi biển cả, người nghiệp nhẹ hơn thì bị gãy tay chân, hay chỉ bị xây xát mà thôi, còn người không mang cộng nghiệp đó khiến tránh được tai nạn. Ngoài ra, hai loại nghiệp nầy (biệt nghiệp và cộng nghiệp) có liên hệ mật thiết, tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Như trên đã nói, cha mẹ làm ác thì chính họ sẽ phải gánh chịu, con cái không chịu thế, ngược lại con cái làm ác thì chính con cái gánh chịu, cha mẹ không chịu thế. Đó là biệt nghiệp. Còn cha mẹ làm ác mà con cái phải gánh chịu là do cộng nghiệp. Nếu con cái có liên hệ cộng nghiệp với cha mẹ, thì những nghiệp thiện hay ác mà cha mẹ gây ra sẽ tác động tốt hay xấu lên con cái. Và ngược lại, những nghiệp thiện hay ác mà con cái tạo ra sẽ tác động tốt hay xấu lên cha mẹ. Ví dụ như trong một gia đình người cha vi phạm pháp luật, ra tòa bị kêu án tù năm năm, thì người cha phải chịu tội, không ai chịu thế, cái đó gọi là biệt nghiệp. Nhưng những người con trong gia đình sẽ phải gánh chịu khổ sở vì cộng nghiệp, làm ảnh hưởng tác động trên nhiều phương diện như kinh tế gia đình sa sút, không có người dạy dỗ ảnh hưởng đến việc học hành của con cái… Hoặc tùy thuộc vào biệt nghiệp và cộng nghiệp cái nào mạnh hơn thì kết quả sẽ có sự sai khác. Ví dụ: Trong một gia đình kia, người vợ có tánh tốt, biết bổn phận, biết lo làm ăn, người chồng thì bê tha rượu chè, cờ bạc. Mỗi lần ông chồng cờ bạc thua, về nhà là khảo tiền, nếu bà không cho thì ông chửi mắng thậm tệ. Có khi xua đuổi, đánh đập bà vợ. Người thân thuộc, láng giềng thấy vậy thương xót cho hoàn cảnh bà vợ và thắc mắc tại sao bà không ly dị cho rồi, cứ để ông chồng hành hạ khổ sở như thế? Nhưng chúng ta biết, sở dĩ bà vợ không thể ly dị được là vì bà còn thương chồng (đó là cộng nghiệp nặng). Như vậy, người vợ có cái nghiệp riêng của mình, mà cũng phải chịu cái nghiệp chung với ông chồng, do cái cộng nghiệp nặng nên bị chửi mắng, đánh đập mà người vợ vẫn không thể ly dị với chồng được. C - THOÁT NGHIỆP Chúng ta đã biết, biệt nghiệp hay cộng nghiệp cũng đều là nghiệp do chúng ta tạo ra gây thành quả báo. Làm thế nào mới có thể thoát khỏi nghiệp? Như chúng ta biết nghiệp là hành động, nghiệp do hành động tạo ra, thì nghiệp cũng do hành động của con người mà thay đổi. Chúng ta có thể thay đổi quá trình chuyển nghiệp, bằng cách tác động vào nó, trước khi hình thành quả vui hay buồn, tốt hay xấu. Sở dĩ có sự luân hồi là do nghiệp. Nếu trả hết nghiệp cũ mà chẳng vay nghiệp mới thì dứt nghiệp, dứt luân hồi. Chúng ta không vay nghiệp mới, tức không làm những điều ác trong kiếp nầy gây đau khổ và thương tổn cho người khác. Còn muốn trả hết nghiệp cũ thì chúng ta cần phải biết chủ nợ. Điều nầy không thể biết được, vì nghiệp nầy ở kiếp trước gây ra. Do đó chúng ta chỉ có cách duy nhứt là tu và hành. Tu để biết rõ nhân quả, nhưng nếu không hành thì không bao giờ tháo gỡ được nghiệp, mà nhiều khi còn kết nối ra thêm, tạo nhiều mối nghiệp khác. Tu học là giải pháp để chọn cho mình một con đường sáng thoát khỏi nghiệp lẫn một định mệnh khắt khe hay là một định mệnh mà mình đổ thừa chỉ vì kết quả của sự sai lầm của chính mình. Đạo Cao Đài mở ra trong thời Hạ ngươn mạt pháp này tức lập ra một trường thi công quả để đón nhận những vị nào muốn trả dứt các nghiệp cũ, đồng thời tạo ra công đức để chơn linh có thể gắm ghé ngôi vị Thần, Thánh, Tiên Phật nơi cõi thiêng liêng. Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc đạo phải có công quả. Như vậy công quả được xem như là của cải vô vi dùng để trả hết nghiệp cũ và làm phương tiện đạt được những phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng.
Ý NGHĨA CHỮ TÂMThánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy: Mẹ để lời dưới đây cho các con dùng làm chuẩn thằng trong bước Đạo: Gắng sức trau giồi một CHỮ TÂM, Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm. Tâm thành ắt đoạt đường tu vững, Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm. Tâm ái nhơn sanh an bốn biển, Tâm hòa Thiên hạ trị muôn năm. Đường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn, Có buổi hoài công bước Đạo tầm. Hãy suy nghĩ và thật hành bao nhiêu đó, các con sẽ đắc đạo tại thế vậy. Mẹ ban ơn cho các con. Và Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ trong Đàn cơ ngày 16 tháng 7 năm Giáp Tuất (Dl. 25/8/1934) đã dạy: Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một CHỮ TÂM và những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng. Cũng vậy, trong Đại Thừa Chơn Giáo Đức Chí Tôn dạy nhơn sanh là Đạo tại Tâm, không cần tìm Đạo ở nơi khác, nghĩa là chỉ cần cố gắng trau dồi cái Tâm của mình sáng suốt là được. Ngài nói: Ðạo đâu? Ðạo ở nơi TÂM, Thì đâu có phải kiếm tầm đâu xa. Nếu xét về phương diện vật chất, Chữ Tâm có nghĩa là trái tim, là bộ phận tối quan trọng, luôn đập không ngừng cho ta sự sống. Trái tim có trách nhiệm lưu thông máu đi khắp các vùng cơ thể, vận chuyển oxy và các dưỡng chất tới các mô. Trái tim còn là tạng chứa tình cảm và tình yêu thương. Xét về phương diện tinh thần, Tâm có nghĩa là tấm lòng, lòng dạ, tâm trạng của con người. Theo ý nghĩa nầy, người tu hành rất cần thiết phải tìm hiểu tác dụng của chữ Tâm. Do Tâm là nguồn gốc sanh điều lành việc dữ, là cái máy tạo thành Thánh phàm, hoạ phước, cho nên Ông Hy Di đã giải thích về chữ “Tâm 心” qua bài thi như sau:
Nghĩa là: Ba chấm như hình ba ngôi sao, dưới một vòng câu như hình nguyệt xế, loài cánh loài lông bởi đó mà được, thành Phật cũng do nơi đó. I - TÂM LÀ LƯƠNG TÂM Chữ Tâm ở đây trước nhứt là Lương tâm, phần quý báu nhứt trong con người chúng ta. Chính Lương tâm giúp cho con người sáng suốt, biết điều nhân nghĩa, lẽ phải trái, mến đạo đức, chuộng tinh thần, thuận theo Thiên lý. Lương tâm ấy đã có sẵn trong mỗi con người chúng ta từ khi mới sanh. Nhưng rồi vì ta đắm đuối vào vật dục, nên cái Lương tâm nầy càng ngày càng mờ tối, khiến cho ta quên điều nhân nghĩa, lẽ công bình, điều phải trái. Bởi vậy Thánh Hiền xưa thường khuyên phải giữ cái Tâm ấy của mình sao cho được hồn nhiên thuần hậu như cái Tâm của trẻ con là quý nhứt, gọi là “xích tử chi Tâm”. Chúng ta thấy chữ Tâm rất quan trọng cho người bước chân vào đường Đạo, vì vậy cho nên chúng ta thử xét về ý nghĩa của chữ “Tâm” qua Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo và giáo lý Cao Đài. A - Chữ Tâm theo Phật giáo: Theo Phật, Tâm là cái hiểu biết phân biệt, Tâm không có hình tướng, nên chúng ta không thể dùng mắt mà thấy được Tâm, dùng tai để nghe được tâm. Mà chỉ thấy các tác dụng thấy, nghe, phân biệt của nó, nên chúng ta biết có tâm. Cũng như điện, người ta không thấy được điện, mà chỉ do thấy cái tác dụng của nó như thấy đèn sáng, quạt xoay, nên biết có điện. Phật giáo cho Tâm làm chủ vạn pháp. Tâm hoạt động, tạo tác ra nghiệp báo luân hồi, sanh tử nếu Tâm bị vô minh che lấp. Đứng về phương diện sinh diệt tương đối thì Tâm của chúng sanh có muôn ngàn sai khác tùy theo chủng tánh. Khi Tâm có tham, sân, si thì nó thấp hèn, tội lỗi. Khi tâm có giải thoát, giác ngộ thì nó trở nên cao thượng, trong sạch. Đứng về phương diện chân như tuyệt đối thì tâm của chúng sanh và tâm của Phật là một, không có sai biệt. Tâm của chúng sanh đồng với tâm Phật. Tất cả chúng sanh đếu có Phật tánh. Tâm của chúng sanh sở dĩ bị nhiễm trược là tại vì chúng sanh dùng cái Tâm sanh diệt chạy theo trần cảnh, còn cái Tâm chân thật, không sanh không diệt, không có hình tướng thì làm gì có nhơ có nhiễm. Cho nên Kinh sách bên Phật giáo tạm chia ra chân tâm và vọng tâm cho dễ phân biệt, dễ hiểu, chứ Tâm không có hai. Chân tâm là cái tâm chân thực vốn thanh tịnh, an nhiên, tự tại, không bị phiền não vọng động, vọng thức chi phối che mờ, là thể tánh không sanh diệt, tức là trí huệ bát nhã. Mỗi con người chúng ta đều có tâm thể chân thật, hằng hữu bất biến (chân tâm). Nhưng vì quên nó, chúng ta cố chấp nội tâm vọng tưởng, ảo ảnh là tâm mình, hằng ngày chúng ta chỉ sống với tâm sanh diệt, đối đãi phân biệt. Vọng tâm là tâm hư vọng, là tâm phân biệt, luôn chạy theo ngoại cảnh, ngoại trần, bị các dục vọng chi phối, bị ngoại trần sai sử, điều khiển. Vọng tâm nầy luôn thúc đẩy con người chạy theo ngũ dục, làm cho con người sanh ra phiền não khổ đau. Vì vậy, muốn thoát khỏi phiền não khổ đau thì chúng ta phải xóa bỏ vọng tâm, là cái Tâm thường lôi cuốn con người vào đường tội lỗi. Nếu không bỏ vọng tâm thì chân tâm diệu minh không hiện phát ra được. Xóa bỏ vọng tâm tức là để cho chơn tâm phát hiện, người tu hành mới thoát khỏi thất tình lục dục hiểu thấu chơn lý và thắng được mọi sự khổ đau. B - Chữ Tâm theo Lão giáo. Lão giáo chủ trương Tâm phải giữ cho thanh tĩnh vô vi. Muốn vậy, người tu theo Lão giáo phải hành từng giai đoạn từ Tâm trai, rồi đến Ngộ Đạo, sau cùng là Huyền Đồng. Tâm trai là con đường phải cố gắng đạt đến chỗ thanh tĩnh, vô vi, Đây là giai đoạn đầu tiên người tu tập phải “thiểu tư, quả dục”, nghĩa là cần phải từ bỏ tất cả những ham muốn trở về với lối sống tự nhiên, giản dị, ít dục vọng. Mục đích của con đường là nhằm gột bỏ đi những gì mang tính vị kỷ nơi con người. Chính Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đã viết: Vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi, nghĩa là theo Đạo, càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi (tức là vô dục, không còn ham muốn nữa). Như vậy, con đường Tâm trai này là con đường dứt bỏ, dứt bỏ tất cả, dứt bỏ cả cái “tôi” giả dối, nhân tạo để trở về với cái “tôi” đồng nhất với Đạo. Ngộ Đạo có nghĩa là hiểu biết và nắm bắt được nguyên lý vận hành của Đao. Ngộ Đạo là sau khi đã Tâm trai rồi đã đứt bỏ đi tâm phàm, tánh tục, để thấy cái tâm Thánh, tâm Đạo trải rộng thênh thang trong lòng mình và ở khắp nơi. Và một khi đã ngộ Đạo thì mới có thể “Hoát nhiên đại ngộ”. Huyền Đồng là hòa làm một với tất cả. Ở giai đoạn ngày, người tu tập đã hòa mình làm một với Đạo, với tất cả vũ trụ vạn vật, không còn thấy chút gì là riêng tư hay phân biệt nữa. Khi đã thực hiện được “huyền đồng”, thì tất cả đều là Một, như Đạo Đức Kinh đã viết: Giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị Huyền Đồng”. Tóm lại Lão giáo chủ trương "Thanh tĩnh Vô Vi" để tự nhiên tùy tùng Thiên lý, mà gom thần, định trí cho đến chỗ Huyền Đồng với vũ trụ và con người. Đó là con đường đi đến đắc Đạo vậy. C - Chữ Tâm theo Nho giáo. 1- Theo Khổng Tử Khổng Tử cho rằng Tâm chính là cái Thần minh làm chúa tể hành động cùng tư tưởng con người. Thần minh ấy là cái tinh thần sáng suốt, cái khí tinh anh của con người, nói một cách khác đó là cái minh đức, lương tri, lương năng, hay trực giác mà Trời đã ban cho mỗi con người chúng ta, nhờ đó mà chúng ta hiểu biết mọi việc và linh hơn muôn vật. Sách Lễ Ký, thiên Tế Nghĩa chép rằng: “Chết không phải là hết. Chỉ hết cái hình hài mà thôi, còn cái khí tinh anh tức là tinh thần thì lại về chỗ sáng rõ ở trong vũ trụ”. Như vậy theo Nho giáo, sau khi chết, khí tinh anh không tiêu tan mà vẫn còn tồn tại, chỉ có xác thịt bị phân hủy theo thời gian mà thôi. 2- Theo Mạnh Tử Mạnh Tử cho rằng tâm và tính là một. Chữ Tính ở đây không phải chữ tính mang nghĩa tính nết như tính công bình, tính lương thiện, tính bác ái hoặc gồm những nết xấu như tính ích kỷ, tính ganh tỵ, tính tự ái… Những thứ tính nầy chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, tập quán, phong tục và tùy theo sự giáo dục mà nó có. Trái lại chữ Tính mà Mạnh Tử quan niệm ở đây là phần thiên lý do Trời phú cho mỗi người chúng ta gồm các đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Như vậy, chữ Tính của Mạnh Tử chính là cái minh đức (minh đức là đức sáng), nên Tính nầy luôn luôn là thiện. Nếu Tính đã là cái Thiên lý mà Trời phú cho con người thì tâm cũng chính là cái thần minh của Trời ban cho con người để hiểu tất cả mọi việc, hay nói cách khác Tâm và Tính là một. Mạnh Tử có nói: “Phát huy đến cùng cực cái Tâm của mình thì biết được cái Tính, biết được cái Tính của mình thì biết được Trời". Và Mạnh Tử lại giải thích: “Sở dĩ biết được cái Tính của mình là biết được Trời vì Tính của mình do Trời sinh ra, chính là một phần bản thể của Trời vì Trời với người là một". Vậy theo Mạnh Tử, Tâm (như Tính) với Trời đều là một, nên có thể gọi chữ Tâm nầy nầy là Thiên Tâm, đạo tâm, lương tâm đều được cả. 3- Theo Tuân Tử Tuân Tử cho rằng: Tâm là chúa tể cả muôn vật, muôn sự. Ngài nói: Tâm là vua cái hình thể, là chủ cái thần minh, ra lịnh chứ không chịu lịnh ở đâu cả. Tự cấm lấy, tự khiển lấy, tự cướp lấy, tự làm lấy, tự thôi lấy. Tâm luôn luôn là chủ tể, có năng lực tự chủ nên không thể bị sai khiến bắt ép được. Tuân Tử lại nói tiếp: Cho nên cái miệng thì có thể bắt ép phải im không được nói, cái hình thể thì có thể bắt ép co lại, duỗi ra chứ cái Tâm thì không thể bắt ép mà khiến đổi ý đi được. Cứ phải thì chịu trái thì bỏ”. Tuy nhiên có một điều nguy hại cho Tâm là ngoại vật thường làm rối loan ngũ quan, mà ngũ quan lại tác động vào Tâm, làm cho Tâm bị mù quán, không thấy rõ điều ngay, lẽ phải được. Do đó theo Tuân Tử, mọi việc sai lầm điều bắt nguồn từ cái Tâm bị nghiêng lệch, cái Tâm không định mà ra cả. “Cái Tâm của người ta như mâm nước để ngay mà không động, thì cái cặn cái đục lắng xuống dưới đáy, cái trong cái sáng nổi lên trên, có thể soi rõ râu mày và cả những cái ngấn mặt. Đến khi có ngọn gió thổi qua, cái cặn cái đục động ở dưới, cái trong cái sáng loạn ở trên thì cái mặt cũng không thể soi rõ được. Tâm của người ta cũng thế, lấy cái mà đạo dẫn, lấy cái khi khinh thanh mà nuôi, khiến cho ngoại vật không làm nghiêng lệch được thì đủ định được điều phải trái, quyết được việc hiềm nghi. Nếu để một việc nhỏ quyến rủ, làm cho cái ngay chính ở ngoài thay đổi đi, cái Tâm ở trong nghiêng lệch đi thì dù đến cái lý thô thiển cũng không quyết được. II - TÂM LÀ LINH HỒN, THÁI CỰC. Chữ Tâm, ngoài cái nghĩa là Lương Tâm, còn có nghĩa là Chơn linh, Linh hồn, Thiên tâm, Chơn tâm, Phật tánh…. Tùy theo người theo đạo Nho, đạo Phật hay đạo Thiên chúa. Chữ Tâm còn có nghĩa là Tâm Vũ trụ, là trung tâm điểm, là Thái cực. Thật vậy, trong vũ trụ thì Thái cực là chủ tể của muôn loài vạn vật, dưỡng dục vạn linh, bảo tồn muôn loại. Thái cực ấy biến hóa vô cùng vô tận, làm cho muôn loài vạn vật cùng tiến hóa theo, do đó Thái cực chính là trung tâm điểm của Càn khôn, là Tâm vũ trụ. Vậy Tâm chính là Thần, là Chơn linh, là Tiểu Linh quang mà Trời hay Thái cực là một khối Đại Linh quang đã chiết ra ban cho mỗi con người chúng ta. Tâm là nơi ngự trị của Trời, của Đức Chí Tôn. Chính trong Thi Văn Dạy Đạo Đức Chí Tôn đã giải rõ: Nơi lòng Thầy ngự, động Thầy hay, Ngặt nỗi là xưa chẳng thế bày. Ðạo hạnh khuyên con gìn tánh đức, Cửa Cung Bạch Ngọc đã gần khai. Chúng ta vừa xét qua ở trên về ý nghĩa chữ tâm qua Tam giáo, đồng thời, trong đạo Cao Đài, với tôn chỉ quy nguyên Tam giáo, chữ Tâm ở đây là tổng hợp của Nho, Lão và Phật. Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy trau giồi chữ Tâm đó như sau: Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật. Và trong Thuyết Đạo, Đức Thượng Sanh cũng giải thích về chữ Tâm: “Tâm là một nguồn sáng Thiêng Liêng, một điểm linh quang của Ðức Chí Tôn ban bố cho con người để khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như bước đường Ðạo của mỗi cá nhân trong kiếp sanh, hầu lúc rời bỏ xác phàm, mỗi nguyên nhân hay hóa nhơn được hoặc qui hồi cựu vị, hoặc thăng đẳng cấp, hoặc bị trừng trị theo Luật Thiên Ðiều. Dầu cho Thần Thánh Tiên Phật khi xuống thế mang xác phàm thì buổi chung qui được hay phạt, thăng hay đọa đều do nơi Tâm cả, và nếu người được tánh linh hơn muôn vật là nhờ có Lương Tâm vậy. Nên để ý là trong các đẳng nhơn sanh, người dầu sang hay hèn, Thánh nhân hay thường nhân, cái tâm của Thiêng Liêng ban cho đều có sự sáng suốt ngang nhau không khi nào chênh lệch. Vì lẽ đó, nếu mỗi người ai cũng theo thiên lý mà tu dưỡng mà hành động thì không ai hơn ai cả. Xưa Thành Nghiễn bảo Tề Cảnh Công rằng: Thánh Hiền là Trượng phu, ta cũng là Trượng phu ta sợ gì không được như Thánh Hiền. Nhan Hồi cũng đã nói: Vua Thuấn là người nào, ta là người nào, ai theo Ðạo mà làm thì cũng thế cả. Tâm được sáng suốt thêm hay trở nên mờ tối là do nơi con người biết nuôi nấng, nâng cao nó lên hay là đàn áp làm cho nó bị che lấp mất. Về mặt Ðạo, đối với người đã tầm được lý tưởng cao siêu, cái tâm cần phải giữ cho trong sạch thanh cao. Vì tôn chỉ Ðạo là khêu ngọn đuốc thiêng liêng để dìu đời cho sáng suốt, chẳng khác chi chiếc thuyền từ vớt khách giữa sông mê, đưa người qua biển khổ. Bên trong đã sẳn cái lý toàn nhiên nơi tâm, bên ngoài nhờ giáo lý cao siêu của Ðạo, người hành đạo có đủ tài liệu phương chước sửa mình và trau giồi hầu treo gương sáng cho người đời noi bước.
NGŨ GIỚI CẤMTrong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giáng huyền cơ mở Đạo là lập một trường thi công quả. Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Người tu hành, nếu chưa trường trai trì giới nổi đặng thì hãy lo lập đức, bồi công để làm nền móng vững chắc cho việc luyện Đạo tương lai, chớ dục vọng mong sớm luyện Đạo để làm Tiên, Phật mà thiếu phần công quả, âm chất. Vì Thầy lập Đạo kỳ này là mở một trường thi công quả. Các con phải đi tại cửa này mới đến đặng Cực Lạc mà thôi”. Như vậy, chúng ta nhập môn vào nền Đại Đạo, thì phải lo bồi công lập đức, tức phải tu phước, là làm những việc lành, như bố thí, cúng dường, ủng hộ những người tu hành chân chính, in kinh, làm chùa, ngoài ra bản thân cũng phải tu huệ là trì giới, ăn chay, học hỏi giáo pháp, tụng kinh, và thiền định. Người hành đạo phải vừa tu phước và tu huệ, gọi là phước huệ song tu. Đó là yếu tố quan trọng trong việc tu hành của một tín đồ Cao Đài. Trong phần tu Huệ, người tín đồ phải trì giới, nghĩa là nghiêm giữ giới luật mà quan trọng nhất buộc người tín đồ phải thực hành là Ngũ Giới Cấm. Đại Thừa Chơn Giáo, Đàn cơ ngày 22 tháng 9 năm bính Tý (Dl. 5/11/1936) Đức Chí Tôn có dạy: Mà tại sao Thầy lại buộc các con luyện Ðạo đều phải giữ tròn Ngũ Giới Cấm? Tại phép luyện đơn là không phải dễ. Nếu các con phạm qui điều, không giữ giới, thì không bao giờ các con tu đắc quả đặng. Như vậy một tín đồ Đại Đạo dù quanh năm lo tạo lập công quả, hoặc luyện Đạo thì cũng phải trau dồi hạnh đức, gìn giữ giới luật, tức là lấy Ngũ Giới Cấm làm phương châm tu tập. Tại sao Ngũ Giới Cấm là giới luật mà Đức Thích Ca Mâu Ni truyền dạy cho các Phật Tử trong thời Nhị kỳ Phổ Độ, mà Đức Chí Tôn giữ lại và duy trì đem vào Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ buộc tín đồ phải nghiêm giữ? Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Đàn cơ ngày 24 tháng 12 năm 1926 có giải thích như sau: “Các con ôi! Nếu nói rằng Thầy đã nhiều cực nhọc từ ngày Khai Ðạo đến chừ, Ðạo đặng phổ thông mau chóng dường nầy, thì đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới phải… Sao Thầy lại buồn? Các con ôi! Các con đã chịu lắm khổ não nơi biển trần nầy… Từ mười ngàn năm rồi đã ở dưới quyền Tà quái áp chế. Vì vậy mà Thầy phải phế hết Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con, chớ chi Thầy đến mà làm cho giảm sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập TÂN LUẬT ràng buộc các con thêm nữa… Vì cớ mà Thầy buồn”. Thầy tỏ thật, cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức, Tiên phong Phật sắc của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật lệ thì trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng! Vậy các con ráng làm phận sự cho hoàn toàn, rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa luật”. Qua lời dạy trên, chúng ta thấy rằng Thầy là Đấng nhân từ đầy lòng thương yêu con cái, khi buộc giữ nghiêm luật pháp sợ nhơn sanh khổ não, nhưng vì sự quan trọng của giới luật, nên Ngài đành phải chấp nhận cho Hội Thánh ban hành Ngũ Giới Cấm là năm giới căn bản cho tín đồ tu tại gia, hoặc chức sắc phế thân hành Đạo. Ngũ Giới gồm có: 1- Nhứt bất sát sanh. 2- Nhì bất du đạo 3- Tam bất tà dâm. 4- Tứ bất tửu nhục 5- Ngũ bất vọng ngữ. Vậy chúng ta thử diễn rộng ra từng giới cấm một. A- NHỨT BẤT SÁT SANH Bất: Chẳng, không. Sát: Giết, làm hại. Sanh: Sanh mạng, sự sống. Nhứt bất sát sanh là chẳng cố ý giết hại sanh vật: Tự mình giết, bảo người khác giết hay thấy người giết mà sanh tâm tùy hỷ tán thành, không thương xót can gián. Tránh tiêu diệt sự sống của muôn loài vạn vật từ con người, động vật, cho đến loài côn trùng thảo mộc trên cõi thế gian. Đây là giới điều đầu tiên và quan trọng nhứt dành cho người thọ giới phải hành trì một cách nghiêm nhặt. Tại sao lại cấm sát sanh như vậy? - Không sát sanh là kính trọng sanh mạng và quyền bình đẳng giữa con người và muôn vật. Con người sống nơi thế gian, ai cũng quý trọng sanh mạng của mình, không muốn mình chịu đau đớn, mà hễ quý sanh mạng mình, không muốn mình đau đớn thì phải quý trọng sanh mạng người khác và không làm cho người khác đau đớn. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra Vạn Vật là: Vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là Chúng sanh”. Như vậy, con người và muôn vật đều do Đức Thượng Đế hóa sanh, và mọi loài đều có bản chất ham sống sợ chết, thích hạnh phúc, tránh khổ đau. Cho nên không sát sanh là kính trọng sanh mạng của con người và muôn vật. Thượng Đế có công sinh thành, nuôi dưỡng con người và vạn vật. Mỗi Chơn linh mà Ngài sinh hóa ra, dù lớn dù nhỏ đều có điểm Linh quang của Ngài chiết ra, cho nên đối với muôn vật, từ côn trùng thảo mộc, đến loài cầm thú và con người, Ngài đều thương yêu như nhau, coi mạng sống của mỗi vật đồng đều như nhau. Trong thi văn có bài: Trời với muôn loài một bổn nguyên Cũng trong linh tánh, cũng tâm điền Linh quang một khối chia nhiều ức Nhơn vật tương đồng với Phật Tiên. Vì thế nếu chúng ta tránh sát sanh hại vật là tôn trọng sanh mạng và quyền bình đẳng giữa các loài chúng sanh. - Không sát sanh là thể hiện đức Háo sanh của Trời Đất, lòng từ bi của chư Tiên, Phật. Thật vậy, không sát sanh còn nhằm nuôi dưỡng lòng thương yêu sanh chúng tức noi theo lòng từ bi của các Đấng Thiêng Liêng. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy “Thầy là Cha của sự thương yêu, do bởi sự thương yêu mới tạo thành thế giới và sanh sản các con”. Như vậy, Ngài là Cha chung của con người và muôn vật, mà muôn vật dù lớn nhỏ đều có một điểm Chơn linh của Thầy phân tánh, nên muôn vật đều được Đức Thượng Đế thương yêu đồng đều như nhau, trong Kinh Sám Hối có viết: Lòng Trời Đất thương đều muôn vật, Đức Háo Sanh Tiên, Phật một màu. Thượng cầm hạ thú lao xao, Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh. Nó cũng muốn như mình đặng sống, Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi. Do sự thương yêu muôn vật, nên Thánh chất của Đức Chí Tôn và Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật là đức Háo sanh. Chính Thánh giáo Thầy đã dạy: “Chi chi hữu sanh cũng bởi Chơn linh Thầy mà ra, hễ có sự sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống. Vì vậy lòng Háo Sanh của Thầy không cùng tận”. - Sát sanh là chận đứng dòng tiến hóa của chúng sanh. Con người và vạn vật sống trong vũ trụ đều mang mục đích là tiến hóa, có tiến hóa mới thay đổi được kiếp sinh của mọi loài. Nhưng nếu chúng ta phạm vào lỗi sát sanh, dù sát sanh những vật bé nhỏ, thì chúng ta đã cản trở con đường tiến hóa của chúng. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy điều đó như sau: “Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn khôn Thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm. Nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hóa”. - Sát sanh là gây ra một mối thù và phạm vào luật nhơn quả. Lễ dĩ nhiên khi chúng ta giết hại một người thì tạo ra mối thù oán, và phạm vào luật sát sanh hại vật thì chúng ta phải thọ một quả báo, bởi vì theo luật nhơn quả thì gây nhơn thì phải thọ quả. Chính Đức Quan Âm Bồ Tát có lời khuyên dạy như sau: “Ta phải mở lòng bác ái, thương xuống đến các vật yếu hèn, một là tránh khỏi sa vào luật quả báo, vì luật Thiên điều chẳng hề vị ai”. Và Thánh giáo Đức Chí Tôn cũng có lời cảnh báo những kể phạm vào giới sát sanh thì phải chịu quả báo: “Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu Nguyên sanh hay Hóa sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước. Nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân hồi mà ra đến đỗi ấy. Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ. Các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy”. Tóm lại người giữ nghiêm giới sát sanh là tôn trọng mạng sống của chúng sanh, thể hiện lòng háo sanh của các Đấng Thiêng Liêng và tránh được quả báo. Để nhắc nhở về giới cấm sát sanh, chúng ta có thể lấy hai bài thơ sau đây để làm phương châm tu sửa: Đầu hết phải gìn giới sát sanh. Hằng lo luyện tập giữ tâm lành. Côn trùng giết hại còn đau đớn, Nhân loại rên la há nỡ đành. Muôn vật đều do Tạo Hoá sinh, Thương yêu tất cả tợ thân mình. Dồi trau như thể lòng Tiên Phật, Đối xử muôn loài, đức háo sinh. B - NHÌ BẤT DU ĐẠO Bất: Chẳng, không. Du: Đi rong. Đạo: Trộm cướp, lén lấy của người. Theo Tân Luật, Nhì bất du đạo là cấm trộm cướp, lấy ngang lường gạt của người, hoặc mượn vay không trả, hoặc chứa đồ gian, hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy, để ý hại người mà lợi cho mình, cờ gian bạc lận. -. Bất du đạo là không trộm cắp. Trộm cắp là lén lấy những gì mà người ta không cho, chiếm đoạt tài sản của người mà không phải do mình làm ra. Chúng ta nên biết quyền sở hữu tài sản được đạo lý và pháp luật công nhận là quyền bất khả xâm phạm. Kẻ nào có hành vi trộm cắp, lường gạt với bất cứ hình thức nào đều bị lên án xấu xa, làm nhục tổ tiên ông bà, hoặc bị tù tội. Trộm cắp là do lòng tham mà xâm phạm tài sản của người khác, có khi dẫn đến giết người, vì vậy Điều thứ nhì của Ngũ Giới là cấm trộm cắp. Trong Kinh Sám Hối có đoạn dạy: Người quân tử chẳng thà chịu khổ, Đâu làm điều nhục tổ hổ tông? Đứa ngu thấy của thì mong, Không gìn tội lỗi phép công nước nhà. Đoạn Kinh trên lấy ý từ lời nói của Đức Khổng Tử: “Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ 君 子 固 窮, 小 人 窮 斯 濫 矣”, nghĩa là người quân tử cố giữ lúc khốn cùng, kẻ tiểu nhân gặp khốn cùng thì làm bậy. Bởi vì người quân tử lúc nào cũng sống vì đạo nghĩa, nên dù nghèo khổ cũng không trộm cắp hay lường gạt mà làm trái với điều nghĩa; còn kẻ tiểu nhân nếu gặp lúc khốn cùng thì không nghĩ gì đến lễ nghĩa, đạo lý nữa, miễn thỏa mãn điều lợi về mình mà thôi. -. Lấy ngang, lường gạt. Do lòng tham dục của con người, nên trong xã hội có những kẻ mưu mô lường gạt hay mượn thế lực, hoặc quan lại cậy địa vị quyền hành để bức hiếp dân lành mà chiếm đoạt tài sản. Tội nầy cũng đồng tội với trộm cắp, mà có phần nặng hơn, vì âm mưu đoạt của, hay mượn quyền thế cưỡng bức người. Chính trong Kinh Sám Hối có viết: Làm quan tính kế đảo điên Gạt thâu gia sản đất điền của dân. - Mượn vay không trả: Chúng ta nên biết, tiền bạc và của cải do công sức của người làm ra, vì tình nghĩa người ta cho mình vay, mượn thì chúng ta phải trả vốn, hoặc lời cho sòng phẳng để sau nầy gặp lúc thắt ngặt, chúng ta còn có thể vay mượn nữa. Đừng tính kế đoạt luôn không hoàn trả thì phải mang nợ, rồi sau nầy cũng phải thác sanh để đền trả. Kinh Sám Hối có dạy việc như sau: Ơn trợ giúp khá lo đền báo Giữ vẹn tròn nghĩa Đạo với Đời Túng cùng vay mượn của người Vui lòng tính trả vốn lời cho kham. Đức Khổng Tử xưa có dạy: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì mình không muốn, mình đừng làm cho người khác. Điều nầy thể hiện tính công bình, hợp lý của con người sống trong xã hội. Nếu chúng ta yêu quý tài của mình, không muốn bị mất thì phải quý trọng tài sản của người, không tham lấy của họ, nếu vay mượn thì phải vui lòng hoàn trả. - Cấm chứa đồ gian, không lượm của rơi. Trong Nho giáo, Đức Khổng Tử có dạy: Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ, tức là người không có đạo nghĩa thì chẳng giao du, vật không phải nghĩa thì không giữ. Như vậy, chúng ta thấy cất chứa đồ gian, là những vật phi nghĩa, Đức Khổng Tử còn khuyên chẳng nên giữ và luật hình thế gian còn khép vào tội, huống hồ là hình luật thiêng liêng. Của rơi, của hoạnh tài, tức là của không phải do sức mình kiếm được, mà lượm, đó do lòng tham con người mà tham thì thâm, như lời kinh Sám Hối dạy: Làm người phải khá xét suy, Của rơi chớ lượm tham thì phải thâm. - Hại người để có lợi cho mình là do lòng tham mà không có đạo đức. Hiện nay những hạng người nầy rất nhiều trong xã hội. Có người vì mưu lợi riêng mà pha chế vào thực phẩm những chất độc có hại cho sức khỏe. Hoặc vì muốn độc quyền sản phẩm nên phải đầu cơ tích trử. Điều này Kinh Sám Hối cũng có nêu lên và cho biết Trời đất sẽ không dung thứ: Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa Nhơn thất mùa bế dựa gắt gao. Chờ khi lúa phát giá cao, Khai ra bán mắc Trời nào dung cho. - Cờ gian bạc lận: Cũng bới lòng tham, muốn kiếm nhiều tiền, nhưng làm biếng lao động, nên có một số người tham gia vào môn cờ bạc. Môn nầy về mặt luật pháp bị cấm ngặt, vì nó có thể làm táng gia bại sản, làm mất hạnh phúc gia đình, làm cho con người sa đọa, trộm cướp, dẫn đến giết người, mang thân tù tội. Tai hại hơn nữa là cờ gian bạc lận, trong đó người chơi tìm đủ mánh khóe, mưu mẹo để lường gạt, cướp ngang tiền bạc của cải, không từ một hành vi nào. Do cái tai hại to lớn đó của cờ bạc mà trong dân gian có những câu ca dao khuyên con người không nên đi vào con đường nầy: Cờ bạc là bác thằng bần, Ruộng vườn bán hết, chôn chân vào cùm. Ông Bàng Đức Công cũng có bài thi dạy răn con không nên gần trường đổ bác (cờ bạc) như sau: Phàm nhân bá nghệ hảo tuỳ thân, 凡 人 百 藝 好 隨 身, Đổ bác môn trung mạc khứ thân 賭 博 門 中 莫 去 親, Nghĩa là: Hễ biết nghề nào cũng ấm thân, Mấy nơi cờ bạc chẳng nên gần. Trong Thi Văn Dạy Đạo cũng có bài thi dạy phải lánh xa cờ bạc, đó là con đường đưa đến khổ. Vui Ðạo vui nhân ấy thiệt vui, Vui còn sóng sắc hại mình thôi. Vui nơi ĐỔ BÁC là vui khổ, Vui thói tà gian lụy trọn đời Và Kinh Sám Hối cũng có dạy: Cũng đừng bài bạc lận nhau, Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu. Qua sự giải thích về những hành vi thuộc “Du Đạo” ở trên, chúng ta thấy do lòng gian tham mà con người không từ một hành động nào. Chính trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có cho biết: Các con có hiểu vì sao mà cả nhơn sanh gian tham chăng? Thì cũng muốn cho nhiều sanh mạng chịu phục dưới quyền thế lợi lộc đó. Vậy sự yếu trọng của con người là nạn cơm áo. Nắm chặt quyền phân phát cơm áo thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế nầy lánh khỏi. Muốn cho đặng quyền hành ấy thì làm thế nào? Dùng hết mưu chước quỉ quyệt thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh tranh đấu đấu, giựt giựt giành giành, gây nên mối loạn, nhơn loại nghịch lẫn nhau, giúp cho phép Tà quyền, mạnh hơn, yếu thiệt, mất phép công bình thiêng liêng Tạo hóa. Cái trường thảm khổ của thế gian cũng do nơi đó mà ra. Vậy: Gian tham đã thâm nhập vào lòng thì lòng hết đạo đức. Tham gian nhập vào nhà thì nhà không chánh giáo. Tham gian đã nhập vào nước thì nước hết chơn trị. Tham gian đã lộng toàn thế giới thì thế giới hết Thánh, Thần. Thầy không cần nói, sự gian tham có thể giục các con lỗi đạo cùng Thầy mà bị lắm điều tội lỗi. Ấy vậy, gian tham là trọng tội. Để nhắc nhở giới cấm thứ nhì là “không trộm cắp”, chúng ta có thể dùng hai bài thi sau để làm phương châm tu sửa. Trộm cắp là điều chẳng thể tha, Lừa người gạt gẫm, ấy tâm tà. Của người vay mượn nên hoàn trả, Tham dục trong lòng phải lánh xa. Người thế ai mà chẳng muốn sang, Sang mà lỗi Đạo, chẳng ai màng, Thà nghèo trong sạch tâm thanh thảng, Quả nghiệp không vương, trí nhẹ nhàng. C - TAM BẤT TÀ DÂM Theo Tân Luật, bất tà dâm là cấm lấy vợ người, thả theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt (vợ chồng không gọi tà dâm). Tà dâm là sự quan hệ bất chính về tình dục với người ngoài chồng, vợ chính thức, hết lòng trung thực với người chồng, hoặc người vợ của mình. Kinh Sám cho gian dâm là một đại tội: Còn một nỗi gian dâm đại tội, Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh. Tuy là Trời Đất rộng thinh, Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người. Tại sao tà dâm là một tội? Luật hôn nhơn và gia đình quy định chế độ một vợ, một chồng, như vậy quan hệ với người ngoài vợ, chồng của mình là vi phạm pháp luật, đồng thời phạm vào điều thứ ba của Ngũ Giới Cấm. Trong Kinh Sám Hối cho biết người đàn bà khi đã có chồng thì phải giữ gìn tiết hạnh cùng chồng để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nếu như ngoại tình thì khi chết phải thọ hình nơi cõi Âm phủ: Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu, Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh. Vì chưng trinh tiết chẳng gìn, Có chồng còn lại ngoại tình với trai. Ngoài việc lấy vợ hay chồng người, những hành vi như thả theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt cũng đồng tội với tà dâm. Trong “Giới Tâm Kinh “ có đoạn dạy: Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển, Thói dâm phong rù quyến nguyệt hoa. Có ngày hư nát cửa nhà, Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng. Người giữ được giới nầy thì tạo được hạnh phúc trong gia đình mình, đồng thời cũng tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau cho các gia đình khác. Ngoài ra, người tu hành, nhứt là người có luyện Đạo cần phải giữ giới để bảo tồn tinh khí của mình cho đầy đủ Tam Bửu. Không giữ giới nầy còn phạm tội sát sanh như lời Đức Chí Tôn đã dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: “Phàm xác thân con người, tuy mắt phàm coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chất chứa vàn vàn muôn muôn sanh vật. Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối vật chất có tánh linh, vì vật chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật, tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh. Nếu không có chất sanh thì thế nào tươi tắn đặng mà chứa sự sống. Như nó khô rủ thì là nó chết, mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ; còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết. Các vật thực vào tỳ vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Chẳng cần nói, các con cũng biết cái chơn linh khí huyết là thế nào? Nó có thể huờn ra nhơn hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại. Vì vậy, một giọt máu là một khối chơn linh. Như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác, thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Ðài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng. Phải giữ gìn Giới Cấm ấy cho lắm!”. Về giới “tà dâm”, chúng ta cũng dùng hai bài thi sau đây để làm phương châm tu sửa. Vào đường tu niệm tránh tà dâm, Đàng điếm hư danh phải hổ thầm. Ái dục trói lôi gây tội báo, Não phiền quanh quẩn suốt trăm năm Đừng để sa vào chốn nguyệt hoa, Có ngày nát cửa lại tan nhà. Tù giam dương thế còn khi mãn, Cửa ngục dâm tình khó thể tha. D - TỨ BẤT TỬU NHỤC 1- Không uống rượu. Bất tửu nhục là không say mê rượu thịt, ăn uống quá độ, rối loạn tâm thần, làm náo động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị. Tửu là rượu, một chất lên men, có tác dụng kích thích, làm cho say, mất sáng suốt, mất tự chủ, hành động ngông cuồng dẫn đến mất trật tự, mất kỷ cương, ảnh hưởng xấu đến gia đình, xã hội. Rượu là chất kích thích, hễ cấm rượu thì cũng cấm những chất kích thích độc hại khác như nha phiến, xì ke, ma tùy, là những chất tiêu diệt thân thể, phá hỏng con người, gây khổ gia đình, làm loạn xã hội. Trong Phương Tu Đại Đạo, Đức Hộ Pháp có dạy đừng nên là cà vào nghiệp rượu chè và lánh xa đường nghiện ngập nha phiến: Dạy cho ghét hoa tàn liễu úa, Quân điếm đàng, con múa cô ca. Dạy đừng ham quán rượu tiệm trà, Đừng hút xách làm ma Nha phiến. Nhứt là những tín đồ theo tôn giáo cần phải kiêng cử giới nầy một cách nghiêm ngặt, vì uống rượu vào làm cho huyết vận động bất thường, tán loạn tâm thần, không làm chủ được hành động và lời nói, trở nên thú tánh thì làm sao bảo vệ được đạo tâm, sáng suốt trí tuệ mà đoạt phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật được. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có giải thích việc không uống rượu như sau: Thầy nói cái chơn thần là nhị xác thân các con, là khí chất (le sperme évaporé). Nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy. Nơi trung tim của nó là óc; nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là vi hộ, nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng mà gìn giữ chơn linh các con, khi luyện thành đạo, đặng hiệp một với Khí, rồi mới đưa thấu đến chơn thần hiệp một mà siêu phàm nhập Thánh. Vậy thì óc là nguồn cội của Khí, mà óc cũng bị huyết vận động vô chừng làm cho đến đỗi loạn tán đi, thì chơn thần thế nào đặng an tịnh điều khiển, thân thể phải ra ngây dại, trở lại chất thú hình, mất phẩm nhơn loại rồi, còn mong chi đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật. Lại nữa, buổi loạn thần ấy, để cửa trống cho Tà mị xung đột vào, giục các con làm việc tội tình mà phải chịu phận luân hồi muôn kiếp. Vậy, Thầy cấm các con uống rượu, nghe à! 2- Không ăn thịt Giới răn nầy cấm uống rượu, ngoài ra cũng cấm ăn thịt. Ăn thịt là dùng thân xác các loài vật có sự sống để làm thức ăn. Như vậy, ăn thịt là gián tiếp phạm giới sát sanh, không tôn trọng mạng sống loài vật, không có lòng thương xót đến loài vật. Nho giáo có câu: Văn kỳ thanh bất nhẫn thực kỳ nhục, nghĩa là nghe tiếng kêu đau đớn của nói, mình không đành ăn thịt nó. Trong bát hồn loài vật chất là thấp nhứt, đó là kim thạch, là loài vô tri vô giác, kim thạch tiến lên thảo mộc thì có một hồn là sanh hồn, có sự sống, nhưng còn thấp, thảo mộc tiến lên thú cầm thì được hai hồn là sanh hồn, giác hồn, tức có sự sống và biết cảm giác. Chính vì có giác hồn, nên khi giết loài thú cầm thì nó biết kêu la rên xiết. Vì vậy, người có lòng từ bi thì không ăn thịt loài thú cầm. Trong kinh Lăng Già có một đoạn Đức Phật dạy chúng sanh phải dứt trừ nhục thực (ăn thịt), trích từ Phật học tinh yếu của Hòa thượng Thích Thiền Tâm như sau: Nầy Ðại Huệ! Tất cả loài hữu tình từ vô thỉ đến nay ở trong vòng sống chết luân hồi vô tận, không có chúng sanh nào chẳng từng làm cha mẹ anh em con cái quyến thuộc, cho đến chủ tớ bạn bè thân thích lẫn nhau. Vậy đối với chúng sanh đã vì nghiệp lực phải chịu đọa làm thân thủy tộc, cầm thú, nỡ nào bắt nó mà ăn thịt? Bậc Bồ Tát ma ha tát phải quán sát xem tất cả loài hữu tình đồng với thân mình, nên nghĩ các thứ thịt kia từ những sanh mạng biết vui khổ thương đau mà có, đâu nỡ an nhiên mà ăn? Nầy Ðại Huệ! Các bọn La sát nghe ta nói điều nầy còn nên dứt trừ sự ăn thịt, huống nữa là người ưa vui theo đạo pháp? Trong mỗi đời, Bồ Tát quán thấy chúng sanh đều là quyến thuộc, thường nghĩ xem đồng như con, nên không ăn tất cả các thứ thịt. Những người bán các thứ thịt trâu bò chó ngựa heo dê nơi chợ phố hàng quán, vì tâm tham lợi nên tạo nghiệp giết hại; thịt là sở do của tâm hạnh tạp uế như thế, làm sao Bồ Tát nên thọ dụng? Nầy Ðại Huệ! Tất cả các thứ thịt đều là chất tinh huyết ô uế, người cầu thanh tịnh làm sao nên ăn? Kẻ ăn thịt, chúng sanh thấy đều sợ hãi, người tu từ tâm làm sao nên ăn? Khi gặp bọn thợ săn cùng kẻ hạ tiện làm nghề bắn giết, bẫy lưới tàn hại sanh linh, loài chó trông thấy kinh hãi sủa vang, tất cả cầm thú thảy đều dớn dác trốn chạy. Sở dĩ như thế, bởi các chúng sanh ấy đều nghĩ rằng: những người này lộ vẻ hung ác dường như quỉ La sát, nếu ta đến đó tất bị bắt giết, vậy phải nên xa lánh là hơn. Cũng như thế, người ăn thịt thường bị chúng sanh ghét sợ xa lánh. Vì lẽ đó, bậc Bồ Tát tu hạnh từ bi không nên ăn thịt. Nầy Ðại Huệ! Kẻ ưa ăn thịt, thân thể hôi nhơ, tiếng dữ đồn xa, người lành bậc hiền thánh không thích gần gũi, vì thế Bồ Tát không nên ăn thịt. Huyết nhục là chất chúng Tiên từ bỏ, các Thánh chẳng ưa, bởi thế Bồ Tát không nên thọ dụng. Bồ Tát vì tâm từ mẫn, vì giữ gìn lòng tin của chúng sanh khiến cho Phật pháp không bị chê bai, nên không ăn thịt. Nếu đệ tử của ta ưa an thịt, sẽ bị người tục đem lòng khinh báng nói rằng: Tại sao hàng Sa môn tu nghiệp thanh tịnh, lại không bằng hạnh trong sạch của thiên tiên, mà như ác thú mang đầy bụng thịt cá đi dạo thế gian, làm cho chúng sanh thảy đều ghét sợ? Và như thế là kẻ ấy đã phá hạnh thanh tịnh, mất đạo Sa môn, thiếu tư cách để điều phục người. Cho nên, Bồ Tát vì lòng từ mẫn, muốn nhiếp hộ mọi người khiến cho không sanh tâm niệm ấy, chẳng thọ dụng đồ huyết nhục. Nầy Ðại Huệ! Như khi thiêu người chết cùng thiêu thịt của loài vật, cả hai mùi khí vị không tinh sạch đồng như nhau, tại sao trong ấy thịt người không ăn, lại ăn thịt loài vật? Vì thế, người ưa hạnh thanh tịnh không nên ăn thịt. Các hàng thiện nam thiện nữ tu hành khổ nhọc chốn a lan nhã, hoặc trụ nơi từ tâm, hoặc trì chú thuật, hoặc cầu giải thoát, hoặc hướng về đại thừa, nhưng vì bởi còn ăn thịt nên bị nhiều sự chướng ngại, công hạnh không được thành tựu. Cho nên Bồ Tát nếu muốn được lợi mình và lợi ích cho chúng sanh, quyết không nên ăn thịt. Nầy Ðại Huệ! Kẻ ưa ăn thịt khi thấy hình dáng loài vật đã sanh tâm thèm mùi vị. Bậc Bồ Tát phải thương nghĩ chúng sanh cũng như mình, tại sao vừa thấy hình đã muốn ăn thịt? Bởi thế, Bồ Tát phải dứt trừ nhục thực. Người ăn thịt thì nơi miệng thường hôi nên chư thiên lánh xa, hằng bị Dạ xoa ác quỷ đoạt mất tinh khí. Kẻ ấy giấc ngủ không yên, khi tỉnh dậy lo lắng, tâm nhiều sợ hãi; do tham ăn không biết vừa đủ, nên thêm nhiều tật bịnh, dễ sanh ghẻ độc, bị các loài tế trùng cắn đúc, mà cũng vẫn không biết chán nhàm. Nầy Ðại Huệ! Ta thường bảo: ăn thịt chúng sanh chẳng khác chi ăn thịt con mình, vậy đâu phải thật Như Lai hứa cho đệ tử ăn thịt? - Thịt chẳng phải thơm ngon, thịt không tinh sạch, ăn thịt sanh nhiều tội ác, làm hư các công đức, bị chư Tiên Thánh rời bỏ, làm sao Như Lai lại hứa cho đệ tử ăn thịt? Bởi thế, kẻ nào nói Như Lai chấp nhận cho đệ tử ăn thịt, tức là phỉ báng ta. Để nhắc nhở giới “tửu nhục” chúng tôi mượn hai bài thơ sau đây để làm phương châm tu sửa. Rượu thịt hằng ngày hại tấm thân, Say sưa vất vả, bại tâm thần. Rượu vào loạn tánh, mang điều lỗi, Khuyên hãy dang xa dứt bỏ lần. Rượu nhiễm vào thân dễ bị ghiền Mê tâm cuồng trí tợ người điên. Giết mòn Thiên tánh, không sao thoát Mãi mãi luân hồi chịu kiếp khiên E - NGŨ BẤT VỌNG NGỮ Theo Tân Luật, Bất vọng ngữ là không xảo trá, gạt gẩm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục, chưởi rủa người, phỉ báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa. - Không xảo trá, tức không xảo quyệt, gian trá, không gạt gẩm người một cách tinh vi, khôn khéo. Sự dối trá, láo xược có tác hại là làm mất nhân cách bản thân, mất lòng tin với người khác và nhứt là gây mầm tan rã, lý tán trong gia đình, quốc gia và xã hội. Trong Kinh Sám Hối có lời khuyên những loại người hay dối trá như sau: Dối người nào khác dối Trời Trời đâu dám dối ra đời ngỗ ngang. Trong Thi Văn Dạy Đạo cũng viết: Dối ai đâu dễ dối cùng Trời Biết đạo răn mình cũng hết hơi Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước Tự nhiên bể khổ lánh xa vời. Đối với những người quyệt ngữ, gian trá, trong Kinh cũng nhắc đến: Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại, Đừng gian mưu hãm hại người hiền Hoặc: Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác, Mà quên lời phú thác dặn dò. Trước người giả bộ siêng lo, Sau lưng gian trá so đo tấc lòng. - Khoe mình, bày lỗi người. Trong xã hội có nhiều người thường hay bày lỗi người khác để tự khoe mình, huênh hoang về mình. Thường những hạng người nầy vì thiếu tài, thiếu đức, mà lại mong muốn người biết về mình. Kẻ hay khoe khoan được người ta ví như “thùng rỗng kêu to”. Một bông lúa, càng nhiều hạt càng nặng oằn thì càng cúi thấp”, cũng vậy, người tài ba thường rất khiêm tốn, kẻ dốt nát lại thích khoe khoang. Bởi vì những người có tài biết năng lực sẽ nói lên tất cả. Trái lại, những người càng không có năng lực, họ càng muốn thể hiện “khả năng” của mình qua sự khoe khoang bên ngoài. Hạng người nầy thấy người khác hơn mình thì tìm cách moi móc lỗi người để phô danh mình, trong Kinh Sám Hối cho rằng: Thấy ai làm phải làm lành, Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình. Bày lỗi người chính là bản thân phạm lỗi, tự mình sanh ra phân biệt, sanh ra chấp trước, sanh ra vọng tưởng, tâm không định. Nếu tâm định, tâm sẽ thanh tịnh thì làm sao lại có phân biệt, vọng tưởng, chấp trước? Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng có nói: “Người thật sự tu Đạo thì không thấy lỗi thế gian”. Còn nhìn thấy lỗi của thế gian thì chứng tỏ tâm không thanh tịnh, giới cũng không thanh tịnh. - Chuyện quấy nói phải, chuyện phải nói quấy, người ta gọi đó là lời nói hai lưỡi, lời nói đâm thọc. Lời nói của những hạng người nầy là nghe một đàng ở đầu xóm mà họ thêu dệt thành một nẻo ở cuối chợ. Do vậy mà lời nói của họ rất độc địa, có khi gây ra đau khổ cho người khác. Đức Khổng Phu Tử có dạy những hạng người nầy như sau: "Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chí khí dã 道 聽 而 途 說, 德 之 棄 也", nghĩa là nghe chuyện đầu đường mà nói lại ở cuối đường, là tự bỏ cái đức tốt của mình đi. Người đạo đức chơn tu cần phải ít nói, nói ra không đâm thọc, ít thấy lỗi người, tránh nói chuyện quấy của kẻ khác. Như ta biết lời nói đâm thọc rất đọc tai hại và độc ác. Chính Tuân Tử trong sách Minh Tâm cũng có nói: Dữ thiện nhân ngôn noãn như bố bạch, 與 善 人 言, 暖 如 布 帛 Thương nhân chi ngôn, thống như sao thích 傷 人 之 言, 痛 如 刀 剌 Nhân bất dĩ đa ngôn vi ích, Nhân bất dĩ thiện tiếu vi lương 人 不 以 多 言 為 益, 人 不 以 善 笑 為 良 Đao sang dị hảo, ác ngữ nan tiêu 刀 瘡 易 好, 惡 語 難 消 Khẩu thị thương nhân phủ, Ngôn vi cát thiệt đao 口 是 傷 人 斧, 言 為 割 舌 刀 Bế khẩu thâm tàng thiệt, An thân xứ xứ lao 閉 口 深 藏 舌, 安 身 處 處 牢 Nghĩa là: Cùng người thiện nói chuyện, êm ấm như mặc đồ vải lụa. Lời nói làm tổn thương người cũng đau đớn như dao nhọn đâm. Người ta không nên cho rằng nói nhiều là có ích và khéo cười là giỏi. Vết thương đâm bằng dao nhọn còn dễ lành. Lời nói độc ác rất khó tiêu tan. Miệng là cái búa hại người, lời nói là con dao cắt lưỡi. Ngậm kín miệng để giữ gìn cái lưỡi thì đi đến đâu cũng được yên thân. Nguyễn Trác và Lê Phục Thiện đã dịch bài trên ra văn vần như sau: Cùng người lương thiện nói bàn, Như mang vải lụa ngự hàn ấm thân. Những lời hiểm độc bất nhân, Hại người chẳng khác dao đâm đau người. Ích gì mà nói nhiều lời, Hay gì bày chuyện mua cười cầu vui, Vết thương dễ khỏi hẳn hòi Những lời nhiễm độc trọn đời khó tiêu Miệng lưỡi dao nhọn búa rìu, Hại người vì chúng lắm điều thị phi. Giữ gìn miệng lưỡi khỏi nguy, Đến đâu cũng được trọn bề yên vui. - Nhạo báng chê bai, nói hành kẻ khác. Lời nói nhạo báng là lời nói chế nhạo nhằm để chê bai, chỉ trích hoặc bài bác người khác. Hạng người nầy dùng sự nhạo báng để sỉ nhục người, mặc dù chính bản thân họ cũng không có giá trị hơn người. Ông Văn Công có nói: “Dục lượng tha nhân, tiên tu tự lượng. Thượng nhân chi ngữ, hoàn thị tự thương. Hàm huyết phún nhơn, tiên ô tự khẩu 欲 量 他 人, 先 須 自 量. 傷 人 語 還 是 自 傷. 含 血 噴 人, 先 汚 自 口”, nghĩa là muốn xét lường người, trước phải tự xét mình. Những lời nói làm tổn hại người khác, lại làm tổn hại chính mình. Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình. Đối với hạng người nầy, họ chỉ biết ý mình là đúng, còn ý người thì sai, nên thường có lời nhạp báng, chê bai. Trong Kinh Sám Hối có đoạn nói đến hạng người nầy: Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể, Rằng thác rồi còn kể ra chi. Nhãn tiền trả quả tức thì, Tội dư con cháu một khi đền bồi. Ngoài ra, nếu đem những tật xấu và những khuyết điểm của ai đó nói với người khác, thì mắc tội nói hành, nói xấu. Mặc dầu những tật xấu, hay lỗi lầm của họ có thật đi nữa cũng không được phép nói lại cho người khác biết, bởi vì làm như vậy là không tôn trọng danh dự của người khi người vắng mặt. Đức Khổng Tử có dạy: “Nặc nhân chi thiện, sở vị tế hiền, dương nhân chi ác tư vi tiểu nhân. Ngôn nhân chi thiện như kỷ hữu chi, Ngôn nhân chi ác nhược kỷ thụ chi 匿 人 之 善, 所 謂 蔽 賢, 揚 人 之 惡, 斯 為 小 人. 言 人 之 善, 如 己 有 之, 言 人 之 惡, 若 己 受 之”, nghĩa là giấu điều lành của người, gọi là dìm người hiền, nêu điều xấu của người, ấy là kẻ tiểu nhân. Nói điều lành của người, như mình có điều lành ấy, nói điều xấu của người, như mình có điều xấu ấy. - Xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách. Con người sống ở đời có nhiều việc không dính líu gì với mình mà mình lại tham gia vào vì thù hay ghét, hoặc nhiều khi do lắm lời nhiều chuyện. Ví dụ như việc xúi giục người ta hờn giận, kiện thưa lẫn nhau, hoặc xúi giục người ta làm quấy, khiến cho vợ chồng phải xa cách, gia đình lý tán. Trong Kinh Sám Hối có nói đến những người nầy: Lại còn có tánh tình hiểm độc Xúi phân chia thân tộc ruột rà Làm cho chồng vợ lìa xa Cả đời nghiệp báo oan gia chẳng rời. Tội lỗi của hạng người chuyên xúi giục làm việc quấy cũng được kinh cho biết như sau: Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn, Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người. Gặp thây nuốt sống ăn tươi, Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời. Do lời nói có tác dụng tai hại rất lớn nên trong (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển). có bài thi dạy phải cẩn ngôn vì một lời thất đức thì bị đọa ngàn năm. Nho nhã con tua tập tánh tình, Dưới đời đừng tưởng một mình lanh. Một câu thất đức Thiên niên đọa, Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành. - Ăn nói lỗ mãng thô tục, chưởi rủa người. Trong xã hội có những hạng người tánh tình lỗ mãng, ăn nói thô tục, hay chưởi rủa người khác, hoặc chưởi rủa tổ tông ông bà của mình. Về mặt luật pháp ở thế gian, những người ăn nói thô tục, chưởi rủa là làm nhục người khác, đó là hành vi xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của con người. Trong đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp, Chưởng quản Hiệp Thiên Đài có lời dạy các tín đồ như sau: “Qua nói cho mấy em hiểu. Nếu thấy người ta làm sai, nên góp ý cho người ta sửa đổi, không nên nguyền rủa hoặc oán ghét. Vì khi mấy em giận, nguyền rủa người ta cho đã miệng, cái đó vô tình mình chia sẻ bớt tội lỗi cho người ta, còn nếu nói nhiều thêm một chút nữa, người ta sẽ trắng tội còn mình thì lãnh trọn. Mình làm mình chịu đã đành, còn người ta làm sai không cần mình chia bớt tội mà mình tự động đưa lưng gánh vác, có phải mình dại dột không? Qua nói cho mấy em để ý người nào bị mấy em chưởi rủa nhiều chừng nào thì cuộc đời của họ càng vững đó. Mấy em ráng mà giữ miệng”. Về hình phạt của những hạng người: “Buông lời tục tĩu dâm loàn”, hoặc “Trù ếm người, chưởi rủa Tổ tông”, trong Kinh Sám Hối cho rằng khi chết họ phải chịu một hình phạt vô cùng nhơ nhớp để đền trả tội lỗi đó: Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn, Xô người vào, lội lặn nhờm thay! Tanh hôi mình mẩy vấy đầy, Trồi lên hụp xuống gậy cây đánh đầu. - Phỉ báng tôn giáo là chê bai, nói xấu tôn giáo, hay các Đấng Thiêng Liêng được sùng kính trong nền tôn giáo đó. Chúng ta thử phân tích xem những hành vi nào gọi là phỉ báng tôn giáo: Kẻ không tin Trời Đất, xúc phạm đến lòng tôn kính các Đấng Thiêng Liêng và Thần, Thánh, Tiên Phật. Hoặc người đã có tôn giáo nhưng có sự phân biệt giữa hai tôn giáo, mà chê bai, nói xấu Tôn giáo khác. Đối với hạng người nầy, Kinh Sám Hối có cho biết hình phạt của họ dưới Diêm Cung phải lãnh chịu: Cột trói ngược quá kinh rất lạ, Quỉ Dạ Xoa đánh vả kẹp cưa. Vì chưng chưởi gió mắng mưa, Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa chẳng kiêng. Kẻ bài xích luật Nhân quả của Phật cho là không có thực, và luân hồi nhân quả không đáng quan tâm, sợ sệt. Những kẻ ấy chối bỏ lòng tín ngưỡng cho rằng Thiên Đàng, Địa Ngục, Linh Hồn là hoang đường, mê tín. Kinh Sám Hối cho biết: Chớ quấy tưởng Luân hồi phi lý, Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy. Thi hài như gỗ biết gì, Linh hồn là chủ thông tri việc đời. Có những kẻ khinh khi, nói xấu Tam giáo và nhạo báng tôn giáo khác. Điều nầy chính trong Kinh Sám Hối cũng có dạy khi chết chơn linh phải chịu một hình phạt: Bầy chó dữ mang xiềng chạy lại, Thấy tội nhơn xúm lại phân thây. Hình này phạt kẻ dại ngây, Khinh khi Tam Giáo đọa đày thế ni. Kẻ lợi dụng lòng tin để buôn Thần bán Thánh, hoặc lấy sự tín ngưỡng của chúng sinh mà gồm thâu lợi lộc, tiền của. Hình phạt cho những kẻ lợi dụng tôn giáo để làm lợi riêng cho mình được Kinh Sám Hồi cho biết: Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy, Tởi làm chùa, dối cậy in kinh. Ăn gian xớt bớt cho mình, Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm vương. Hoặc: Thêm những sãi giả nương cửa Phật, Của thập phương châu cấp thê nhi. Ngày sau đọa lạc Âm ty, Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời. - Nói ra không giữ lời hứa, tức là người không giữ chữ tín. Đối với Nho giáo chữ tín rất quan trọng để làm người. Theo Luận Ngữ, “nhân vô tín bất lập”, nghĩa là người không có chữ tín thì không thể tự lập được. Đức Lão Tử cũng có dạy về chữ tín như sau: “Quân tử nhứt ngôn khoái mã nhứt tiên. Nhứt ngôn ký xuất tứ mã nan truy 君 子 一 言, 快 馬 一 鞭. 一 言 既 出, 駟 馬 難 追”, nghĩa là một lời nói của người quân tử như ngựa bị roi chạy mau. Một lời nói ra, xe bốn ngựa cũng khó đuổi kịp. Về Điều thứ năm của Ngũ Giới Cấm là vọng ngữ, chúng ta lấy hai bài thi sau để làm phương châm tu sửa: Vọng ngữ tưởng rằng chuyện nói chơi, Chẳng dè tội báo dối cùng Trời. Buông lời thêu dệt gây oan trái, Phiền luỵ vương mang, khổ suốt đời. Trao đổi sao cho đẹp dạ nhau, Đừng nên đâm thọc hại người đau. Buông câu nặng nhẹ thêm sinh chuyện, Miệng hãy tươi vui, nói ngọt ngào Tóm lại những hành vi thuộc điều thứ năm của Ngũ Giới Cấm đồng nghĩa, đồng tội với “vọng ngữ”. Tại sao nói dối lại là một tội trọng? Chúng ta sẽ xem lời dạy của Thánh giáo Đức Chí Tôn sau đây: Thầy đã nói rằng, nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng, đấng chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Ðấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán Xét. Bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả. Lại nữa, các chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó. Bởi vậy chư Hiền, chư Thánh Nho nói rằng: "Khi nhơn tức khi tâm." "Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo dã." Như các con nói dối, trước chưa dối với người thì các con đã nói dối với Lương tâm, tức là Chơn linh. Thầy đã nói, chơn linh ấy đem nạp vào Tòa Phán Xét từ lời nói của các con, dầu những lời ấy không thiệt hành mặc dầu, chớ tội tình cũng đồng một thể. Nơi Tòa Phán Xét, chẳng một lời nói vô ích mà bỏ, nên Thầy dạy các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể. Các con khá nhớ.
ỨNG MỘNG BẢO SANH THÙY TỪ MẪN KHỔỨng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ là câu Kinh được trích từ Bài “Khổng Thánh Chí Tâm Quy Mạng Lễ” là một bài kinh xưng tụng Đức Khổng Thánh trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa về câu kinh trên. A - ỨNG MỘNG BẢO SANH Ứng mộng 應 夢: Cho thấy trong giấc mộng. Bảo sanh 保 生: Bảo vệ sự sống, gìn giữ sanh mang con người, nói rộng ra là giữ gìn mạng sống của chúng sanh. Ứng mộng bảo sanh là ứng vào điềm chiêm bao để dạy về cách bảo vệ sự sống của nhân dân. Câu kinh trên ý muốn nói các Đấng Thiêng liêng ứng cho điềm chiêm bao Đức Khổng Thánh để chỉ dạy cách bảo vệ sự sống của nhơn loại. Chúng ta nên biết, theo Nho giáo, Đức lớn của Trời đất là sự sinh. Người là một phần nhỏ của muôn vật, cho nên cũng phải theo lẽ Trời mà sinh hóa. Khổng giáo lấy sự sinh làm gốc cho hành vi thiện ác: Việc gì hợp với đức sinh là thiện, trái với đức sinh là ác. Như vậy, cái tông chỉ của Đạo Khổng là theo Thiên lý mà bồi bổ cho sự sinh của vạn vật, hay nói cách khác, là phải bảo sanh vạn vật. Ngày xưa những người làm vua được quan niệm là con Trời (Thiên Tử), nên việc trị nước phải hợp với lòng Trời, tức là phải có lòng nhơn từ, hết lòng thương yêu dân chúng thì sẽ được các Đấng ứng vào mộng để chỉ dạy cách bảo hộ sự sống (bảo sanh) cho dân chúng. Bậc Thánh nhân cũng vậy, như Đức Khổng Tử tên Khâu 丘, tự là Trọng Ni 仲 尼 sinh năm 551 đến 479 trước Công nguyên vào thời Xuân Thu, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Ngài là một nhà tư tưởng, nhà triết học trứ danh. Triết lý của Ngài có ảnh hưởng rộng lớn trong nền văn hóa Đông Á. Ngài được sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ loạn lạc, những thiết chế xã hội, lễ nghi tốt đẹp nhất của các triều đại trước đang làm nền tảng cho xã hội ổn định đã dần đi vào suy thoái: Đạo lý suy đồi, chư hầu lấn át thiên tử, quan đại phu lại giàu có và thế lực hơn vua, đất nước càng thêm loạn lạc. Vì vậy, Đức Khổng Tử luôn muốn noi theo đạo của Chu Công, muốn thiết lập một xã hội tốt đẹp. Cho nên trong quyển Luận ngữ, cuốn sách tập hợp những lời giảng dạy của Khổng Tử, đã không ít lần nhắc đến Chu Công. Và cũng chính trong Luận Ngữ có một đoạn viết: “Thậm hề ngô Đạo suy dã! Cửu hỹ ngô bất mộng kiến Chu Công!”, nghĩa là đáng thương thay! Đạo của ta suy rồi! Đã lâu ta không còn mơ thấy Chu Công nữa!. Do tính thương người của bậc Thánh nhân, suốt đời Đức Khổng Tử phải bôn ba chu du khắp các chư hầu, mong đem cái Đạo của mình ra thi hành hầu đem lại cảnh thạnh trị thái bình để bảo toàn sự sống cho nhơn dân. Tấm lòng của Ngài lúc nào cũng nghĩ đến việc cứu đời, nên nhiều lần Ngài mộng thấy Chu Công đem những điều lợi ích, bảo sanh nhân dân mà dạy Ngài. Chương Thuật Nhi, mục “Mộng kiến Chu Công” (tức nằm mộng thấy Chu Công) kể lại cho ta biết Chu Công Đán có về ứng vào giấc mộng của Ngài. Trong lịch sử thơ văn Việt Nam, cũng có nhiều bậc tao nhân, mặc khách dùng đề tài “Khổng Tử mộng Chu Công” để viết thành thi, phú, trong đó có bài phú: Khổng Tử Mộng Chu Công” của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, là cha của Đại Thi hào Nguyễn Du. Chúng ta thử tìm hiểu xem Chu Công là ai? Tại sao Đức Khổng Tử thường nằm mộng thấy Chu Công? Chu Công tên thật là Cơ Đán, con thứ tư của Chu Văn Vương Cơ Xương, em cùng mẹ với Chu Vũ Vương Cơ Phát, chú của Chu Thành Vương Cơ Tụng, là vị khai quốc công thần của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà tư tưởng, nhà giáo dục lớn trong thời kỳ Tây Chu. Ông có công lao to lớn trong sự phát triển của nền văn hoá, tư tưởng Trung Hoa vào thời kỳ ấy, khiến người ta tôn ông là Chu Công, không nhắc đến cái tên là Cơ Đán, do vậy, nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông. Chu Công có công giúp Chu Vũ Vương lập ra triều đại nhà Chu. Sau đó, trên cương vị nhiếp chính, Chu Công giúp Chu Thành Vương dẹp loạn, lập 71 nước chư hầu, phát triển nhà Chu thành một nước mạnh mẽ và xây dựng nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ, thịnh vượng trong quá khứ. Ngoài ra, Chu Công còn đóng góp công lao rất lớn trong việc hoàn thiện thể chế, xác lập đẳng cấp trong xã hội. Dựa theo chế độ nhà Chu, điều chỉnh lễ của nhà Ân, chế lễ tác nhạc, hoàn thiện các điển chương chế độ, được gọi là “Chu lễ” có ảnh hưởng sâu xa đến đời sau. Đặc biệt, những tư tưởng chuẩn mực của ông trở thành nền tảng chủ trương “đức trị” của Nho gia sau này. Do đường lối cai trị của Chu Công, lấy đức ra trị dân và từ một xã hội chiến tranh, loạn lạc, dân tình khốn đốn, bất an, mà Chu Công đã xây dựng thành một xã hội thạnh trị, thái bình, nhân dân an cư lạc nghiệp. Vì vậy, Đức Khổng Tử do lòng thương sanh chúng, nên Ngài luôn mơ ước đem những điều dạy bảo của Chu Công để thực thi giúp đời. B - THÙY TỪ MẪN KHỔ Thùy từ 垂 慈 là rủ lòng thương. Mẫn khổ 憫 苦 là thương xót, lo lắng những cảnh khổ. Thùy từ mẫn khổ ý nói Đức Khổng Tử là vị Thánh nhân rủ lòng thương xót những khổ cảnh của con người. Tại sao Đức Khổng Tử lại có lòng thương người và trong học thuyết của Ngài được thể hiện như thế nào? Như chúng ta biết, trong thời đại của Khổng Tử, các tầng lớp thống trị, một mặt, dùng chiến tranh để tranh giành quyền lợi; mặt khác, sử dụng chiến tranh để lôi kéo kẻ sĩ, sai khiến họ bầy mưu tính kế nhằm thu phục thiên hạ và giành quyền bá chủ cho mình. Đứng trước tình hình xã hội như vậy, nên suốt cuộc đời mình, Đức Khổng Tử luôn quan tâm tới vấn đề đem cái Đạo của mình ra cải tạo xã hội, giúp cho đời được ổn định để được an cư lạc nghiệp. Đó là thể hiện “lòng nhân” rộng lớn của một bậc Thánh. Vì thế, trong Nho giáo, Đức Khổng Tử thường dùng tư tưởng “Nhơn” làm chủ đạo trong lời dạy học trò của minh. Đức Khổng Tử coi “lòng Nhơn” là “yêu người”, nên trong Luận ngữ, Ngài đã dành không ít lời để nói về đạo làm người. Khi Nhan Uyên hỏi về “Nhơn”, Khổng Tử dạy: “Khắc kỷ phục lễ vi nhơn. Nhứt nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhơn yên. Vi nhơn do kỷ nhi do nhân hồ tai? 克 己 復 禮 爲 仁. 一 日 克 己 復 禮, 天 下 歸 仁 焉. 爲 仁 由 己 而 由 人 乎 哉?” nghĩa là làm nhơn là khắc kỷ, phục lễ, tức là chế thắng lòng tư dục, vọng niệm của mình và theo về lễ tiết. Ngày nào mình khắc kỷ, phục lễ ngày đó mọi người trong thiên hạ tự nhiên cảm hóa mà theo về đức nhơn. Vậy làm nhơn là do nơi mình, chớ há do nơi người sao?. Trọng Cung, học trò Đức Khổng Tử hỏi về “Nhơn”, Khổng Tử cho rằng: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân 己 所 不 欲, 勿 施 於 人”, nghĩa là những cái gì mà mình không muốn thì đừng đem thi hành cho người khác. Đó là đức hạnh của người nhơn. Còn khi Phàn Trì hỏi về đức “Nhơn”, Khổng Tử trả lời: “Ái nhân 爱 人” là thương người. Hỏi về trí. Ngài đáp: “Tri nhân 知 人” là biết người. Phàn Trì chưa thấu hiểu, Đức Khổng Tử mới giải rằng: “Cử trực, thố chư uổng, năng sử uổng giả trực 舉 直 错 諸 枉 能 使 枉 者 直” nghĩa là cử người chánh trực, bỏ kẻ cong vạy, với phương pháp ấy, người ta có thể khiến kẻ cong vạy hóa ra chính trực”. Phàn Trì lui ra, đến gặp ông Tử Hạ nói rằng: Hướng dã ngô kiến ư phu tử nhi vấn trí 鄉 也 吾 見 於 夫 子 而 問 知. Tử viết: “Cử trực, thố chư uổng, năng sử uổng giả trực. Hà vị dã? 舉 直 错 諸 枉 能 使 枉 者 直. 何 謂 也?” nghĩa là trước đây tôi có viếng thầy mà hỏi về trí, Thầy đáp: Cử người chánh trực, bỏ kẻ cong vạy, hóa ra chính trực. Thầy nói vậy có ý nghĩa gì? Tử Hạ đáp rằng: Phú tai ngôn hồ! Thuấn hữu thiên hạ tuyển ư chúng. Cử Cao Dao. Bất nhơn giả vi hỷ. Thang hữu thiên hạ tuyển ư chúng. Cử Y Doãn bất nhơn giả viễn hỹ 富 哉 言 乎! 舜 有 天 下. 選 於 衆. 舉 皋 陶. 不 仁 也 違 矣. 湯 有 天 下. 選 於 衆. 舉 伊 尹. 不 仁 也 遠 矣, nghĩa là lời nói ấy nghĩa lý rộng thay! Kìa vua Thuấn khi có thiên hạ, tức là ở ngôi thiên tử, thì Ngài tuyển chọn trong dân chúng, cử dùng ông Cao Dao, những kẻ bất nhơn đều tránh xa. Kế vua Thành Thang, khi lên ngôi thiên tử, thì Ngài tuyển chọn trong dân chúng, cử dùng ông Y Doãn, những kẻ bất nhơn đều tránh xa. Chúng ta thấy lời dạy của đức Khổng Tử thể hiện đức nhơn, vừa có trí sáng. Bởi có đức nhơn, thương dân cho nên mới cử dùng người hiền lương, chính trực giúp mình mà trị nước, đem sự phúc hậu lại cho dân. Bởi có trí, biết phân biệt kẻ chánh người tà, nên bỏ kẻ tà mà lựa người chánh, khiến ai nấy đều quay về nẻo chánh, đường lành. Tóm lại, Đức Khổng Tử là một người rất nhơn hậu, nên trong học thuyết của Ngài luôn luôn lấy lòng “Nhơn” ra để dạy các đệ tử, và chính Ngài đã sử dụng lòng nhơn mà đối nhân xử thế: Hễ thấy ai đau đớn, buồn rầu, khổ sở thì Ngài động lòng thương xót. Chương Thuật Nhi có đoạn viết như sau: “Tử thực ư hữu tang giả chi trắc, vị thường bão dã. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca. 子 食 於 有 喪 者 之 側, 未 嘗 飽 也.子 於 是 日, 哭 則 不 歌”, nghĩa là Đức Phu Tử mà ngồi ăn bên cạnh người có tang thì ăn không no. Ngày nào có đi phúng điếu về thì suốt cả ngày không đàn hát. Do tính thương người nầy mà suốt đời Ngài phải bôn ba chu du khắp các chư hầu, mong đem cái Đạo mình ra để bảo toàn sự sống cho nhơn dân. Ngài muốn giúp đời nên chủ trương chính sách “nhập thế”, khiến trước đây, có một người nước Sở tên là Tiếp Dư cho Ngài là người không thức thời, chẳng biết cái lẽ lánh đời. Lúc Khổng Tử sang nước Sở, gặp Tiếp Dư (còn gọi là Lục Thông), theo đạo Lão, chủ trương thuyết vô vi, nghĩa là xuất thế, thấy Khổng Tử bôn ba chạy lo đời, nên làm bài hát “Phụng Hoàng” để kích bác Ngài: Phượng hề! Phượng hề! Hà kỳ đức chi suy? Vãng giả bất khả gián; Lai giả bất khả huy! Nghĩa là: Phượng ôi! Phượng ôi! Sao đức suy đến thế? Cái gì đã qua rồi thì không thể ngăn được nữa; mà cái gì sẽ tới thì cũng chẳng đuổi được nào! Người đời sau vì tôn sùng Đức Khổng Tử nên cho Tiếp Dư là kẻ nói bậy, và đặt cho cái tên hiệu là "Sở Cuồng Tiếp Dư" (thằng điên nước Sở). Tấm lòng của Đức Khổng Tử lúc nào cũng rủ lòng thương xót đến dân chúng sống trong cảnh khổ sở, và các Đấng thiêng liêng thường ứng vào chiêm bao để dạy Ngài đem Đạo cứu đời. Cho nên trong bài "Khổng Thánh Chí Tâm Quy Mạng Lễ” mới có câu “Ứng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ” để tôn xưng một vị Thánh có lòng nhơn rộng lớn vậy.
NGŨ CHI ĐẠO ĐẠONgũ : Năm. Chi: Nhánh, chia ra. Đại Đạo: Một nền tôn giáo lớn, tức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ mở Đạo trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, lấy tôn chỉ là Tam Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt. Vậy Ngũ Chi Đại Đạo là năm nhánh của nền Đại Đạo. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: “Vốn từ trước Thầy lập Ngũ Chi Ðại Ðạo là Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo. Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi. Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt”. Ngũ Chi Đại Đạo là Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo, là năm nấc thang tiến hóa từ thấp lên cao mà người tín đồ Cao Đài theo đó mà tu thăng tiến dần lên các phẩm vị thiêng liêng, rồi sau đó hiệp nhập vào khối Đại Linh Quang của Thượng Đế. Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có cho biết: Với các nguyên nhân thì Ngũ Chi tỉ như một cái thang năm nấc bắc cho mình leo lên một địa vị ngang bực cùng Thầy, tức là Phật phẩm đó vậy. Chưa ai nhảy một nhảy mà lên cho tới tầng lầu năm thước bề cao, mà như ai để sẵn một cái thang năm nấc, mình có thể lần lần mà leo lên đặng. Thầy hiệp Ngũ Chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu luyện, chẳng khác một trường học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi đặng phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy, chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn nhận cho được. Năm bậc Nhân Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo nầy cũng biểu tượng năm phương thức hành đạo là: Tùng khổ, Thắng khổ, Thọ khổ, Thoát khổ và Giải khổ để làm thành đường lối hành đạo đi đến "Tuyệt khổ" của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chính trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp có giải thích như sau: Phật vì thương đời mà tìm cơ giải khổ, Tiên vì thương đời mà bày cơ thoát khổ, Thánh vì thương đời mà dạy cơ thọ khổ, Thần vì thương đời mà lập cơ thắng khổ, Hiền vì thương đời mà đạt cơ tùng khổ." Như vậy, Ngũ chi Đại Đạo là năm trình độ chuyển hóa liên hợp nhứt quán trên cứu cánh giải thoát con người khỏi sự đau khỗ phiền não một cách toàn diện. Muốn đạt được như thế, con người phải trải qua năm cấp tiến hóa: Cấp tiến hóa thứ nhứt là Nhơn đạo lên Thần đạo. Cấp tiến hóa thứ nhì là Thần đạo lên Thánh đạo. Cấp tiến hóa thứ ba là Thánh đạo lên Tiên đạo. Cấp tiến hóa thứ tư là Tiên đạo lên Phật đạo. Cấp tiến hóa thứ năm là Phật đạo lên Thiên đạo. 1- NHƠN ĐẠO Nhơn đạo (Nhân đạo) là cấp đầu tiên, thấp nhứt, đó là đạo làm người, đạo ở đời, nên nó còn được gọi là Thế đạo. Đây là những nguyên tắc và bổn phận mà con người phải tuân theo trong đời sống đối với gia đình và xã hội. Nhờ Nhơn đạo mà con người mới có giá trị là loài thượng đẳng chúng sanh. Theo giáo lý đạo Cao Đài, con người là Tiểu linh quang, được chiếc ra từ khối Đại linh quang của Thượng Đế; giáng sanh xuống trần làm người là để học hỏi và tiến hóa dần lên Thần, Thánh, Tiên, Phật Đạo, rồi cuối cùng tiến lên để hiệp nhứt với Thượng đế. Người tu Nhơn Đạo là bậc hiền, hành theo phương thức “Tùng khổ”, tức là nương theo các cảnh khổ não của chúng sanh để an ủi, giúp đỡ nhơn sanh, và đồng cam cộng khổ với nhơn sanh để dìu dắt nhơn sanh vào đường đạo đức. Trong năm cấp tiến hóa đó, Nhơn đạo là căn bản. Không hoàn thành Nhơn đạo thì không mong chi bước lên các cấp tiến hóa cao hơn. Cổ nhơn có câu: Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ. Nghĩa là: Muốn tu đạo Tiên, trước tu đạo Người, đạo Người không tu, đạo Tiên xa vậy. Trong đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn chọn ngôi Giáo Tông, ba ngôi Chưởng Pháp, ba ngôi Đầu Sư (tức là bảy cái ngai) làm đại diện Nhơn Đạo thuộc Ngũ Chi Đại Đạo trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Nói về phần Nhơn Đạo, Thánh thi có đoạn viết: Trong Tam giáo ba ngôi như một, Hình thức riêng chỉ cốt bề ngoài. Suy ra chơn lý không hai, Độ người lánh dữ, lành rày nên lo. Tôn giáo tợ con đò rước khách, Ai sang qua chẳng trạch giàu nghèo. Miễn là chí quyết noi theo, Đặng xa bể khổ, lên đèo thung dung. Muốn Tây Thiên trùng phùng ngôi vị, Thì trần gian lập ý vị tha. Từ bi theo hạnh Di-Đà, Công bình, bác ái hải hà bao dung. Nhơn Đạo dạy Tam tùng Tứ đức, Ngũ thường lo đúng mực thuần phong. Gia đình xã hội cũng đồng, Noi gương mỹ tục, giống dòng Nghiêu vương. 2- THẦN ĐẠO Thần đạo là nấc thang thứ hai trong Ngũ Chi Đại Đạo. Người tu hành phải đạt được hàng Thần vị rồi mới có thể tu tiến lên Thánh đạo để đạt hàng Thánh vị. Phương thức tu hành theo bậc phẩm này là “Thắng khổ”, tức đã đạt hàng Thần rồi phải chiến thắng những khó khăn để thực hành Nhơn đạo, tiếp nối Nhơn đạo. Theo Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp thì bên Trung Hoa Phong Thần, Hy Lạp Phong Thần, Ai Cập Phong Thần. Thần đạo ở Trung Hoa mở ra vào thời Phong Thần, do Khương Tử Nha theo lệnh của Đức Nguơn Thỉ Chưởng Giáo cầm bảng và đọc sắc phong Thần vào đầu đời nhà Châu. Vì vậy trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đại diện cho Thần Đạo là Khương Thượng Tử Nha, một trong Ngũ Chi Đại Đạo. Nói về phần Thần Đạo, Thánh thi có đoạn viết: Thần Đạo lập con đường phải lối, Phận công dân sớm tối lo tròn. Quan trường Tể Tướng, tôi con, Vẹn tròn hiếu nghĩa lòng còn thanh liêm. 3- THÁNH ĐẠO Thánh Đạo là nấc thang thứ ba trong Ngũ Chi Đại Đạo. Theo (Thuyết Đạo Hộ Pháp). thì Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo là Thánh Đạo. Thánh đạo là một tôn giáo dạy cho các tín đồ tu hành đắc thành bậc Thánh. Phương thức tu theo lối nầy phải Thọ Khổ. Người tu phải trau sửa lòng Bác ái, lòng vị tha và lòng bao dung. Bác ái là lòng thương yêu bao la, thương khắp chúng sanh. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy rằng: "Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn mình, cho nên, kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ nặng bằng Trời Ðất". Đức Chúa Jésus vì lòng Bác ái thương xót loài người, nên Ngài thọ lãnh cái chết trên Thập tự giá để chuộc tội cho loài người. Do đó, đạo Cao Đài thờ Đức chúa Jésus cầm quyền Thánh đạo thuộc Ngũ Chi Đại Đạo. Nói về phần Thánh Đạo, Thánh thi có đoạn viết: Thánh Đạo chuộng một niềm ngay thẳng, Chí công bình, trong trắng tâm thành. Không thiên chẳng vị em anh, Lời ngay lẽ phải phân rành quang minh. 4- TIÊN ĐẠO Tiên Đạo, hay nói cách khác là Tiên Giáo, là một tôn giáo dạy người tu luyện thành Tiên. Phương thức tu hành theo Tiên Đạo là “Thoát khổ”, tức tìm phương pháp để thoát khỏi sự đau khổ rồi dẫn dắt nhơn sanh thoát khổ như mình. Theo Tiên Đạo, muốn thoát khỏi cảnh khổ thì phải thực hành “Vô vi, Vô dục, Vô tranh”. Vô vi là không làm, không hành động theo ngoại giới mà chỉ hồi hướng về nội giới tâm linh của mình. Đạo Đức Kinh có câu: Đạo thường vô vi nhi vô bất vi”, nghĩa là Đạo thường là không làm mà không có việc gì là không làm được. Vô dục là không ham muốn vật chất, vì càng ham muốn vật chất thì càng phiền não, đau khổ. Cổ nhân thường nói: “Họa mạc đại ư bất tri túc, cửu mạc đại ư dục đắc”, nghĩa là không có tai họa nào lớn hơn không biết đủ, không có lỗi lầm nào lớn hơn muốn được. Vô tranh là không tranh giành của cải vật chất. Tiên Đạo hay Tiên Giáo là một trong Tam Giáo, do Đức Thái Thượng Lão Quân làm Giáo Chủ. Vào thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thay mặt cho Tam Giáo là Tam Trấn Oai Nghiêm, mà Nhứt Trấn Oai Nghiêm là Lý Đại Tiên Trưởng cầm quyền Tiên Đạo thuộc một trong Ngũ Chi Đại Đạo. Nói về phần Tiên Đạo, Thánh thi có đoạn viết: Tiên Đạo chỉ xử tình xử thế, Bác ái trau tập thể hòa thương. Yêu cùng nhơn loại bốn phương, Thanh nhàn thỏa chí, dặm trường ngao du. 5- PHẬT ĐẠO Đây là cấp tu cao nhất trong năm bậc tu hành theo Ngũ chi Đại Đạo. Phương thức tu hành theo Phật Đạo là “Giải khổ”, tức tìm phương pháp để cởi bỏ mọi sự đau khổ của chính mình và của chúng nhơn sanh. Phương pháp giải khổ theo Phật là Tứ diệu đế, tức là bốn chơn lý cao thượng, kể ra: Khổ đế: Nhận thức bốn cái khổ căn bản của con người là: sanh, lão, bệnh, tử. Tập đế: Nhận thức về nguồn gốc gây ra đau khổ.(tham, sân, si, ái, dục) Diệt đế: Chân lý về sự chấm dứt mọi hình thức khổ. Đạo đế: Con đường giải khổ, chứng nhập Niết bàn. Theo Thuyết Đạo Hộ Pháp, thì Phật Đạo có Bà La Môn, Thích Ca Mâu Ni, Pythagore Giáo. Vì thương xót chúng sanh. mà Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã rời bỏ ngai vàng, điện ngọc để đi tu và tìm được chân lý giải thoát cho chúng sanh, rồi lập ra Phật đạo lấy danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Do đó người đạo Cao Đài thờ Đức Thích Ca Mâu Ni làm Giáo chủ Phật đạo, là một trong Ngũ Chi Đại Đạo. Nói về phần Phật Đạo, Thánh thi có đoạn viết: Phật Đạo dụng đường tu thanh tịnh, Từ bi hành nhường nhịn lẫn nhau. Không chê kẻ thấp người cao, Chẳng vì chức tước nghèo giàu phân tranh. Người tín đồ đạo Cao Đài, sau khi hành trì từ bậc Nhơn Đạo tu lần đắc đến hàng Phật Đạo thì vẫn phải bồi công lập đức để Tiểu Linh quang được hòa nhập với Đại Linh quang của Đức Thượng Đế. Do đó, người tín đồ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thờ Đức Chí Tôn, Tam Giáo và gồm đủ Ngũ Chi Đại Đạo. Nói về phần Đại Đạo, Thánh thi có đoạn viết: Đại Đạo gồm năm nhành tôn giáo, Kể trên đây đào tạo lọc lừa. Hợp thời độ thế tùy ưa, Hạ, trung, thượng, đủ đều vừa ý chung. Giờ Bổn sư trùng phùng đồ đệ, Dạy đôi điều ráng để vào tâm. Chung lo cứu thế lạc lầm, Trở về đạo đức lo tầm non Tiên. Chung sức nhau chèo thuyền Đại Đạo, Dầu cam go tần tảo đừng than. Lý chơn dặm thẳng một đàng, Ngày thành Đại Đạo, Thiên Hoàng điểm công.
Ý NGHĨA TAM BỬUTam Bửu là ba món quý báu của Trời, đất và người. Tam bửu của Trời là Nhựt, Nguyệt, Tinh, tức Mặt trời, mặt trăng và các vì sao, là ba báu phát ra ánh sáng để dưỡng dục muôn loài, hoá sanh vạn vật, luân chuyển Càn khôn, chia ra ngày đêm sáng tối. Tam bửu của Đất là Thuỷ, Hoả, Phong, tức nước, lửa, gió là ba món báu của Đất. Nhờ ba báu ấy mà mưa hoà gió thuận, cây cối tươi nhuận và chia ra bốn mùa tám tiết. Tam bửu của người Tinh, Khí, Thần. Tinh là thân xác, Khí là chơn thần, Thần là chơn linh. Người tu hành muốn đắc Đạo phải luyện cho ba báu ấy hiệp nhứt, tức là luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần huờn hư. Chúng ta thử tìm hiểu ba món báu là gì? TINH là một chất nước rất tinh anh của nhục thể (xác thân) do cha mẹ sinh ra và thường được gọi là đệ nhất xác thân. Tinh do khí bẩm của cha mẹ mà biến thành, nghĩa là do vật chất hữu sanh nên nó phải chịu ảnh hưởng tốt xấu của phong thổ, vật chất hay nói cách khác chịu ảnh hưởng của ngoại vật chung quanh. Vật thực như ngũ cốc, hoa quả nuôi sống con người bằng cách sinh tinh hoá huyết. Nếu đối với thảo mộc, tinh là sức mạnh khiến cây cỏ trổ lá đơm hoa thì đối với con người, tinh là công năng sinh sản, là một chất quý báo để bồi dưỡng sức khỏe khiến xác thân có năng lực tráng kiện và tinh thần sáng suốt. Nếu vì tư tưởng dục tình, tinh bị trót lọt ra ngoài theo dòng thuận chuyển để nảy sanh nòi giống; còn nếu tinh chưa bị dục niệm thì là phần trong sạch gọi là nguơn tinh, người tu sẽ luyện nguơn tinh theo nghịch chuyển để hoá ra khí rồi hiệp với thần mà ngưng kết thành nhị xác thân. Nói cách khác, tinh là hình hài, thể xác của con người được tượng trưng bằng hoa. KHÍ là chất sinh để bảo tồn sự sống, gọi là sinh khí, cũng là nguồn sinh lực của con người. Hễ khí này mạnh thì thân thể cường tráng, hễ khí yếu thì thân thể suy nhược. Như ta biết, khí là trí não mà chúng ta thường gọi là phách, tức là đệ nhị xác thân. Khí (nguơn khí) là do sự biến hóa của nguơn tinh nên sự trong sạch hay ô trược của nó tùy thuộc vào nguơn tinh. Nếu ngươn tinh mà trong trắng thì nó là một hào quang sáng chói, nếu chưa được thánh chất thì nó màu hồng, còn như ô trược thì nó có hào quang màu tím. Hào quang ấy bao phủ lấy thể xác, tức đệ nhứt xác thân (hay nguơn tinh) để tiếp xúc với thần (tức nguơn thần). Bởi thế những người chưa được tinh khiết vì lệ thuộc vào vật chất, vì bị thể xác lôi cuốn vào chỗ lục dục thường tình thì càng ngày càng xa ngươn thần khiến trí não đần độn ngu si không thể thông hiểu các tư tưởng cao siêu. Vậy trí não chính là một yếu tố quan trọng quyết định con đường tu hành của ta có đắc đạo hay không. Khí là Chơn thần của con người, được tượng trưng bằng ruợu. THẦN là yếu tố thiêng liêng, linh diệu, bất tiêu, bất diệt trong con người. (nguơn thần) chính là linh hồn hay chơn linh chúng ta và được gọi là đệ tam xác thân. Thần còn gọi là điểm linh quang, do khối Đại linh quang tức là Thái cực chia ra và ban cho mỗi con người. Sau khi được Đức Chí Tôn chiết ra, điểm linh quang ấy sẽ đầu thai xuống thế giới hữu hình, vật chất. Đến khi chết, điểm linh quang hay chơn linh ấy sẽ không tiêu, không diệt mà đi đầu thai trở lại và từ kiếp nầy chuyển sang kiếp khác cho đến khi nào tu luyện đắc đạo thì mới giải thoát và trở về hiệp cùng khối đại linh quang. Như vậy, cuộc sống con người nơi thế gian ảnh hưởng đến điểm linh quang hay chơn linh rất nhiều nơi cõi vô hình. Chơn linh sẽ hưởng được sung sướng hay đau khổ, hưởng được lâu hay mau, được thăng hay đọa, được trở về sum hợp với khối đại linh quang hay phải đầu thai lại kiếp khác là hoàn tòan tùy thuộc xác phàm của chơn linh ấy, có tư tưởng thanh cao hay ô trược, tình cảm cao siêu hay ích kỷ, có công phu tu luyện nhiều hay ít, có công đức với đời hay không. Nếu công đức ít thì chơn linh sẽ được hưởng hạnh phúc một thời gian ngắn rồi phải đầu thai xuống thế gian. Còn nếu lúc còn sống làm điều ác đức không lo tu hành thì khi chết đi, chơn linh sẽ đau khổ, ăn năn sám hối, và có thể bị tái kiếp luân hồi ngay hoặc bị đọa xuống Diêm phù. Khi tái kiếp, chơn linh phải mượn xác phàm (đệ nhứt xác thân) nên tùy theo xác phàm là nam hay nữ thì chơn linh sẽ phát triển theo phái ấy vì chơn linh không thuộc dương hay âm mà gồm đủ hai yếu tố Âm dương, tức hai yếu tố cương nhu. Vậy xác phàm mà chơn linh (Thần) mượn để nhập vào đó sẽ ảnh hưởng rất mạnh đối với chơn linh. Xác phàm lại thường bị thất tình, lục dục sai khiến, cám dỗ. Tùy theo sự cám dỗ sai khiến nầy mạnh hay yếu mà hai phần của chơn linh là mê hồn hay giác hồn sẽ phát triển. Nếu mạnh thì mê hồn thắng thế, làm chủ nhơn thân và con người lúc ấy sẽ hành động càn quấy, xấu xa đê tiện. Ngược lại, nếu giác hồn làm chủ nhơn thân thì con người sẽ sáng suốt, thích thanh tĩnh vô vi, chỉ hành động cao thượng, làm những việc lợi cho nhơn sanh.
NHÃN THỊ CHỦ TÂMKhi giải thích về cách thờ Thiên Nhãn, Đức Chí Tôn có dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: “Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã 眼 是 主 心, 兩 光 主 宰, 光 是 神, 神 是 天, 天 者 我 也”, nghĩa là con mắt làm chủ cái tâm linh của con người, hai ánh sáng trong mắt là phần chủ tể, Ánh sáng ấy là Thần, Thần là Trời. Trời là Ta vậy. Chúng ta thử tìm hiểu câu “Nhãn thị chủ tâm”. Ta biết việc thờ Thiên Nhãn là để tượng trưng cho cái lương tâm của con người, tức phần quý báu nhứt trong cơ thể mỗi người chúng ta. Chính lương tâm giúp con người sáng suốt, biết điều phải quấy, nhơn nghĩa, mến đạo đức, chuộng tinh thần, thuận theo thiên lý. Lương tâm ấy đã sẵn có trong con người chúng ta từ lúc mới sinh ra. Nhưng do ta đắm đuối vào vật dục mà cái lương tâm nầy càng ngày càng mờ tối đi, khiến ta quên điều đạo đức, lẽ công bình. Bởi vậy, Nho giáo mới dạy người quân tử phải giữ gìn cái tâm của mình sao cho được hồn nhiên, thuần hậu như cái tâm của đứa trẻ con là quý nhứt, sách có viết “Đại nhân giả, bất thất kỳ xích tử chi tâm dã 大 人 者, 不 失 其 赤 子 之 心 也”, nghĩa là bậc đại nhân không bỏ mất cái tâm hồn nhiên của đứa trẻ còn nhỏ. Điều nầy cũng dễ hiểu, vì trẻ con thường ít dục vọng, nên đời sống của chúng tự nhiên, chất phác và tâm của chúng nhờ vậy cũng giản dị, thuần hậu. Đời sống không có dục vọng thì ngoại vật không thể tác động đến tâm của mình được. Người xưa cho rằng: Cái tâm của Thánh nhân và người thường không khác nhau mấy. Như vua Nghiêu, vua Thuấn là bậc Thánh nhân cũng có cùng một cái tâm như người thường chúng ta, chỉ khác là những bậc ấy giữ được cái tâm hồn nhiên không để vật dục chi phối mà thôi. Vậy nếu chúng ta cũng cố gắng gìn giữ cái tâm được như thế thì chúng ta có khác gì bậc Thánh nhân đâu. Tâm chúng ta được hư tĩnh, vật dục không thể làm cho mất cái sáng suốt tự nhiên thì khi có vật gì cảm đến, tâm ta sẽ ứng được, biết rõ ngay các lẽ. Như vậy, tâm càng được trau giồi sáng suốt bao nhiêu thì trực giác càng mầu nhiệm bấy nhiêu và tự nhiên sẽ được giáo tiếp với Trời, vì Trời với người cùng một lý, một khí. Nếu cái lương tâm được gìn giữ cho còn và trau giồi cho ngay chính, sáng suốt, thuận theo thiên lý tự nhiên và lúc nào cũng ở trong trạng thái hư vô, thanh tĩnh thì đó chính là cách thờ Trời vậy. Mạnh Tử có nói: “Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tính, sở dĩ sự Thiên giả 存 其 心, 養 其 性, 所 以 事 天 也”, nghĩa là giữ gìn cho còn cái tâm của mình, nuôi dưỡng cái tâm ấy của mình là để thờ Trời vậy. Chữ tâm ngoài nghĩa là lương tâm còn có thể gọi là linh hồn, Thiên tánh, Phật tánh tùy theo cách gọi của từng tôn giáo. Tâm còn có nghĩa là tâm vũ trụ, là trung tâm điểm, là Thái cực. Thật vậy, trong vũ trụ thì Thái cực là chủ tể của muôn loài vạn vật, dưỡng dục cả sinh linh, bảo tồn vạn loại. Thái cực ấy là toàn tri toàn năng, biến hóa vô cùng tận và làm cho muôn loài vạn vật cùng tiến hóa. Do đó Thái cực chính là trung tâm điểm của Càn khôn, là tâm của vũ trụ. Như vậy, tâm chính là Thần, là Thiên tánh, là Chơn linh, là Điểm Tiểu linh quang mà Trời hay Thái cực là một khối Đại linh quang đã chiết ra để ban cho mỗi con người. Tâm tức là hình ảnh Đức Chí Tôn tạo ra cho con người hay nói khác đi, Trời đã ngự trị trong mỗi con người chúng ta. Thế nên, thờ Trời là thờ cái tâm mà hình trạng của cái tâm là Thiên Nhãn nên ta có thể nói “Nhãn thì chủ tâm”, thờ Thiên Nhãn chính là thờ Trời vậy.
DÂY SẮC LỊNHDây Sắc lịnh (hay Dây Lịnh sắc) là một dây bằng vải có ba màu đạo: Vàng, xanh, đỏ theo chiều dọc kết lại, dùng để buộc ngang thắt lưng của chư chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài khi mặc đạo phục chầu lễ Đức Chí Tôn, hoặc khi cầm quyền hành chánh. Ba màu vàng, xanh, đỏ của dây sắc lịnh tượng trưng cho quyền chưởng quản tam giáo, nắm Thể pháp và Bí pháp trong tay. Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có viết: Vì lời khuyên của Thầy mà Đức Lý Giáo Tông xin buộc cả chức sắc Hiệp Thiên Đài phải minh thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức sắc Hiệp Thiên Đài thật trọng quyền, Ngài mới ban “DÂY SẮC LỊNH”, buộc cả tín đồ và cả chức sắc Thiên phong, hễ mỗi chức sắc Hiệp Thiên Đài mang Dây Sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chiều theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả chức sắc nào đã thọ quyền của Hiệp Thiên Đài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh. Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh và Thập nhị Thời Quân khi mặc Đại phục thì lưng đều mang dây Sắc lịnh. Đức Hộ Pháp và quý vị Thời Quân chi Pháp thì buộc Dây Sắc lịnh mối đặt giữa bụng, Đức Thượng Phẩm và quý vị Thời Quân chi Đạo thì mối buộc đặt bên hông mặt, Đức Thượng Sanh và quý Thời Quân chi Thế thì mối buộc đặt bên hông trái. Còn các phẩm chức sắc Hiệp Thiên Đài dưới Thập nhị Thời Quân hoặc chức sắc Cửu Trùng Đài khi được lịnh Hiệp Thiên Đài hay thay mặt Hội Thánh thi hành một công việc Đạo quan trọng thì được Hiệp Thiên Đài (chưởng quản là Hộ Pháp) ban cho dây sắc lịnh để được toàn quyền hành sự trong phạm vi trách nhiệm. Những vị lãnh nhiệm vụ nầy buộc phải minh thệ để giữ dạ chí công vô tư, và toàn cả chức sắc và tín đồ phải tùng mạng lịnh vị chức sắc đó. Sau khi thi hành nhiệm vụ xong, vị chức sắc phải trả dây sắc lịnh lại cho Hiệp Thiên Đài. Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa trong quyển Chánh Trị Đạo có giải thích về Dây Lịnh sắc như sau; - Về quyền năng thiêng liêng: Người được Hiệp Thiên Đài ban Dây Sắc lịnh là người đại diện Đức Hộ Pháp trong khi hành sự, quyền hành y như Hộ Pháp khi thi hành mạng lịnh của Hộ Pháp. Dây Sắc lịnh là tướng diện của luật pháp, chẳng một quyền nào tương đối lại đặng. Khi hành pháp, thảng như quá quyền thì người đại diện đó mang trọng tội là lợi dụng hay là phỉ nhục Hộ Pháp. - Quyền hành hữu hình: Cả cơ quan hữu vi của Đạo, dầu trọng dầu khinh, điều phải cúi đầu vâng phục người thay mặt cho Thiên điều tại thế, tổng hợp cả quyền Tam giáo nơi mình đặng thi hành luật pháp. Vì quyền hạn của chức sắc Hiệp Thiên Đài, dầu thượng cấp dầu hạ cấp, hễ Hộ Pháp ban cho tới đâu, hành quyền tới đó, nó không có giới hạn định chắc cao hay thấp. Sau đây là những trường hợp của các chức sắc thọ dây sắc lịnh đặc biệt. Theo quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Chí Tôn phong cho Ông Nguyễn Phát Trước, tục danh là Tư Mắt phẩm Phụ Ðạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân và trong đàn cơ ngày 23 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 27/11/1926) Đức Chí Tôn có đọan Thánh giáo dạy ông mặc sắc phục như sau: Mắt, Thầy dặn con cứ nghe lời Thầy. Con nghe: Thầy giúp con làm công quả đặng chuộc tội cho cha con và cứu Cửu Huyền Thất Tổ con, song tùy theo con chứ Thầy cũng phải giữ lẽ công. Chừng nào con làm đủ âm chất, Thầy sẽ cho cha con nhập cơ mà hội diện với con nghe à.... Cười. Còn sắc phục con phải mặc nịt một sợi dây lưng ba màu: vàng, xanh, đỏ; có chữ ngay giữa: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và một cây trượng, trên có lá cờ cũng đề như vậy. Theo Thánh giáo Đức Hộ Pháp, vị Hộ Đàn Pháp Quân không phải là chức sắc Hiệp Thiên Đài, nhưng được ban cho dây sắc lịnh để thi hành nhiệm vụ. Trong một đàn cơ tại Giáo Tông Đường, ngày 25 tháng 10 năm Ất Tỵ (Dl. 17/11/1965). Phò loan: Hiến Pháp và Khai Đạo. Lúc 21 giờ 30, Ngài Thượng Sanh có bạch: Vị tân Hộ Đàn Pháp Quân là Thượng Khanh Thanh sẽ mặc sắc phục thế nào? Đương sự phải kiêm luôn nhiệm vụ Thánh Vệ Trưởng theo lời Đức Ngài đã dạy. Vậy đương sự sẽ đặt dưới quyền trực thuộc của cơ quan nào? Đức Hộ Pháp dạy: Hộ Đàn chịu dưới quyền trực thuộc Hiệp Thiên Đài Chi Pháp. Đại phục là mặc áo tràng rộng như Thời Quân, đội Nhựt Nguyệt Mạo, lưng thắt DÂY SẮC LỊNH bỏ mối ngay giữa. Hộ Đàn có tiểu phục như Thời Quân nhưng không mang Sắc lịnh, đội mão Tam Quang không có thêu, nhưng có Thiên nhãn ngay giữa. Đạo phục màu trắng.
Ý NGHĨA BẢN THIÊN NHƠN HÒA ƯỚCKhi mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn ký với nhơn loại bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước, giao cho ba vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động là Thanh Sơn Đạo Sĩ, Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Tôn Trung Sơn Chơn Nhơn nơi cõi thiêng liêng viết ra để công bố cho nhơn loại hiểu rõ, đồng thời Đức Chí Chí Tôn ra lịnh cho Tam Thánh làm Thiên sứ hướng dẫn nhơn loại khắp hoàn cầu đi vào cửa Đại Đạo. Nội dung của bản Thiên Nhân Hòa Ước được Tam Thánh ký được công bố bằng hai thứ ngôn ngữ: Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn tức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cầm bút lông viết tám chữ Nho: “天 上 天 下, 愽 愛 公 平 Thiên Thượng Thiên Hạ, Bát Ái Công Bình”. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức Văn hào Victor Hugo cầm bút lông viết sáu chữ Pháp là: “DIEU et HUMANITÉ, AMOUR et JUSTICE” sáu chữ nầy có nghĩa là Thượng Đế và Nhơn Loại, Bác Ái và Công Bình. Đức Chí Tôn cam kết với nhơn loại, nếu người nào thực thi được bốn chữ “Bác ái, Công bình” thì Đức Chí Tôn sẽ rước về cõi Thiêng liêng Hằng sống, được ban thưởng ngôi vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, thoát khỏi luân hồi. Mở nền Đại Đạo là Đức Chí Tôn ban cho một ân huệ đặc biệt là Đại ân xá kỳ ba và có dặn: “Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng”. Như vậy, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là đạo Cao Đài là mục đích lấy bốn chữ “Bác ái, Công bình” làm tiêu chuẩn cho Luật và Quyền trong việc phổ độ nhơn sanh. Luật là Thương yêu (Bác ái) Quyền là Công chánh (Công bình). Chính Đức Hộ Pháp trong Thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 8 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949) có đoạn: Đức Chí Tôn Ngài đến do tay Ngài ký một hòa ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài nỉ xin cho đặng hai điều trọng yếu làm cho nhơn loại đặng sống tồn tại là luật thương yêu và quyền công chánh. Chúng ta thử tìm hiểu xem tại sao chỉ cần giữ “Luật Thương yêu và quyền Công chánh” tức là hành xử trọng vẹn được “Bác ái, Công bình” thì đủ trở về ngôi xưa vị cũ. Bác ái vốn là thương yêu mà nền Đạo Đạo nêu ra không phải là tình yêu thương thấp hèn, vị kỷ. Loại tình thương đó chỉ mang lợi lộc cho mình, chỉ thâu vào hơn ban ra, chỉ nghĩ đến cá nhân mình, đến gia đình mình hay tập thể mình. Loại tình thương đó dễ đưa đến hận thù, chiến tranh. Thương yêu ở đây trước tiên là tình thương yêu thuận hòa của những người đồng đạo. Những người nhập một đạo tức là thọ giáo cùng một Thầy, nên phải xem nhau như con một cha, một nhà, phải giúp đỡ nhau để tình đồng đạo ngày thêm khắn khít, để tránh cái hại là chia phe lập đảng. Chẳng quản đồng tông mới một nhà, Cùng nhau một Ðạo tức một Cha. Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi, Dạy lẫn nhau cho đặng chữ hòa. (Thi Văn Dạy Đạo). Tình thương yêu ấy phải thể hiện lòng bác ái, tức phải có lòng thương người vô biên, không điều kiện, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, giai cấp chủng tộc. Tình thương cũng phải thể hiện lòng từ bi, tức luôn luôn đau xót trước sự khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng tìm cách cứu giúp họ thoát khỏi khổ não, nhưng không bao giờ để ý đến những sự bạc bẽo vô tình của người đời. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: “Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất”. Điều thứ hai trong bản Thiên Nhơn Hòa Ước là sự Công bình. Công bình là ngay thẳng, không thiên lệch. Vậy công bình là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc kiến tạo một xã hội công bằng thịnh vượng. Nếu công bình được thì hành một cách đứng đắn thì quyền lợi trang trải đồng đều, sự thưởng phạt sẽ phân minh, không chênh lệch. Đó là sự công bình ở thế gian. Còn về mặt thiêng liêng thì có luật nhân quả hay luật báo ứng để làm cân thưởng phạt. Theo luật nhân quả nầy nguyên nhân thế nào thì kết quả thế ấy, tức ai tạo nhân lành sẽ được hưởng quả lành, ai tạo nhân dữ ắt sẽ rước lấy quả dữ. Những việc xảy ra cho chúng ta trong kiếp sống nầy vốn là cái quả do cái nhân của chúng ta tạo ra từ kiếp nầy hoặc kiếp trước. Vậy tình thương yêu và sự công bình là hai điểm quan trọng nhứt của Đại Đạo. Có lòng thương yêu chơn thành thì mới thực hiện được chữ “Nhơn”, vì nhơn vốn là một đức bao gồm mọi hạnh lành. Còn giữ phép công bình, lòng chánh trực mới đáng là người có “Nghĩa”. Như vậy, nhơn và nghĩa luôn luôn đi đối với nhau, không thể thiếu sót được. Chính trong sách Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Nếu có Nhân mà không có "Nghĩa" thì Đạo đức thiếu hình thức; còn như có "Nghĩa" mà không có Nhân thì Đạo đức thiếu tinh thần. Tóm lại, Bác ái và công bình là hai điểm mà Đức Chí Tôn muốn truyền bá khắp trong toàn thế giới và mong muốn con cái của Người phải thực hiện cho nghiêm chỉnh để nhơn loại được hưởng nền hòa bình vĩnh cửu và thế giới sẽ được đại đồng.
CỨU THẾ QUYẾT NGƯNG QUYỀN ĐỊA PHỦTrong Thi Văn Dạy Đạo có bài thi: Day mặt Hồng Quân ngó địa hoàn, Rưới chan vạn vật khối sinh quang. Cõi Tiên mở rộng cung Ðâu Suất, Nước Phật sửa an cảnh Niết Bàn. Cứu thế quyết ngưng quyền Địa phủ. Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian. Thần thông trói chặt Ma vương quái, Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa câu “Cứu Thế quyết ngưng quyền Địa phủ”. Cứu thế: Cứu giúp người đời. Quyết: Nhứt định. Ngưng quyền: Chấm dứt quyền hành. Địa phủ: Hay Địa ngục, Diêm cung, chỉ nơi đày đoạ linh hồn người có tội ở dưới Âm phủ. Cứu thế quyết ngưng quyền Địa phủ là ý nói đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn mở ra để cứu giúp chúng sanh trong thời kỳ Hạ ngươn mạt Pháp, Ngài quyết định ngưng quyền hành của các Đấng Diêm vương ở cõi Địa phủ, ý muốn nói đóng cửa Địa ngục, không còn Địa ngục nữa. Điều nầy chính trong Phật Mẫu Chơn Kinh có cho biết: Vô Địa ngục, vô Quỷ quan, Chí Tôn Đại xá nhứt trường quy nguyên. Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn khai nền Đại Đạo để cứu thế, cũng là mở kỳ Đại ân xá lần ba, nên ra lịnh đóng cửa các cõi Địa ngục và mở rộng cửa Thiên đường để cho tất cả chúng sanh được giải hết oan nghiệt, tu một kiếp mà có thể quy nguyên, tức là trở về nguồn cội. Mà nguồn cội là cái gốc ban đầu của con người là khối Đại linh quang của Đức Chí Tôn. Con người xuất phát từ nguồn cội đó, luân hồi sanh tử hằng hà sa số kiếp nơi cõi thế gian, nếu mê mờ thì mãi bị chìm sâu vào khổ não, còn nếu giác ngộ chịu học hỏi, tu hành thì có thể đoạt được phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tùy theo công đức. Đến ngôi Phật vị con người còn phải tu nữa để được qui nguyên, tức là trở về cùng Khối Đại Linh Quang của Đức Thượng Đế. Còn các vong hồn có tội tình thì vào cõi Âm quang, chờ ngày thoát hoá. Tại sao lại đóng địa ngục, mở tầng Thiên? Chúng ta biết, Đức Chí Tôn mở nền Đại Đạo Cao Đài ở phương Đông, ban ân huệ lớn lao là Đại ân xá cho tất cả chúng sanh và các đẳng linh hồn. Vì thế, khi mới khai Đạo, Hội Thánh thường gọi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là nền đạo “Đại ân xá kỳ ba của Thượng Đế ở Phương Đông” và dịch ra pháp văn như sau: Troisième Amnistie de Dieu en Orient. Theo các kinh sách của Đạo Cao Đài, kỳ Đại ân xá này Chí Tôn cho chúng sanh được hưởng những đặc ân như: 1- Tha thứ các tội lỗi và oan khiên kiếp trước của những người biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lập minh thệ với Đức chí tôn để nhứt tâm tu niệm. Kinh Giải Oan có viết: May đặng gặp hồng ân chan rưới, Giải trái oan sạch tội Tiền khiên. Trong Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu có câu: Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước, Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân. Và Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối viết: Chí Tôn xá tội giải oan, Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ vong. Hay: Ăn năn sám hối tội tình, Xét câu minh thệ gởi mình cõi thăng. 2- Đóng Địa ngục, Phong đô và mở cửa Thiên đường để các con cái Chí Tôn được về hội hiệp cùng Ngài. Những vong hồn có tội được đưa đến cõi Âm quang để giải thân định trí, chờ ngày thoát hóa. Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên, Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây Phương. (Kinh Giải Oan) 3- Tu một kiếp có thể đắc Đạo mà trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng”. Tóm lại, điều đại hạnh cho chúng sanh ngày nay là chúng sanh được hưởng ân Đại xá và khi giáng huyền cơ khai mở nền Đại Đạo, thì chính Đức Chí Tôn ra lịnh ngưng quyền Địa phủ, tức không còn Địa ngục phong đô nữa để chúng sanh, người nào quyết chí tu hành, thì trong một kiếp có thể đắc Đạo được.
HIỆP NGŨ CHIĐức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trong thời kỳ thứ ba với tôn chỉ là Quy nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ chi. 1- Chúng thử tìm hiểu tại sao lại phải Phục nhứt Ngũ Chi? Phục nhứt Ngũ chi hay “Hiệp Ngũ chi” là đem năm nhánh đạo là Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo gom trở lại hiệp thành một đạo gọi là Đại Đạo. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: “Vốn từ trước Thầy lập Ngũ Chi Ðại Ðạo là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Tuỳ theo phong hoá của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi. Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định quy nguyên phục nhứt”. Theo ý nghĩa của Thánh ngôn trên, do thời xưa, nhơn loại chưa được văn minh, nên Đức Chí Tôn mở ra mỗi địa phương một mối đạo để độ rỗi nhơn sanh vùng đó. Vì vậy mới có nhiều mối đạo khác nhau trên thế giới. Chính do những mối đạo đó, trải qua nhiều đời, bị người phàm canh cải, trở nên phàm giáo, rồi các mối đạo chống đối nhau tạo thành chiến tranh tôn giáo. Ngày nay nhơn loại đã văn minh tiến bộ, xem thế giới như nhà, nên Đức Chí Tôn chỉ cần mở một nền Đại Đạo duy nhứt, bằng cách quy hiệp các đạo lập thành từ trước thành năm nấc thang tiến hóa cho nhơn sanh đắc đạo. Điều nầy chính Đức Hộ Pháp có giải thích như sau: “Vì năm Đạo phân chia làm nhơn tâm bất nhứt, nhơn loại nghịch lẫn nhau. Chí Tôn đến đặng hiệp lại một nhà, ước cho con cái của Người biết thương yêu hoà thuận”. 2- Ý nghĩa của việc hiệp Ngũ chi Đại Đạo. Như ta biết con người do Đức Chí Tôn cho xuống trần để học hỏi tại trường đời, hầu mở mang Thiên tánh Ngài đã ban, nhưng vì chơn linh nhập thế, mang nặng xác phàm bị thất tình lục dục sai khiến, làm cho con người trở nên vô minh, quên hết căn nguyên bổn tánh của mình. Do vậy, con người mới phải chịu trăm cay ngàn đắng, đau đớn, khổ sở. Trước cảnh khổ nơi trần gian, các bậc cứu thế độ đời đã tùy trình độ chúng sanh mà đề ra nhiều phương pháp xử trí với cảnh khổ khác nhau, mục đích giúp con người biết xử dụng nó để làm nấc thang thăng tiến. Theo bài Diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh, ngày 14 tháng 2 năm Mậu Thìn (Dl. 5/3/1928), Ngài cho rằng: Thầy hiệp Ngũ chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu luyện chẳng khác một trường học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi đặng phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn nhận cho đặng. Hiệp Ngũ chi chính là hợp nhứt năm cách thức hành đạo của Ngũ chi Đại Đạo là:
- Sống trong cõi thế gian là nơi sông mê bể khổ, người tín hữu của nền Đại Đạo phải cùng chịu sự đau khổ của nhơn sanh, và phải hòa mình trong mọi cảnh khổ của họ đó gọi là Tùng khổ. - Sau đó người tín hữu phải giúp đỡ nhơn sanh chiến thắng sự đau khổ bằng cách lấy giáo lý của Thánh Hiền giải thích, chỉ rõ đường lối đạo đức cho nhơn sanh biết để họ khỏi sa vào cạm bẫy của quỷ vương, khỏi bị mê hoặc bởi những tà đạo, tức là Thắng khổ. - Người tín hữu Đại Đạo lại còn sẵn sàng chịu đựng, gánh vác, hoặc hiến thân cho sự khổ não để nâng đỡ và xây dựng hạnh phúc cho nhơn sanh đây là sự Thọ khổ của người tín đồ Đại Đạo. - Trách nhiệm của người tín hữu còn phải dìu dắt, chỉ dẫn đường đi nước bước cho nhơn sanh để họ tu hành, tham thiền nhập định mà thoát khỏi cảnh khổ ở trần gian, tức là Thoát khổ. - Đường lối giải khổ của Phật là phá bỏ “Vô minh”. Trong kinh Phật dạy: Cái khổ ở trong địa ngục bị thiêu đốt cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỷ bị đói khát cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm súc sanh kéo cày bị đánh cũng chưa phải là khổ, cái khổ “vô minh” không biết đường đi mới là khổ. Cho nên người tín đồ Đại Đạo phải dạy cho chúng sanh phá được vô minh, cắt đứt mọi dục vọng thấp hèn khiến họ tỉnh giác biết đường tu tập để thoát đường sinh tử luân hồi, đó Giải khổ. Người tín hữu nào đã được hoàn thành năm phương thức năm hành đạo nầy là đã đạt được sự tuyệt khổ của nền Đại Đạo vậy.
NHỰT NGUYỆT MẠONhựt nguyệt mạo 日月帽 thường gọi là mão Quạ, là cái mão làm bằng hàng trắng, có hình dạng là một vòng tròn úp lên đầu, tượng trưng mặt trời và cái hình bán nguyệt của mão tượng trưng cho mặt trăng. Trong Pháp Chánh Truyền Chú giải có quy định về bộ Đại phục của Thập nhị Thời quân như sau: “Bộ Đại phục toàn bằng hàng trắng, cổ trịt viền chỉ kim tuyến bạc, đầu đội Mão Quạ cũng bằng hàng trắng, lưng nịt dây sắc lịnh theo chi của mình mà thả mối, chơn đi giày Vô ưu màu trắng”. Trong Đàn cơ tại Tòa Thánh, ngày 25 tháng 1 năm Tân Mùi (Dl. 13/3/1931), Phò loan Hộ Pháp, Bảo Văn Pháp Quân, Bà Lục Nương Diêu Trì Cung có giáng cơ định danh cái mão của chư chức sắc Thời Quân Hiệp Thiên Đài đội như sau: Thưa anh Cao Văn Pháp, em chẳng hiểu ý Chí Tôn định y phục của hai anh thế nào nên tốt hơn là tìm Thánh ngôn của Người mà coi lại. Văn Pháp bạch: Lúc sửa Pháp Chánh Truyền trải qua những Thiên phục của các Chức sắc, Đức Giáo Tông đặt tên mão còn sót mão Hiệp Chưởng của Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Qua tưởng khi để mão Hiệp Chưởng không nhằm, xin em từ bi sửa lại giùm. – Cười… Cái vòng tròn úp lên đầu mà đội là thể Nhựt hình, còn hình bán nguyệt của mão là thể Nguyệt tượng, Vậy thì gọi là Nhựt Nguyệt Mạo. Văn Pháp bạch: Còn sợi dây đai của Bảo Sanh Quân có hai vòng vô vi gọi là chi? Qua kiếm Thánh ngôn coi lại không đặng, em giúp luôn thể. – Sợi dây của anh Bảo Sanh là Song Quang Thần Thông. Văn Pháp bạch: Sợi dây đai của Qua cũng chưa biết gọi là chi mà để vào Pháp Chánh Truyền? - Bạch Tuyết Thần Thông. Như vậy, mão Quạ tức “Nhựt nguyệt mạo 日 月 帽”, là mão dành cho Thập Nhị Thời Quân đội khi mặc Đại phục chầu lễ Đức Chí Tôn. Nhựt Nguyệt mạo còn dùng cho Bảo Văn Pháp Quân, Bảo Sanh Quân, Hộ Đàn Pháp Quân, Tả Hữu Phan Quân đội khi chầu lễ Đức Chí Tôn, nhưng mỗi phẩm cái mão có những đặc điểm riêng. MÃO CỦA BẢO VĂN PHÁP QUÂN Theo Pháp Chánh Truyền: Bộ Đại Phục của Văn Pháp toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo như các Chức Sắc nơi Hiệp Thiên Đài, song hai bên ngay chính giữa có kết một bông sen năm cánh, trên mỗi bông thì thêu Thiên Nhãn Thầy ngay đường giữa trước mão cũng kết một bông sen nhưng khỏi thêu Thiên Nhãn. Cả thảy là ba bông sen trên mão. Lưng đai Bạch Tuyết Thần Quang bằng hàng trắng, bề dài ba thước ba tấc ba phân; bề ngang ba tấc ba phân ba ly, buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen năm cánh. Chơn đi giầy vô ưu cũng bằng hàng trắng, trước mũi mỗi chiếc cũng có một bông sen nhỏ hơn một thí. MÃO CỦA BẢO SANH QUÂN Theo Pháp Chánh Truyền: Bộ Đại Phục của Bảo Sanh Quân toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt nguyệt mạo giống như các chức sắc Hiệp Thiên Đài. Ngay giữa mão. Ngay giữa mão từ bìa lên bốn phân thêu một Thiên Nhãn. Hai bên mão thêu hai Thiên Nhãn nữa, cả thảy là ba. Vòng theo dành mão cột một sợi dây Tiên Thằng (bề ngang 8 phân, bề dài 2 thước), buộc thế nào chừa Thiên Nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai. Lưng đai Song Quang Thần Thông, nghĩa là một đường lụa trắng kết hai bên hai vòng vô vi. Chơn đi giày vô ưu cũng bằng hàng trắng. MÃO CỦA HỘ ĐÀN PHÁP QUÂN và TẢ HỮU PHAN QUÂN Trong một Đàn cơ tại Giáo Tông Đường, ngày 25 tháng 10 năm Ất Tỵ (Dl. 17/11/1965). Phò loan: Hiến Pháp, Khai Đạo. Lúc 21 giờ 30. Đức Thượng Sanh bạch: Vị tân Hộ Đàn Pháp Quân là Thượng Khanh Thanh sẽ mặc sắc phục thế nào? Đức Hộ Pháp dạy: Đại phục: Áo tràng rộng như Thời Quân, đội Nhựt Nguyệt Mạo, lưng thắt dây Sắc lịnh bỏ mối ngay giữa. Còn Đại phục của Tả, Hữu Phan Quân giống như Đại phục của Hộ đàn Pháp Quân, nhưng không có buộc dây sắc lịnh ở lưng. Như vậy, bộ Đại Đại phục của Tả, Hữu Phan Quân đều mặc áo tràng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo. Ngoài ra, Nhựt Nguyệt Mạo còn dùng cho các phẩm chức sắc Hiệp Thiên Đài Tiểu cấp đội, nhưng hai bên Nhựt nguyệt Mạo có Tam sắc đạo (tức miếng vải ba màu: Vàng, xanh, đỏ), ba Cổ pháp và trên Cổ pháp có cân công bình.
PHI TƯỞNG ĐÀIPhi Tưởng Đài 非 想 臺, còn gọi là “Thông Thiên Đài 通 天 臺”, là một cái đài ở lầu thứ hai, nằm giữa Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài. Nơi mặt tiền Tòa Thánh Tây Ninh nằm giữa hai lầu chuông và lầu trống từ dưới lên trên có xây dựng một công trình gồm ba tầng: 1- Tầng trệt là Tịnh Tâm Điện, một khoảng trống từ cửa chánh Tòa Thánh bước vào, giữa có đặt bức họa Tam Thánh ký Hòa ước. Tịnh Tâm Điện là nơi để chư chức sắc và tín đồ dừng bước để cho tâm lắng đọng, hư tĩnh, trước khi bước vào chánh điện bái lễ Đức Chí Tôn. 2- Tầng một là Hiệp Thiên Đài, bên ngoài ở giữa nóc có đắp một hình Cổ pháp, dưới có hàng chữ: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ viết bằng chữ Hán lẫn chữ Việt. và dưới nữa hai bên có đề hai chữ Nhân Nghĩa cùng với hai câu đối viết bằng chữ Hán: 協 入 高 臺 百 姓 十 方 歸 正 果 Hiệp nhập Cao Đài bá tánh thập phương quy chánh quả, 天 開 黃 道 五 支 三 教 會 龍 花 Thiên khai Huỳnh đạo ngũ chi Tam giáo hội Long Hoa Giải nghĩa: - Họp nhau vào đạo Cao Đài, trăm họ ở mười phương sẽ trở về ngôi chánh quả. - Trời mở Đạo Huỳnh với Ngũ chi Đại Đạo và Tam giáo tham dự Hội Long hoa. Dưới cùng của Hiệp Thiên Đài là một bao lơn đưa ra phía trước (tức Bao Lơn Đài) hình bán nguyệt có chạm tám khuôn hình diễn tả tám sự tích sau đây: - Hữu Sào Toại Nhân - Vua Ngiêu tìm hiền - Sào Phủ Hứu Do - Vua Hạ Võ trị thủy - Khương Tử Nha Võ Kiết - Phạm Lãi Tây Thi - Bá Nha Tử Kỳ - Châu Mãi Thần. Bên trong Hiệp Thiên Đài có lập bàn thờ Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh và Thập nhị Thời Quân. 3- Tầng hai là Phi Tưởng Đài, bên trên nóc Phi Tưởng Đài có đắp hình Phật Di Lạc ngồi trên lưng bạch hổ. Phía trước Phi Tưởng Đài cũng có đắp hình Thiên Nhãn hướng ra mặt tiền Đền Thánh và bên trong có lập một khuôn hình Thiên Nhãn, là nơi thờ Chí Tôn để Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp lên đó thông công cùng Ngài, cho nên Đài nầy còn gọi là Thông Thiên Đài. Theo lời kể lại của một chức sắc Hiệp Thiên Đài, trong buổi lễ trấn thần Đền Thánh, Đức Hộ Pháp trấn thần khuôn Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài đầu tiên hết, Ngài đứng ngay trước Đền Thánh, ngó ngay Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài, rải Cam Lộ thủy và cầm nhang hành pháp trấn thần. Kế tiếp Đức Hộ Pháp trấn thần tượng Đức Phật Di Lạc trên nóc Phi Tưởng Đài, Ngài nói: Đức Di lạc đã ngự vào tượng, ngồi thị chứng cho nhơn loại thập phương thế giới day hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện Ngài ban ân huệ cho toàn chúng sanh.
Ý NGHĨA VỀ TAM TÀI và NGŨ KHÍTrong đạo Cao Đài, nơi Chánh điện thờ Đức Chí Tôn luôn luôn đốt năm cây hương xếp thành hai hàng: Hàng trong ba cây, hàng ngoài hai cây. Theo phần Tiểu dẫn của Hội Thánh về cách thờ phượng và cúng kiếng trong quyển Kinh Thiên Đạo, Thế Đạo như sau: “Khi cúng Thầy, phải đốt cho đủ năm cây hương, cắm hàng trong ba cây gọi là Án Tam tài, thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là Tượng Ngũ khí”. Hai cây hàng ngoài vừa tượng trưng cho Ngũ khí, vừa tượng trưng cho ngũ phần pháp thân hương. Ở đây, chúng ta thử tìm hiểu về ý nghĩa của Tam Tài và Ngũ Khí. TAM TÀI: Tam tài là ba ngôi. Người xưa thường nói: Thiên địa dữ nhân vị chi Tam tài 天 地 與 人, 謂 之 三 才, tức là trời đất và người, gọi là Tam tài, đó là ba yếu tố quan trọng nhứt, cao quý nhứt trong vũ trụ, Nếu trong ba yếu tố đó mà mất đi một thì cuộc đại hòa điệu trong vũ trụ không còn nữa. Đổng Trọng Thư viết rằng: Người với trời tương đồng từng điểm cho nên vũ trụ mà không có người thì vũ trụ không còn hoàn toàn, không thành được vũ trụ nữa. Bởi vì vũ trụ là một đại hòa điệu Tam Tài Thiên, Địa Nhân, nếu mất một yếu tố thì hòa điệu cũng không còn. Xem thế thì con người chiếm một địa vị vô cùng quan trọng trong Trời đất vậy. Nhưng tại sao con người đạt được địa vị ấy? Đó là vì con người được Trời đất sinh ra và ban cho một đức tính rất cao quý, rất thiêng liêng. Ngoài ra con người còn được hấp thụ hoàn toàn cái tinh thần linh diệu và cái khí chất tinh túy của Trời đất, nên con người linh hơn, sáng suốt hơn muôn vật. Chính nhờ cái sáng suốt nầy mà con người phân biệt được điều hay điều dở, lẽ phải lẽ trái, nếu không thì con người cũng sẽ mờ mịt như tất cả sinh vật khác. Cái sáng suốt ấy có sẵn trong mỗi con người và được gọi là trực giác, lương tri, hay minh đức. Trực giác ấy chỉ được bén nhạy khi nào ta giữ cái tâm của mình cho trong sáng, không bị vật dục cám dỗ, không bị ngoại vật chi phối, nghĩa là phải giữ cho tâm hư tĩnh. Tóm lại, ba cây nhang tượng trưng cho Tam Tài là nhằm nhắc lại cái địa vị cao quý của Trời đất người trong vũ trụ, đồng thời cũng nhằm nhắc nhở cho người tín đồ phải luôn cố giữ cái tâm được hư tĩnh để trực giác được mẫn huệ, lương tri sáng suốt hầu cảm được, thấy được cái thiên lý lưu hành khắp vũ trụ. Nếu con người chỉ biết chạy theo vật dục, hưởng thụ cho riêng mình thì trực giác phải mờ tối đi. Vậy người tín đồ phải cố giữ lấy linh tâm, lương tri mà Trời đã phú cho con người thì mới hiệp nhứt được với Trời đất. NGŨ KHÍ: Ngũ khí hay Ngũ hành chi khí là năm yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nhờ năm yếu tố nầy mà vạn vật mới hình thành, sinh trưởng và tồn tại. Ngũ hành được tạo thành là do luân chuyển biến hóa của hai yếu tố Âm Dương. Ông Chu Liêm Khê trong Thái Cực Đồ Thuyết có giảng: Thái Cực có hai thể: Động và tĩnh. Động thì sinh ra Dương, động cực rồi lại tĩnh. Tĩnh thì sinh ra Âm, tĩnh cực rồi lại động. Cứ một động một tĩnh thay đổi nhau, cái nọ lấy cái kia làm gốc chia làm Âm Dương, lập thành hai nghi vậy. Dương động thì biến hóa ra, Âm tĩnh thì đông hợp lại. Bởi sự biến, sự hợp ấy mà sinh ra Ngũ hành là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Năm khí ấy thi ra mà thuận là bốn mùa lưu hành vậy. Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo tại Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947) giải thích như sau: Nói về 5 cây nhang, từ thử Bần Ðạo để cho các Nho gia tự do giảng nghĩa sao thì giảng, còn Bần Ðạo hiểu rõ là Ngũ khí. Chí Tôn dùng Ngũ khí mà biến thành Ngũ hành vận chuyển cả Càn khôn Thế giới, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí. Mùi vị và sanh quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được. Nên chi, khi làm lễ đốt đủ 5 cây hương là đúng theo phép tín ngưỡng là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí Tôn chỉ có người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi, cắt nghĩa rõ rệt ra là Ngũ khí đó vậy. Ðúng hơn nữa là trong Bát Hồn vận chuyển được phải nhờ đến Ngũ khí cùng một ý nghĩa với "Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn".
QUẢ CÀN KHÔNQuả Càn Khôn là một quả cầu tròn, tượng trưng cho hình ảnh Càn khôn Vũ trụ thu nhỏ, trên đó có vẽ hình Thiên Nhãn và các ngôi sao để thờ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế được đặt trong Bát Quái Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh. Còn các Thánh Thất địa phương không thờ Quả Càn Khôn, chỉ vẽ tượng Thiên Nhãn để thờ mà thôi. Theo triết lý Đạo Cao Đài, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là Đấng cai quản Càn khôn, chủ tể Vũ trụ, nên Thiên Nhãn biểu tượng của Đức Chí Tôn được vẽ trên Quả Càn Khôn. Ngài chưởng quản ba ngàn thế giới cùng bảy mươi hai quả địa cầu, nên trên Quả Càn Khôn cũng vẽ đủ 3072 ngôi sao. Lại nữa, Đức Chí Tôn thường tuần du khắp các cõi và mỗi lần ngự xuống trần gian thì ngôi của Ngài ngự ở ngôi sao Bắc Đẩu, nên Thiên Nhãn phải vẽ ngay ngôi sao ấy. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn dạy Ngài Thái Bính Thanh tạo quả Càn Khôn như sau: Bính! Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không? Cười… Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm 3 thước 3 tấc (3m30), nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hoá trong ấy, sơn màu xanh da trời, cung Bắc Ðẩu và Tinh tú vẽ lên Càn Khôn ấy. Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh Tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai (3072) ngôi sao, con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con giở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng? Ðáng lẽ Trái ấy phải bằng chai, đúc trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quý báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó. Nhưng mà làm chẳng kịp thì con tuỳ tiện. Từ ngày Khai đạo năm Bính Dần cho đến ngày nay đã trải qua nhiều lần tái lập Quả Càn Khôn, nhưng lần nào cũng đều lấy Thiên Nhãn cũ đặt lên Quả Càn Khôn mới mà thờ. Điều nầy chính Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức nhân Lễ Khánh Thành Quả Càn Khôn mới, ngày 15 tháng 12 năm Quí Mão (Dl. 29-01-1964), trong bài Thuyết Đạo có nhắc lại sự tích Quả Càn Khôn, xin trích một đoạn như sau: “Thể theo Thánh ý của Ðức Chí Tôn, chư Chức sắc hiệp sức kiến tạo Quả Càn Khôn đầu tiên đặt lên một trụ cốt nơi Bát Quái Đài để cho toàn Đạo sùng bái và chiêm ngưỡng. Sau vì rủi ro, Quả Càn Khôn ấy phát hỏa cháy tiêu hết, duy có Thiên Nhãn thì còn lại y nguyên. Hội Thánh quyết định tạo một quả Càn Khôn khác và đồng ý đặt Thiên Nhãn cũ lên Quả Càn Khôn. Vì sự linh thiêng ấy mà toàn đạo càng thêm tin tưởng và đến khi tu tạo lại Quả Càn Khôn khác, tất cả đều quyết định đặt Thiên Nhãn cũ ấy lên Quả Càn Khôn mới. Ðến nay, Quả Càn Khôn sau cũng vì thời gian mà hư hoại. Hội Thánh quyết định kiến tạo một Quả Càn Khôn khác thay thế. Hội Thánh cũng đồng thanh biểu quyết dành lại Thiên Nhãn cũ đặt lên Quả Càn Khôn mới ngày nay. Ðó là do lòng tín ngưỡng cao cả của toàn Đạo, không ai có quyền phủ nhận.”… Chúng ta thấy Quả Càn Khôn và Thiên Nhãn biểu tượng cho hình thể Đức Chí Tôn tại thế, được thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh, nơi trụ khối đức tin của toàn Đạo, nên rất thiêng liêng, linh hiển. Vì vậy, mỗi lần hạ Quả Càn Khôn cũ là cả một sự biến động, gây nhiều sự bất hòa, rối loạn trong Đạo, cũng như những sự tai ương, biến chuyển, ngoài đời. Đây là một bài thi do Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho cả chúng sanh, sau vụ cháy Quả Càn Khôn năm 1932. Chẳng phải Tây Ninh chịu nạn nghèo, Cuộc đời luân chuyển thế cheo leo. Trời còn đất lỡ tang thương biến, Ruộng rẫy phố phường lộ mốc meo. Sắc tướng âm thinh tua giảm bớt, Mở đường công quả chúng làm theo. Văn chương đâu rõ thông cùng lý, Tận thế hưng vong đã thấy vèo.
CHÁNH MÔNChánh Môn là một cái cửa cổng lớn nhứt trong mười hai cửa ra vào Nội Ô Tòa Thánh, nằm ngay phía trước Đền Thánh là một đại lộ có bề ngang 60 thước, chạy về hướng tây. Con lộ nầy được khởi công mở rộng ngày 25 tháng 3 năm Giáp Dần (Dl. 17/4/1974), Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức có nhắc lại một bài thi của Đức Hộ Pháp sáng tác năm Mậu Tý (1948) như sau: Đại đồng thiên hạ đó đi đây, Tiện mối lưu thông mở lộ nầy. Trước mặt Cao Đài xuyên Đất Việt, Sau lưng tháp ngọc tận Trời Tây. Ngang bằng mặt rộng hai bên rảnh, Lưng thẳng thân to một lối ngay, Trên lộ dưới thuyền du khách ngoạn, Đường về tầm Đạo, động Thiên Thai. (Thơ Hộ Pháp). Việc xây dựng công trình cổng Chánh môn được bắt đầu từ ngày 12 tháng 6 năm Ất Tỵ (Dl. 10/7/1965). Theo thông lệ từ trước, khi xây dựng một công trình nào của Hội Thánh cũng đều do bản vẽ của Đạo, tức do Ban Kiến trúc vẽ. Bản vẻ cổng Chánh môn được Đức Hộ Pháp chỉ dẫn Ban Kiển trúc vẻ vào năm Đinh Hợi có “Bề cao 36 thước, bề ngang 60 thước, cổ kín tam quan, trên nóc đắp mái ngói có hình cổ pháp tam giáo”. Cổng Chánh Môn hiện tại không phải là họa đồ của của Ban Kiến trúc do Đức Hộ Pháp chỉ dẫn, mà là bản vẽ sau này của Ty Kiến Thiết tỉnh Tây Ninh thiết kế, được Hội Thánh chọn để thi công. Nguyên vào năm Ất Tỵ (1965), Thiếu Tướng Lê Văn Tất, con Ngài Đạo Nhơn Lê Văn Trung được Chánh phủ bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Tây Ninh, trong lúc đó Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước, cầm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài. Ông Tỉnh trưởng xin hợp tác với Đạo để xây dựng cổng Chánh môn, Ngài Bảo Thế chấp thuận, giao cho bên Đời lo vật liệu xây cất, còn phần nhân công do công quả thợ hồ Ban Kiến trúc của Đạo. Ông Tỉnh trưởng vận động các mạnh thường quân quanh vùng chợ Long Hoa thì đủ tiền mua vật liệu, Bản họa đồ Chánh môn của Ban Kiến trúc do Đức Hộ Pháp chĩ dẫn vẽ có nhiều ý kiến cho rằng quá cao nên đề nghị Ty Kiến Thiết Tây Ninh vẽ lại họa đồ khác. Bản đồ do Ty Kiến Thiết vẽ cổng Chánh môn chỉ cao có 9 thước, ngang 54 thước, trên ngói đắp hai rồng phò Cổ pháp. Bản thiết kế nầy được Ngài Bảo Thế chấp thuận. Đến khi điều công thợ để xây dựng Chánh môn, Tổng Giám Ban Kiến trúc lúc bây giờ là ông Lê Văn Thế không đồng ý xây dựng theo họa đồ của Ty Kiến Thiết với lý do là không làm theo Bản đồ Đức Hộ Pháp đã dạy trước năm 1947 đến nay, nên ông không chịu bổ công thợ đến làm. Ngài Bảo Thế ra lịnh cho ông Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện là Chơn Nhơn Lê Văn Trung ban Huấn lịnh số 31/HL ngày 10 tháng 5 năm Ất Tỵ thâu quyền chức Tổng Giám của Lê Văn Thế và cử ông Phó Tổng Giám Trần Văn Lành lên thay quyền Cai quản Ban Kiến Trúc, bổ công thợ để xây dựng cổng Chánh môn. Từ đó vị tân Tổng Giám Ban Kiến trúc là Trần Văn Lành đứng ra điều hành công thợ đến xây dựng cổng Chánh môn cho đến khi khánh thành. Sau đây là Huấn từ của Đức Thượng Sanh đọc trong buổi “Lễ Đặt Viên Gạch Đầu Tiên” có đoạn như sau: Ðã bao lâu rồi Hội Thánh có ý định xây cất Chánh môn Tòa Thánh theo sự trù hoạch của Ðức Hộ Pháp từ trước. Nhưng vì tài chánh eo hẹp, lại nữa trong vùng nội ô có nhiều sự kiến trúc và tu bổ cấp bách cần phải lo trước, nên không thể thực hành ý định sớm hơn được. Mãi cho đến ngày hôm nay mới có thể khởi công xây dựng. Theo sự thỏa thuận trước đây giữa Hội Thánh và ông cựu Tỉnh Trưởng thì công cuộc vận động cho có đủ tài chánh mua vật liệu về phần ông cựu Tỉnh Trưởng đảm nhiệm, còn Hội Thánh thì lo về chi phí công thợ. Nhưng ngày 12 tháng sáu Ất Tỵ (nhằm 10/07/1965) thì chánh phủ bổ nhiệm ông Tỉnh Trưởng mới đến thay thế cho ông Lê Văn Tất được lãnh nhiệm vụ khác. Lẽ dĩ nhiên, ông cựu Tỉnh Trưởng không còn lo nhiệm vụ kể trên nữa, và công cuộc xây dựng Chánh môn Tòa Thánh hiện nay đã chính thức trọn vẹn phần Hội Thánh đảm nhiệm về phương diện tài chánh cũng như về phương diện kiến thiết. Từ mấy chục năm qua, đại nghiệp của Ðức Chí Tôn tại thế vẫn được bồi đắp lần hồi do nơi lòng trung thành và chí hy sinh của toàn Ðạo, tức là của Chức sắc và Thiện tín. Ðạo trải qua bao nhiêu nỗi thăng trầm, lướt qua bao phen bão bùng, giông tố gây nên bởi lòng tham hiểm của thế tình, nhưng chánh khí trung can của con cái Ðức Chí Tôn không bao giờ sờn mẻ. Trong những giờ phút khó khăn, điên đảo; trong những hồi đen tối khuynh nguy, nếu vạn đắc dĩ, Hội Thánh phải để lời kêu gọi thì nhân sanh trong cửa Ðạo sẵn sàng hưởng ứng kẻ của người công xúm nhau đem khối nhiệt thành điểm tô cho cơ nghiệp Ðạo. Ðó chính là một tinh thần phục vụ cao siêu mà cũng là cái năng lực hữu hiệu của Thiêng Liêng đã mầu nhiệm dành sẳn cho Thánh Thể Ðức Chí Tôn tại thế. Cái tinh thần đó bất diệt cũng như cái năng lực đó vẫn mãi trường tồn và luôn luôn chực sẵn để phụng sự cho chánh nghĩa, nâng đỡ cho lẽ phải và giúp nên cho những bậc lãnh đạo chơn chánh, thiết tha hoài bão xây dựng cho nền Chánh giáo.
CHỢ LONG HOAChợ Long Hoa, còn gọi là “Long Hoa Thị 龍 花 市”, là một ngôi chợ của đạo Cao Đài do Đức Hộ Pháp lập ra, cũng là một ngôi chợ lớn nhứt trong tỉnh Tây Ninh, nằm về phía Nam và cách Tòa Thánh khoảng hơn một cây số. Trước đây, Hội Thánh có lập ngôi chợ nhỏ đầu tiên, gồm bốn cánh nhà lồng, thường được gọi là Chợ cũ Long Hoa, nằm giữa Báo Quốc Từ và khu chợ Long Hoa mới hơn hai trăm mét, khi ấy dân số theo Đạo sống quanh vùng còn ít ỏi. Vào năm 1952, do tình hình chiến tranh, giặc giã khắp mọi nơi, số người không theo Cao Đài ở khắp nơi phải rời bỏ xứ sở, nhà cửa chạy về sinh sống trong vùng Thánh địa dưới sự che chở bảo vệ của Đạo, ngoài ra còn một số đông tín đồ Cao Đài muốn về vùng Thánh Địa sinh sống, nên từ khắp các tỉnh đổ dồn về lập nghiệp càng ngày càng đông. Vì vậy, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc mới chọn khu rừng 47 mẫu cách Chợ cũ hơn hai trăm thước để thành lập ngôi chợ Long Hoa theo bản họa đồ của Ngài vẽ, rồi giao cho Ban Kiến Trúc ở Tòa Thánh xây cất để tín đồ Cao Đài có nơi buôn bán làm ăn. Vào thời điểm đó, khu vực nầy còn là vùng rừng rú, cây cối, gò mối hoang dã, um tùm, rậm rạp và có nhiều loài thú rừng như nai, mển, thỏ, heo rừng,… Kiểu Chợ Long Hoa theo bản vẽ Đức Hộ Pháp gồm có bốn ngôi nhà lồng hình chữ thập, giữa xây một bùng binh rộng, nằm trên lô mặt bằng vuông vức, chung quanh có tám cửa, hướng Chợ ra tám con đường, mang ý nghĩa là Thái Cực sanh Lưỡng Nghi (Âm Dương), Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng; Tứ Tượng sanh Bát Quái; Bát Quái sanh ra Càn Khôn Vũ Trụ, vạn vật. Nếu từ trên phi cơ nhìn xuống khu chợ Long Hoa thì giống như một Bát Quái Đồ. Theo Thừa Sử Phan Hữu Phước, lễ khởi công xây Chợ Long Hoa là ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Thìn, có mặt các vị sau đây: - Nhà bác vật Lưu văn Lang. - Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. - Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng - Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương. - Thừa Sử Phan Hữu Phước. - Tổng Giám Ban Kiến Trúc Võ văn Khuê. - Trưởng Tộc Phạm Môn Phạm văn Út. - Và Ban nhiếp ảnh Tòa Thánh. Đức Hộ Pháp có hỏi Bác vật Lưu Văn Lang về đia cuộc nơi định cất chợ như thế nào thì Bác vật Lang trả lời: “Ngài định chỗ thật tốt, có thể Ngài đã biết trước nên mới định chỗ đúng ngay mạch nước Bát Long Dẫn Thủy, lại có Tứ Hổ Phục Triều. Địa cuộc nầy có nhiều sanh khí, sau nầy Long Hoa Thị sung túc, trở nên kỳ quan ở Đất Thánh. Nếu giữa nhà lồng chợ được lấy nước fontaine (từ dưới đất lên) thì đủ sức xài vì mạch nước lớn và tốt”. Các cửa chánh chợ Long Hoa gồm: Cửa Một phía Bắc chạy về hướng Tòa Thánh, cửa Ba phía Tây chạy về hướng chùa Gò Kén, sông Tây Ninh, cửa Năm phía Nam chạy về vùng Giang Tân hướng về Sài gòn, cửa Bảy phía Đông chạy về Trí Huệ Cung. Tám cửa mang ý nghĩa Bát Quái Đồ Thiên. Khi Hộ Pháp đặt tên chợ là “Long Hoa”, ý Đức Ngài muốn chỉ thời kỳ khai mở Hội Long Hoa, do Đức Di Lạc Vương làm Chủ khảo, và là kỳ thi phán xét cuối cùng trong thời Hạ Ngươn để tuyển phong Phật vị. Theo bản đồ lúc mới xây dựng, Đức Hộ Pháp dạy xây dựng tại góc trái Báo Quốc Từ một tiệm chụp hình hiệu là “Xuân Dung”, thuộc quyền quản trị của Hội Thánh, để dạy nghệ thuật nhiếp ảnh cho con cái nhà Đạo và lấy tiền gây quỹ cho Viện Cô Nhi. Tên hiệu “Xuân Dung” của tiệm chụp hình là do Đức Hộ Pháp đặt và Đức Ngài lúc ấy còn tặng cho hai câu thi như sau: DUNG nghi ví muốn còn XUÂN mãi, Đừng để rụng răng mới chụp hình. Thời gian đầu mới cất chợ Long Hoa, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc có dạy hai ông Phạm Văn Út và Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương lo xây cất hai mươi cái Bar dọc theo hai bên đường ở cửa Một, chạy dài về Báo Quốc Từ, mỗi cái hai tầng, vuông mỗi bề 4 mét, bốn mặt đều bằng kiếng xinh đẹp, đặt cách xa nhau chuyên để bán đồ chơi trẻ em, bông hoa, trái cây…v.v... Các bar nầy dành cho người nghèo có nơi mua bán sinh sống, hoặc gia đình Chức sắc, tín đồ đang hiến thân công quả nhà nghèo được giúp đở sinh sống qua ngày. Khi bớt khổ, giao lại cho người nghèo khác. Cứ tiếp nối như vậy. Hội Thánh cấm tuyệt không được mua bán, sang nhượng hay lưu giữ lâu dài tài sản nầy. Trong dịp Khánh thành Chợ cũ Long Hoa ngày 5 tháng 6 năm Tân Mão (1951), Đức Hộ Pháp Ban Phép Lành và Trấn Thần ngôi chợ, Ngài có nói rằng: Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ Chuyển Thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy. Sau đó trong cuộc lễ Khánh thành Văn Phòng Ban Quản Trị Long Hoa Thị, Đức Hộ Pháp cũng có nhắc đến Chợ Long Hoa như sau: Hôm nay sau chỉ có hai năm Qua còn nhớ lại, khi Qua ra khỏi nhà Tịnh Trí Huệ Cung, về nơi đây Qua ban phép lành nơi Chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm Chợ Long Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho tới tháng 7 này thật ra chỉ có 2 năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có gì mấy em làm không đặng, Qua vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần hoạt bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.
BÁO QUỐC TỪBáo Quốc Từ 報 國 祠 là Đền thờ những vị có công lớn với Quốc gia và dân tộc Việt Nam. Báo Quốc Từ được Đức Hộ Pháp cho xây dựng vào ngày 01 tháng 01 năm 1955 cách cửa Bắc Chợ Long Hoa hơn hai trăm thước, nằm giữa Đại lộ từ Toà Thánh đến chợ Long Hoa. Nếu du khách viếng Tòa Thánh muốn đến Chợ Long Hoa thì phải đi ngang Báo Quốc Từ, một ngôi Đền uy nghiêm và lộng lẫy nằm trên trục giao thông được gọi là “Lộ Báo Quốc Từ”. Ngôi Báo Quốc Từ nầy được xây dựng theo hình lục giác đều, hai mặt trước sau có cổng, quay dọc theo chiều lộ, trước mỗi cổng đều có đắp nổi bằng chữ Nho vào hai trụ cổng đôi liễn như sau: 保 守 基 圖 英 雄 揚 氣 魄 Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách. 護 持 國 運 志 士 顯 威 靈 Hộ trì Quốc vận chí sĩ hiển uy linh. Dịch nghĩa: Bảo thủ cơ đồ, người anh hùng nêu cao khí phách, Hộ trì vận nước, người chí sĩ hiển lộ oai linh. Đôi liễn trên do Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức thuộc chức sắc Hiệp Thiên Đài chi Pháp đặt ra. Bên trong Báo Quốc Từ, nơi chánh điện có một bài vị viết bằng chữ Nho ở giữa hàng chữ lớn: “Hùng Vương Quân Chi Thuỷ 雄 王 君 之 始” để thờ Quốc Tổ Hùng Vương. Hàng bên phải “Cứu Quốc Công Thần 救 國 功 臣”, để tôn vinh những bậc có công với Đất nước. Và hàng bên trái là “Chiến Sĩ Trận Vong 戰 士 陣 亡” để thờ các chiến sĩ tử trận vì quốc gia dân tộc. Ngoài ra, nơi Bàn thờ còn có các linh vị sơn son thếp vàng đề tên của các vị vua nhà Nguyễn có tinh thần yêu nước, chống Pháp đô hộ như: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân và nhà cách mạng Cường Để. Hai bên Chánh điện có trang trí lỗ bộ và lọng tàn. Phía sau bàn thờ có đề tám chữ Nho: “救 國 功 臣 戰 士 陣 亡 Cứu Quốc Công Thần Chiến Sĩ Trận Vong”. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch, ngày Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh cùng toàn Đạo có thiết tại Báo Quốc Từ “Lễ Kỷ Niệm Quốc Tổ Hùng Vương”. Trong buổi Lễ Khánh Thành Báo Quốc Từ ngày 16 tháng 8 năm Ất Mùi (Dl. 01/10/1955), Đức Hộ Pháp có nói: “Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng: Đạo đã xu hướng theo thuyết "Bảo Hoàng" mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng trung quân ái quốc của xã hội Việt Nam mà thôi. Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy. Tưởng niệm tới Lễ ấy, nên Hội Thánh mới quyết định lập Báo Quốc Từ thờ trọn cả các Vong Linh của các Anh Hùng Chiến Sĩ, Cứu Quốc Công Thần cùng là Trận Vong Chiến Sĩ”… “Hôm nay các anh linh chư vị anh hùng tiền bối và hậu bối đang ngự trị trong khối Quốc hồn của ta và đang vơ vẫn bên ta. Giờ phút Thiêng Liêng nầy. Bần Đạo xin cả các Ngài hiệp tâm làm một cùng Bần Đạo thành một khối tưởng niệm duy nhứt đặng cầu xin các Đấng ấy giúp cho nòi giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt nhục tương tàn đặng đem hạnh phúc hòa bình lại cho nước nhà và cho toàn thiên hạ”. Huấn từ của Đức Thượng Sanh trong Lễ Khánh Thành “Vuông Rào Báo Quốc Từ” có nói: Trên vùng Thánh Ðịa nầy, hôm nay Ðời và Ðạo đã gặp nhau và thông cảm nhau trong dịp tỏ lòng tôn kính và sùng bái những nhơn vật trong hàng vương giả, đã lấy chủ nghĩa quốc gia dân tộc làm chuẩn đích, đem thân thế điểm tô cho non sông Việt chủng được vững bền trên cõi Á Ðông, lắm khi phải trọn đời hy sinh vì giống nòi Hồng Lạc. Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một nền Quốc Ðạo được sáng lập trên đất Nam Phần Việt Nam, nơi mà tinh ba của đất nước đã nung đúc biết bao bậc anh phong chí sĩ, lẽ tất nhiên là Ðại Ðạo có phận sự bảo tồn quốc túy, giữ cho còn mãi những cái hay, cái đẹp riêng biệt của nước nhà hầu lưu truyền cho đời sau roi dấu. Trong những cái hay, cái đẹp đó đáng treo gương nhất là tinh thần vị quốc xả thân dầu đến thác cũng không đổi dời tiết tháo. Vì muốn tôn thờ cái tinh thần vị quốc ái dân đó, Ðức Hộ Pháp mới có sáng kiến xây dựng ngôi Báo Quốc Từ để làm nơi hương hỏa phụng tự cho các Ðấng Tiên Vương và các nhà tôn thất có dày công với Tổ Quốc Việt Nam. Cái sáng kiến của Ðức Hộ Pháp do nơi lòng ái quốc chơn chính của Ðức Ngài, đã làm cho toàn Ðạo vui lòng và mãn nguyện. Ngày nay Hội Thánh tiếp tục gìn giữ dấu tích của Ðức Ngài và tô điểm cho nó còn vẻ uy nghiêm mãi mãi. Tuy nói rằng ngôi Báo Quốc Từ để tôn thờ những bậc vương giả hữu công với đất nước, nhưng nước Việt Nam đã thoát vòng lệ thuộc và chính thể hiện tại là chính thể Cộng Hòa thì từ đây ngôi miếu nầy sẽ dành chung để chiêm bái những vị lãnh đạo Quốc gia như Quốc Trưởng, Thủ Tướng chẳng hạn, đã hy sinh vì Tổ Quốc, đã có công đổi loạn ra trị, xây dựng thái bình cho nhơn sanh được hưởng an cư lạc nghiệp. Ðó là những đấng Phụ Mẫu chi dân thật xứng đáng những ân nhân ngàn đời của dân tộc Việt Nam vậy. Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước trong dịp trùng tu xây hàng rào ngôi Báo Quốc Từ ngày 20 tháng 10 năm Bính Ngọ (Dl. 01/12/1966) có đọc bài Diễn Văn và được trích một đoạn như sau: Để tô điểm cho Báo Quốc Từ được thêm vẻ tôn nghiêm, nhiều phần tử ưu tú trong vùng Long Hoa đã hoan hỷ chung lo xây dựng bức rào chung quanh ngôi thờ Tiền Nhân Vị Quốc Vong Thân. Ấy là một hành tàng đáng khen ngợi vầ phần vật chất và đáng chú ý về mặt tinh thần là ngộ khi quốc biến gia vong, chẳng luận là người thuộc giới Đạo hay Đời, phải đồng tình làm tròn bổn phận công dân đặng giải nguy cho dân tộc, cho thủy thổ.Chúng ta nên lưu ý rằng không phương mầu nào hơn phương pháp áp dụng đạo đức nghĩa nhân để thức tỉnh thiên hạ quy về chánh pháp của Thiên Thượng thì dầu muốn dầu không khi “Thời lai vận khứ”, thanh bình sẽ phục hưng tạo lại một đời mới với dân mới trong an cư lạc nghiệp. Mong thay!
QUYỀN THIÊNG LIÊNG ĐỊNH PHẬNNăm 1928, trong lúc Cao Thượng Phẩm lo xây dựng các cơ sở Ðạo trong khu Nội Ô Tòa Thánh, Ngài bị bọn người xấu vu cáo Ngài đục tủ hành hương lấy tiền của Ðạo bỏ túi riêng, rồi nhóm côn đồ ở Chợ Lớn dưới quyền của Ông Nguyễn Phát Trước, tục gọi là Tư Mắt kéo về Tòa Thánh, dùng bạo lực xua đuổi Ðức Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm ra khỏi Toà Thánh. Đức Cao Thượng Phẩm phải trở về đất nhà của Bà Tư Hương Hiếu, bạn đời của Ngài ở xã Hiệp Ninh, thuộc Tây Ninh cất lên một ngôi nhà tranh để an dưỡng và tiếp tục tu hành. Nơi đây các Đấng thường hay giáng cơ an ủi Ngài, vào ngày 12 tháng 6 năm Mậu Thìn (Dl. 28/7/1928), Thất Nương Diêu Trì Cung giáng cơ đặt tên cho ngôi nhà tranh là “Thảo Xá Hiền Cung” và cho đôi liễn như sau: Thảo Xá tùy nhơn, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất, 草 舍 隨 人, 愚 昧 貧 窮 迎 入 室 Hiền Cung trạch khách, thông minh phú quí cấm lai môn. 賢 宮 擇 客, 聰 明 富 貴 禁 來 門 Nghĩa là: Thảo xá tùy theo người, người ngu muội và nghèo hèn thì đón tiếp vào nhà. Hiền cung chọn khách, người thông minh và giàu sang thì cấm đến cửa. Còn Đức Hộ Pháp đang phân vân, không biết phải đi đâu. Ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh mới đề nghị Ngài xuống Thánh Thất Thủ Đức tạm lánh một thời gian, vì đó là ngôi Thánh Thất do ông tạo. Đức Hộ Pháp nghĩ cũng tạm được, nên cùng hai người Cao Miên là ông Inh và ông Lễ Sanh Thái Chia Thanh (sau ông Chia đắc phong Phối Sư) lo thu dọn đồ đạc, rồi ba người rời Tây Ninh đến Thánh Thất Thủ Đức. Khi đến Thánh Thánh Thủ Đức, Ngài không có việc gì để làm cả, hằng ngày chỉ cúng tứ thời mà thôi. Ở đó được một thời gian Ban Cai Quản Thánh Thất đã không tôn trọng Ngài mà càng ngày càng tỏ vẻ xem thường Đức Ngài. Thấy vậy, Ngài chán ngán cho tình đời, quyết định phải ra đi. Một hôm Đức Hộ Pháp đến nhà ông Thái Thơ Thanh chơi, ông Thơ biết ý Ban Cai Quản muốn đuổi xô Đức Ngài, nên mới ngỏ ý Ngài về vườn cao su của ông làm việc. Đức Hộ Pháp thấy không tiện nên từ chối, Ngài quyết định phải ra đi, vì thấy nơi nầy không xứng đáng cho Ngài ở. Ngài có ý định đến nhà của một người bạn ở Gò Công là ông Hội Đồng Quản, cũng là người bà con cô cậu với Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. Trước khi rời Thủ Đức, Ngài nhờ hai người Miên đến nhà ông Hội Đồng Quản hỏi trước, rồi Ngài sẽ đến sau. Nhưng quyền Thiêng liêng đã định từ trước khiến cho Đức Hộ Pháp không đi Gò Công được. Nguyên vào năm 1927, vâng lịnh Đức Phật mẫu, Hộ Pháp cùng với Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu đến làng Phú Mỹ thuộc tỉnh Mỹ Tho tìm mua một miếng đất lập một trang trại, trong đó cất một Thánh Thất, đặt tên là Khổ Hiền Trang, rồi giao cho Giáo Hữu Thượng Minh Thanh làm chủ (Sau nầy Thượng Minh Thanh được thăng lên phẩm Giáo Sư, nên thường được gọi là Giáo Sư Cậu). Ông Giáo Hữu Minh nghe tin Đức Hộ Pháp bị đuổi khỏi Tòa Thánh lên Sài Gòn, nên ông từ Phú Mỹ lên Sai Gòn để đón Ngài, nhưng không gặp vì Ngài đi Thủ Đức. Ông bèn tức tốc qua Thủ Đức tìm thì gặp Đức Hộ Pháp đang định đi Gò Công. Rõ ràng Thiên cơ huyền diệu định cho Đức Hộ Pháp phải về Khổ Hiền Trang để lãnh hai nhiệm vụ nặng nề và quan trọng sau nầy: Thứ nhứt, tiếp nhận Minh Thiện Đàn là tiền thân của cơ quan Phạm Môn (Phước Thiện), sau đó Ngài hành pháp cân thần và lập Hồng thệ thọ Đào viên Pháp. Thức nhì, vào năm 1930, Ngài hiệp cùng với quý vị trong Minh Thiện Đàn đi giải ếm Long Tuyền Kiếm, do Bát Nương Diêu Trì Cung mách bảo và Lỗ Ban Tiên Sư chỉ dẫn. Khi Ngài đến Thánh Thất Phú Mỹ, ngay từ đầu đường các tín đồ cũng như các người ngoại đạo hiếu kỳ, nghe tin Đức Hộ Pháp đến, họ chen nhau ra tiếp đón để được thấy mặt Ngài. Đức Hộ Pháp đến Thánh Thất Khổ Hiền Trang thì nơi đây được sắp đặt trang nghiêm chỗ thờ phượng, bổn đạo đến cúng kiếng đông đảo. Có khi cúng Đức Chí Tôn xong Ngài thuyết đạo, hoặc cầu cơ, nếu có người bịnh yêu cầu, Ngài hành pháp giải bịnh, nhứt là Ngài thường xuyên dạy dỗ nhơn sanh vùng nầy. Thánh Thất Khổ Hiền Trang trở nên nhộn nhịp cả ngày lẫn đêm, kéo dài gần hai năm, cho đến khi Ngài nghe tin Đức Cao Thượng Phẩm bệnh nặng, Ngài buộc phải về Tây Ninh. Ở tại Thánh Thất Thủ Đức, Ngài cảm thấy bổn đạo không gần gũi và thân thiện, khi đến Phú Mỹ, Ngài nhận thấy nơi đây mọi người tôn kính và đặt trọn vẹn đức tin nơi Ngài, nên Ngài có lần nói rằng: “Thủ Đức không biết xài ngọc, nên Qua đem ngọc đi. Còn Phú Mỹ biết xài ngọc, nên Qua đem ngọc ban cho”. Đức Ngài còn kể lại: “Lúc Qua rời khỏi Thủ Đức có làm một bài thi dán tại văn phòng Thánh Thất (1928)”. Bài thi đó như sau: Thắng khổ người tu vẫn để lòng, Ta thua Thủ Đức phải đành dông. Buồn chưa giỏi đứng trên đầu Rắn, Vui đã phân minh chí khí Rồng. Chẳng kể vịt gà chê tiếng Phụng, Chỉ phiền hồng hộc ghét đuôi Công. Mở kho nuôi đói đây trề miệng, Ta quảy hồng ân rải giáp vòng.
PHỦ TỪPhủ Từ 府 祠, hay Phủ Thờ, là ngôi nhà chung dùng làm nơi thờ phụng tổ tiên của một dòng họ. Những tín đồ đạo Cao Đài cư ngụ tại Châu Thành Thánh Địa thuộc Tòa Thánh Tây Ninh cùng một Tông tộc, bất kể nam nữ đều hợp chung nhau để mua mảnh đất cất một ngôi thờ tổ tiên dòng họ của mình, gọi là “Phủ Từ”. Tại chung quanh Châu Thành Thánh Địa hiện nay đã xây dựng được rất nhiều Phủ Từ, như: Phạm Phủ Từ, Lê Phủ Từ, Bùi Phủ Từ, Huỳnh Phủ Từ, Hồ Phủ Từ, Phan Phủ Từ, Võ Phủ Từ, Trương Phủ Từ..v..v Sở dĩ nhiều Họ tạo Phủ Từ là do lời phê ngày 14 tháng 9 năm Mậu Tý (Dl. 16/10/1948) của Đức Hộ Pháp như sau: “Mấy em trong cửa Phạm Môn là tông tộc của Phật, tức là tông tộc thiêng liêng. Qua tạo làm kiểu mẫu cho mấy em tạo tông tộc phàm trần, nghĩa là gồm chung bá tánh chung hiệp mỗi họ , hầu lo bảo trọng đạo đức và sanh sống cùng nhau, ấy là quyền sở hữu của mấy em về phần đời, không liên can gì đến đạo, phòng định luật pháp Phải lo tạo Tổ đường của mỗi họ, rồi tình nguyện bắt thăm, đặng định trật tự lớn nhỏ của các gia đình. Tổ đình là hương hỏa của Chí Tôn, gắng sức làm cho thành tựu đặng nương nhau mà sống và duy trì kiếng họ”. Về việc tạo dựng Phủ Từ, Đức Hộ Pháp có dạy như sau: Mỗi họ nên lập một Phủ Thờ. Đó là chơn truyền Nho Tông mà Đạo Cao Đài phô bày để làm nền tảng hình ảnh. Ngài nói: Đức Giáo Tông mỗi năm sẽ nhóm họp với các vị Chưởng Phủ mỗi họ một lần, để nghe báo cáo các sinh hoạt chung của từng Họ, mỗi Họ sẽ tường trình và yêu sách đến Ngài. Sau đó tùy theo sở hành của từng Họ mà Ngài ban lời phủ dụ, chỉ dạy thêm hoặc có chính sách phù hạp riêng cho từng Họ, đồng thời tìm cách hỗ trợ về mặt tinh thần hay vật chất, nếu Họ đó cần thiết đặc biệt hơn các Họ khác. Nhân tiện bên cạnh đó, Đức Ngài (Giáo Tông) có cơ hội nhận những hồ sơ bị hàm oan mà tất cả các cấp trên che dấu, áp bức khiến người của nhà Họ đó không phương bào chữa, được Ngài cứu xét, bênh vực. Lúc đó với tư cách là một người anh cả thương yêu đàn em nhỏ, chứ không phải là tư cách của một Giáo Tông quyền hành, nên Ngài có quyền tự mình giải quyết vấn đề, trường hợp mà Ngài nhận thấy đúng, Ngài dễ quyết bởi không qua đường hành chánh. Đức Ngài trực tiếp với nhà Họ, để phát hiện những điều bất công mà người tín đồ nào đó chịu đựng, tất cả sẽ phơi bày trước mặt Ngài, không ai qua mắt được Ngài, những đứa em út nhỏ nhoi bị khổ não sẽ được Đức Ngài sắp xếp để Ngài đến tận nơi, tận chỗ mà trả lại sự công bằng. Đây là một điều hết sức hệ trọng trong cửa đạo Cao Đài, nó hay ho vô cùng. Nó giúp cho kẻ dưới không hề sợ bị đàn anh chức sắc lớn ỷ quyền dấu che, áp bức. Đâu phải vậy thôi, Đức Ngài có quyền kêu gọi kiến Họ giàu, đông đảo lớn mạnh lớn mạnh giúp cho kiến Họ nghèo ít oi nữa mà chớ. Người sanh ra nơi mặt thế, có hàng ngàn Họ, mà tự thấy mình không bơ vơ, khổ não vì mình có dòng họ bảo trợ, Họ của mình tức là Phủ Thờ, là nơi mình đặt niềm tin, để tìm kiếm mà cùng đoàn kết sống. Thật là một mối an nguy mà chỉ có anh cả Giáo Tông sẽ làm gạch nối trăm Họ bình yên. Đức Hộ Pháp còn dạy thêm: Việc tổ chức nhà Họ là một bí pháp của Nho giáo để bảo tồn luân lý cang thường, phong hóa và nhân phẩm trong công cuộc trị thế, vì dân Trung Hoa làm mất đi nên sinh ra loạn lạc. Do đó mới bị Thiên điều hành phạt buổi nọ. đó là Phong Thần bảng đó vậy. Nay Đức Chí Tôn gầy dựng lại đem giao cho dân tộc Việt Nam. Mấy em nghĩ coi, có một đứa mang Họ mình làm nên việc lớn thì rạng rỡ Tông môn. Còn ngược lại, có đứa mang Họ mình hoặc nghèo khổ hoặc làm tội tình chi đó thì cảm thấy xấu hổ, nên dòng Họ đó không dễ gì bỏ rơi đâu, họ tìm cách đem về bảo bộc, giúp đỡ hoặc dạy dỗ cho nên người đạo đức, xứng đáng với truyền thống ông bà chớ. Không có Họ nào bỏ rơi con cháu mình đâu, họ sợ Họ khác chê cười rằng mình thiếu phận lắm, hơn nữa họ cũng sợ Đức Giáo Tông khiển trách.
BÁO ÂN TỪNguyên vào năm 1928, tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, Đức Diêu Trì Kim Mẫu có giáng cơ ban cho một bài thi và dạy phải lập Đền thờ Phật Mẫu và cất một ngôi Thảo Đường trong vuông đất đó. Bài thi Thảo Đường như sau: Thảo Đường phước địa ngộ tùng hoa, Lục ức dư niên vũ trụ hoà. Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp, Thế đăng Bồng đảo định âu ca. Nghĩa là: Ngôi Thảo Đường cất nơi phước địa, gặp mối Đạo trời mới mở ra. Hơn sáu trăm ngàn năm, vũ trụ được yên ổn và hòa bình. Nơi phàm gian nhơn loại cùng nhau hưởng cảnh an cư lạc nghiệp. Cõi thế như cõi Tiên, con người đều được sống thanh bình thịnh vượng. Sau đó, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho đôi liễn tại Thảo Đường: THẢO thượng sương phi tiện thị thiên ba chi thắng cảnh. 草 上 霜 飛 便 是 天 波 之 勝 景 ĐƯỜNG tiền nguyệt chiếu thậm quang địa thới thị đăng tiên. 堂 前 月 照 甚 光 地 泰 是 登 仙 Nghĩa là: Trên cỏ sương bay tựa như sóng trời, ấy là cảnh đẹp, Trước nhà trăng chiếu sáng trên đất thới, nơi lên Tiên cảnh. Vào thời ấy, ông Đinh Công Trứ là chủ trưởng Minh Thiện Đàn do Đức Lý Giáo Tông thành lập năm 1928. Đến năm 1929, Đức Lý Giáo Tông dạy bàn giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp cai quản. Theo lời dạy của Đức Phật Mẫu, tại làng Phú Mỹ phải lập một Thánh Thất, gọi là Thánh Thất Khổ Hiền Trang, một Sở Thảo Đường trong đó cất một Đền Thờ Phật Mẫu. Do đó, Đức Hộ Pháp bèn giao cho ông Đinh Công Trứ lập Bàn thờ Phật Mẫu nơi sở Thảo Đường. Do chiến tranh. giặc giã khắp nơi, trong khoảng thời gian 1943 đến năm 1945, ông Trứ cùng các bạn Đạo trong Minh Thiện Đàn, phải rời khỏi làng Phú Mỹ tản cư về Tây Ninh lập ra Trường Quy Thiện, Trí Giác Cung, rồi xây dựng Đền Thờ Phật Mẫu trong đó. Đây là nơi thờ Đức Phật Mẫu đầu tiên hết. Như chúng ta biết, từ khi mới khai Đạo 1926 cho đến năm 1946, Nội Tòa Thánh chưa có Đền Thờ Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp mới mượn ngôi Báo Ân Từ để tạm thờ Phật Mẫu. Nguyên ngôi Báo Ân Từ trước đây là một Đền thờ do Đức Hộ Pháp cho xây dựng tại Nội Ô Tòa Thánh để thờ các bậc Tiền bối có đại công với Đạo và các bậc vĩ nhân có công với đất nước hay nhân loại. Đền thờ nầy Đức Hộ Pháp nhờ công quả Phạm Môn dở ba căn nhà sở là Sở Dưỡng Lão, Sở Nữ Công Nghệ và Sở Trường Hòa làm bằng cây ván, đem cất thành một ngôi thờ cạnh Hộ Pháp Đường, dùng làm Báo Ân Từ. Phía trước ngôi thờ có dựng một cái cổng lớn, hai bên có đôi liễn khoán thủ hai chữ “Báo Ân”, giải thích ý nghĩa của Báo Ân Từ: 報 得 聖 名 香 火 千 秋 奉 祀 Báo đắc thánh danh hương hỏa thiên thu phụng tự 恩 遺 世 代 威 靈 萬 古 留 存 Ân di thế đại uy linh vạn cổ lưu tồn. Nghĩa là: Báo đáp các bậc Thánh, lửa hương ngàn năm thờ phụng Ân sâu lưu lại đời đời, oai linh muôn thuở tồn tại. Vào năm 1933, Hội Thánh khởi công xây dựng ngôi Đền Thánh bằng vật liệu nặng với bê tông cốt sắt, nên ngôi thờ cũ bằng cây ván được dở bỏ và quả Càn Khôi dời về tạm thờ tại Báo Ân Từ. Đến năm 1946, Đức Hộ Pháp từ Hải đảo Madagascar trở về, Ngài mới tổ chức cuộc lễ long trọng, có sự tham dự của Chức sắc lưỡng đài cùng toàn thể chức sắc và tín đố để rước Linh vị Phật Mẫu từ Trí Giác Cung về Tòa Thánh. Lộ trình đưa Linh vị Đức Phật Mẫu từ Trí Giác Cung Địa Linh Động theo đường Bàu Sen qua Sân Cu rồi vô Tòa Thánh. Linh vị của Đức Phật Mẫu rước về được thờ tạm tại “Khách Thiện Từ”, một ngôi nhà do Hộ Pháp cho làm bằng cây ván lợp tranh nằm trên khoảng đất trống sau cơ quan Hiệp Thiên Đài hiện nay. Đến năm 1947, sau khi Hội Thánh xây dựng xong ngôi Đền Thánh và dời Quả Càn Khôn tại Báo Ân Từ về Đền Thánh thờ tại Bát Quái Đài, thì Linh vị của Đức Phật Mẫu một lần nữa được làm lễ long trọng, có Hội Thánh lưỡng đài và chức sắc tín đồ tham dự đông đảo để rước từ “Khách Thiện Từ” về Báo Ân Từ thờ cho đến ngày nay. Vì thế, Đền Thờ Phật Mẫu tại Nội Ô Tòa Thánh, được Đức Hộ Pháp dùng ngôi Báo Ân Từ tạm thờ Đức Phật Mẫu, nên Đền Thờ nầy còn gọi là “BÁO ÂN TỪ”.
THẠCH SÙNG VƯƠNG KHẢIThạch Sùng 石 崇 người đời Tây Tấn, tên chữ là Quý Luân, hiệu là Tề Nô, ông có tư chất thông minh, nhiều mưu trí ngay từ thuở nhỏ. Cha ông là Thạch Bào, lúc gần chết, chia gia tài cho các con thì Thạch Sùng được phần ít nhất. Bà vợ thấy vậy hỏi chồng: Tại sao không chia đều cho các con? Thạch Bào đáp: Tuy bây giờ chia cho nó ít, nhưng ngày sau nó sẽ giàu hơn mấy đứa kia gấp bội. Năm 20 tuổi, Thạch Sùng nhờ tài năng nên được bổ làm quan lệnh Tu Vũ, rồi sau đổi ra làm Thái thú Thành Dương. Đến đời Tấn Vũ Đế, Thạch Sùng làm Thứ sử Kinh Châu, kiêm chức Hiệu úy Nam man. Nhờ tư thông với giặc cướp, cướp của những người đi buôn, nên chẳng bao lâu, Thạch Sùng trở nên đại phú. Thạch Sùng cất một biệt thự rất tráng lệ ở Lũng Kim Cốc dành cho người thiếp yêu, xinh đẹp là Lục Châu ở và cùng với các bạn là Vương Khải, Dương Tú thường hội họp tại đây để ăn uống, chơi bời xa xỉ, nổi tiếng là nhân vật giàu có nhứt đương thời. Trong triều thời bấy giớ có vị Tướng quốc là Tư Mã Luân tin dùng một gia thần là Tôn Tú. Tôn Tú nghe nói Thạch Sùng có nàng ái cơ tên là Lục Châu nhan sắc xinh đẹp, lại thêm cầm kỳ thi họa, giỏi múa hát, được Thạch Sùng yêu mến, để ở riêng trên lầu Kim Cốc. Tôn Tú bèn sai sứ đến gặp Thạch Sùng nói: Quan Thị Trung xin ngài đưa Lục Châu tôi rước về dâng cho Tướng quốc. Thạch Sùng bảo: Không được, Lục Châu là ái cơ của ta, dẫu thế nào cũng không cho bắt. Sứ phải trở về báo lại với Tôn Tú. Tôn Tú nghe qua cả giận, bèn vào bẩm với Tư Mã Luân: Thạch Sùng, Phan Nhạc có ý phản, ỷ thế giàu có âm mưu làm loạn, nếu bây giờ không trừ, sau hối không kịp. Tư Mã Luân nói: Nếu thế thì cứ bắt nó giết đi. Tôn Tú được lệnh, đem 200 quân đến vây nhà Thạch Sùng vào bắt nàng Lục Châu. Lục Châu nhảy từ lầu cao xuống đất tự tử, không chịu về với Tôn Tú. Rồi quân lính bắt Thạch Sùng giải đến pháp trường xử tử. Thạch Sùng bị chém chết, gia sản bị tịch thu. Năm đó ông 52 tuổi. Tương truyền, Thạch Sùng sau khi bị giết chết hoá ra con thằn lằn (thạch sùng), vì tiếc của, nên suốt ngày cứ chắc lưỡi. Thời bấy giờ ở đất Đông Hải có Vương Khải 王 愷, làm quan đến chức Hậu Tướng quân, có người chị làm Hoàng Hậu, nổi tiếng là giàu có, xa xỉ cũng vào bậc nhứt, thường cùng Thạch Sùng trang sức nhà cửa rất sang trọng và ăn mặc cực kỳ xài phí. Thạch Sùng và Vương Khải thường bày trò thi của. Thạch Sùng nghe nói Vương Khải lấy mật rửa chảo, Thạch Sùng bèn ra lịnh cho đầy tớ dùng nến đốt lửa thay củi. Việc nầy truyền đi, ai cũng nói Thạch Sùng và Vương Khải vô cùng xa xỉ. Vương Khải muốn khoe sự giàu có của mình, trên con đường dẫn tới tư dinh, suốt bốn mươi dặm, cho người lấy trướng lụa đem ra trải suốt con đường. Thạch Sùng muốn hơn Vương Khải, cũng đem trướng lụa ra trải, dài được 50 dặm. Vương Khải dùng phấn đá đỏ quét vôi nhà thì Thạch Sùng lại dùng hồ tiêu quét lên vách. Theo Kho Tàng Truyện Cổ Việt Nam, Vương Khải thường đem vật quý ra đấu phú, đều thua Thạch Sùng, nên mới dùng kế đem nồi bể ra thi đấu. Thạch Sùng không có, Vương Khải nhờ đó mà được thắng. Trong đạo Cao Đài, bài phú “Giác Mê Khải Ngộ”của Đức Lý Giáo Tông có đoạn viết: Kìa Bá Di, Thúc Tề, mượn cảnh không dứt rồi mối tệ, Nọ Thạch Sùng, Vương Khải, cũng danh tiếng ai có kể ra gì? Khách lánh trần sẵn đuốc Tạo Hóa kíp lần đi Đường Chánh đạo hiệu vô vi cứu khổ. Thương lấy cõi trần gian chịu cơn cháy mày mà nhăn nhố, Bước lạc lầm sao chưa suy độ thẹn hổ với lương tâm, Tỉnh giấc hồng lánh việc sai lầm, Tâm thần định, thấy Đạo trời, dầu câm đều nói được.
HỘ PHÁP TRỤC YÊU TINHCâu chuyện xảy ra vào một ngày Đức Hộ Pháp cùng một phái đoàn Hội Thánh gồm quý vị Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh, Nữ Phối Sư Hương Hiếu cùng đi dự Lễ Khánh Thành một Thánh Thất ở một huyện thuộc tỉnh Long An. Thánh Thất nầy nguyên là nhà của hai ông Chánh Trị Sự đều là Hương Cả hiến cho Đạo để dùng làm ngôi Đền Thờ Đức Chí Tôn. Sau cuộc Lễ Khánh thành, đồng đạo ở đây tỏ ra quý mến Đức Hộ Pháp và có ý muốn cầm chân Ngài để nhờ giúp một việc gì đó mà không dám trình bày. Ông Chánh Trị Sự đứng ra thay mặt cho mọi người thuật lại lời yêu cầu của bổn đạo nơi đây muốn Đức Ngài cứu giúp cho một người đàn bà bị bịnh rất lạ, đã lâu rồi mà không hết. Đức Hộ Pháp nhận lời. Ngài để phái đoàn Đạo về trước và cử ông Chánh Trị Sự theo bà Nữ Phối Sư Hương Hiếu về nhà lấy cây Baton của Ngài xuống gấp để Ngài sử dụng trong việc trị bệnh. Khi ông Chánh Trị Sự đã trở về, Đức Ngài mới tìm hiểu căn nguyên và triệu chứng bịnh của người đàn bà thì được thuật lại câu chuyện như sau: Nguyên người đàn bà bị bịnh và ông chồng chuyên làm ruộng, nhà nghèo, nhưng tánh hai vợ chồng rất siêng năng, thiệt thà. Hai ông bà có một miếng ruộng dưới triền bưng ngập nước. Khi ông ra ruộng thì bà ở nhà lo dọn dẹp, cơm nước, cơm xong bà quảy ra để chỗ gò cao ráo, chờ chồng lên ăn, còn bà ngồi chờ dưới bóng cây râm mát. Chồng ăn xong bà mới quảy đồ về nhà. Một hôm, như mọi ngày, bà đem cơm ra ruộng rồi kêu chồng lên ăn. Bà thấy chồng bà từ dưới ruộng đi nhanh lên, thay vì đến chỗ ăn cơm, ông lại đến chỗ bà đè bà xuống ân ái, rồi bỏ đi mất. Chập sau, bà lại thấy chồng từ dưới ruộng đi lên, đứng xa trông thấy lần nầy chồng bà đứng rửa tay, rửa chân như mọi khi, rồi đến chỗ để cơm, lấy ra ăn. Bà nghĩ chuyện vừa rồi bắt hốt hoảng, không dám thố lộ với chồng mình vì nghĩ rằng chuyện quái gỡ, hoang đường. Thế rồi, người đàn bà càng ngày càng xanh xao tiều tụy, bụng cứ mỗi ngày một lớn dần lên, tưởng rằng có thai song đến ngày mà không sanh. Bà đành phải thuật lại chuyện đã xảy ra trước đó cho chồng nghe, chồng bà cho rằng chuyện hoang đường, không thể tin. Nhưng ông cũng tìm đủ thầy, đủ thuốc để trị bịnh cho vợ, ai chỉ thầy bùa, thầy pháp ở đâu giỏi, ông cũng mời về để trị cho vợ song không hết, mỗi ngày một nặng thêm. Đức Hộ Pháp nhìn người đàn bà thấy xanh xao, vàng vọt, Ngài bảo dẫn bà ấy xuống dưới ghe, cho ghe vào giữa đoạn sông, có cây cầu bắc ngang. Đoạn Đức Hộ Pháp đứng trên bờ, Ngài chỉ cho ghe đâm mũi ghim ngay bờ dưới chân cầu, còn người bịnh năm ngửa trên ghe. Xong Ngài bắt đầu hành pháp. Ngài cầm cây Baton đứng trên cầu vẽ trên bụng người bịnh, rồi Ngài dơ cao lên, quất mạnh một cái xuống đất. Người bịnh cong mình ễnh lên rồi nằm xuống thật mạnh. Mọi người nhìn thấy cả kinh, vì thấy rõ ràng từ bụng người đàn bà ấy chạy thoát ra một con vật, phóng lên bờ chạy mất dạng (có người xem thấy giống như con kỳ đà). Ngay lúc đó người đàn bà bụng hết to, trong người thấy nhẹ nhàng, khoan khoái. Đức Hộ Pháp cho biết đó là một loại yêu tinh, Ngài không muốn sát hại nên tha cho nó đi. Sau đó Ngài trở về Tòa Thánh. Theo lời người dân trong xóm cho rằng bịnh của người đàn bà khó hết, nên mọi người thương tình cho hoàn cảnh ông đã hết tình lo cho vợ. Nhưng không ngờ, vợ chồng lại may mắn nhờ có Đức Hộ Pháp dùng huyền diệu thiêng liêng trị bịnh cho, Ngài đuổi được yêu tinh trong bào thai ấy, nên từ đó người đàn bà hết bịnh, hai vợ chồng sống hạnh phúc với nhau. Sau cả hai đều nhập môn vào Đạo hết.
ĐỨC HỘ PHÁP HÀNH PHÁP GIẢI BỆNHNăm 1927, Đức Hộ Pháp cùng một vài vị chức sắc có việc phải đi trên đoạn đường đi từ Nam Vang ra ngoài vùng ngoại ô. Xe chạy qua một đoạn đường dài ngon trớn thì tự nhiên tắt máy, phải dừng lại trước một ngôi nhà khá sang trọng để sửa chữa chiếc xe. Chủ ngôi nhà là một người đàn bà, thấy trời trưa nắng gắt gao, nên cho người ra mời Đức Hộ Pháp và phái đoàn vào nhà nghỉ ngơi, giải khát. Đức Ngài cùng một số Chức sắc theo người vào nhà, còn lại một vài người ở ngoài sân để sửa xe. Khi bước vào trong nhà, Đức Ngài thấy sắc diện người đàn bà xanh xao, thân hình gầy ốm, gương mặt mất thần, Đức Ngài biết ngay là một bệnh có quan hệ với người ở cõi Âm. Sau khi hỏi thăm đôi điều, Đức Ngài bèn ngỏ lời hỏi người đàn bà: Thưa bà, dường như Bà đang bị bệnh, thuốc thang đã dùng nhiều rồi mà chưa khỏi. Người đàn bà nhìn Ngài e ngại chẳng đáp. Ngài lại tiếp: Bà đừng ngại, cứ nói thật đi, nếu giúp được bà, tôi sẽ cố gắng giúp cho. Nghe xong, Bà chủ nhà hết sức ngạc nhiên, thầm nghĩ sao mà Ngài đoán được. Người đàn bà ngồi suy nghĩ thật lâu, rồi như có một niềm tin mãnh liệt, Bà mới nói thật rằng: Thú thật, tôi có chồng là một người Pháp đã chết, nhưng thường đêm ông lại về ăn ở với tôi, cho nên tôi càng ngày càng gầy ốm xanh xao, thuốc thang gì cũng không hết, mà cũng không thầy nào trị được. Đức Hộ Pháp nghe xong liền nói: Được nếu thật như vậy, tôi có thể giúp cho bà. Bà hãy sắm cho tôi một bình bình bông và một tô nước lạnh, dọn sẵn lên bàn, ngoài ra không còn gì nữa. Người chủ nhà làm y như lời Ngài dặn. Sau đó Đức Ngài đến nơi bàn hành pháp, lịnh cho vong linh ông chồng về nói chuyện cùng Ngài bằng tiếng Pháp. Đức Ngài nói chuyện với vong linh: Bạn là người dân của một nước văn minh, sao lại làm như vậy? Việc chồng vợ ở đời ai cũng thế, sống chung nhau cho đến hết nghiệp thì thôi. Có đâu bạn đã bỏ xác rồi, sao không lo cho con đường siêu rỗi phần hồn mà lại nuối tiếc, vấn vương với người còn sống, chẳng lấy gì làm tốt đẹp chút nào, phải khiến người sống vì bạn mà phải đau bệnh khổ sở. Bạn chết đã yên phận mình, còn đeo đuổi làm chi cho lụy người sống vậy. Từ đây hãy nghe lời tôi, đừng gần gũi với vợ nữa, hãy để cho người ta được tự do mà định phận mình, còn bạn thì định phận cho bạn nơi Tam Kỳ Phổ Độ có hơn không? Nói xong Đức Hộ Pháp lấy nhánh bông nhúng vào tô nước, rải lên đầu Bà chủ nhà. Sau khi hành pháp rồi, chưa biết được kết quả bệnh tình của Bà chủ nhà, thì xe cũng vừa sửa chữa xong, Đức Ngài cùng phái đoàn phải từ giã chủ nhà ra đi. Một thời gian sau, trên đường về Việt Nam, Ngài có ghé lại thăm người đàn bà ấy. Bà chủ nhà gặp lại Đức Ngài mừng rỡ vô cùng, đón tiếp Ngài thật là chu đáo. Bà vui vẻ nói với Đức Ngài: Kể từ lúc Thầy trị bịnh rồi đi chồng tôi không có về nữa. Bịnh tôi đã khỏi hẳn, sức khỏe đã được hồi phục như bình thường. Tôi xin lạy tạ Thầy để đền đáp công ơn đã cứu mạng. Và bà nói tiếp: Tôi biết Thầy là nhà tu hành nên mới có quyền năng với người đã chết. Tôi không biết lấy chi để đáp lại công ơn, nếu là tiền của chắc là thầy không nhận. Tôi xin tặng thầy một quyển sách. Đối với tôi thì không hữu ích, nhưng nói đối với chồng tôi thì quý giá vô cùng. Chồng tôi thường xem sách ấy và nói rằng chỉ có giới quý tộc mới có mà thôi. Chồng tôi cũng thuộc dòng quý tộc. Vậy chồng tôi đã chết, quyển sách nầy để đây không hữu dụng, tôi xin tặng Thầy làm vật kỷ niệm, biết đâu sẽ hữu ích cho thầy. Đức Hộ Pháp nhận sách rồi kiếu từ người đàn bà. Về sau, Đức Hộ Pháp có cho biết: Chuyện gặp và trị bịnh cho người đàn bà có lẽ do sự sắp xếp của thiêng liêng, nên mới có được quyển sách quý. Quyển sách ấy đã giúp Ngài hiểu rõ về xã hội Pháp, hiểu rõ mọi sinh hoạt của giới quý tộc và người bình dân. Cho nên khi Đức Ngài Âu du năm 1954 đến nước Pháp, Ngài rất được người Pháp kính nể. Vì trước mắt họ, một người Việt gốc Á vô cùng lịch lãm, thông hiểu mọi việc về nước Pháp. Vì vậy Đức Hộ Pháp đã để lại một ấn tượng tốt đẹp đối với người Pháp. (Chuyện do một người Phạm Môn Phước Thiện kể lại).
HỘ PHÁP HÀNH PHÁP TRỊ BỊNH CHO MỘT NHẠC VIÊNÔng Đốc nhạc, cai quan Ban nhạc tại Thánh Thất Nam Vang, có kể lại một câu chuyện như sau: Trong Ban nhạc của ông có một em nhạc viên không biết có bịnh gì mà đột nhiên càng ngày càng xanh xao, gầy ốm, xem hình dáng gầy gò, tiều tụy, tinh thần mệt mỏi lắm. Anh em trong Ban nhạc giúp em ấy lo thuốc thang, nào thuốc Đông, Tây y đủ thứ mà không thuyên giảm chút nào, ngày càng kiệt sức hơn. Thầy thuốc bắt mạch không ra bịnh, Bác sĩ chẩn đoán không ra chứng, đang trong tình trạng nguy kịch. Thấy nhân viên mình mang bịnh trầm trọng như vậy, ông Đốc nhạc đành phải trình báo lên Đức Hộ Pháp để tìm phương giải quyết. Đức Ngài nghe báo bèn kêu người dẫn xuống Ban nhạc để thăm vị nhạc viên nầy xem tình hình như thế nào. Khi được dẫn tới văn phòng, nhìn quang cảnh, Ngài liền nói: Rồi! Nữa rồi! Mọi người nghe vậy, không biết là Ngài nói gì, nhưng không dám hỏi. Đức Hộ Pháp quay qua hỏi ông Đốc nhạc: Em đó nằm đâu?. Ông Đốc nhạc dẫn Ngài đến một cái giường nằm sát vách ngăn giữa nhà trên và nhà dưới, rồi ông nói: Thưa Thầy, em nó nằm đây. Khi đến nơi, anh em đỡ vị nhạc viên ấy ngồi dậy, Đức Ngài nhìn thấy sắc diện liền biết nguyên nhân bịnh ngay, nên Ngài nói: Thôi mấy con dìu nó lên Báo Ân Đường làm lễ, rồi qua sẽ trị bịnh cho nó. Sau khi hành lễ xong, vị nhạc viên ấy được Đức Ngài hành pháp giải oan tại Báo Ân Đường. Kể từ ngày đó ba ngày sau, vị nhạc viên từ từ phục hồi lại khí sắc, thần lực và mạnh khỏe lại như thường. Vị nhạc viên và mấy người trong Ban nhạc dẫn nhau đến Báo Ân Đường lạy tạ ơn Đức Ngài. Đức Hộ Pháp hỏi em nhạc viên: Hổm nay, con còn thấy gì nữa không? Vị nhạc ấy trả lời: Da thưa, không còn thấy gì nữa. Ngài cười, rồi bảo ông Đốc nhạc: Ngày mai em cho mời hết anh em trong Ban nhạc có mặt đầy đủ tại văn phòng cho Qua làm việc. Qua ngày sau, Đức Hộ Pháp đến văn phòng Ban nhạc thì anh em trong Ban nhạc đã có mặt đầy đủ để Đức Ngài dạy việc. Đức Ngài nhìn thấy tại Văn phòng có treo một bức tranh hình nữ minh tinh màn bạc nổi tiếng, cũng là hoa hậu thời bấy giờ tại Miên quốc, được biết cô gái ấy bị tai nạn giao thông chết trong lúc còn xuân sắc. Đức Ngài chỉ bức tranh đó và hỏi các anh em trong Ban nhạc: Qua hỏi thiệt mấy em, chớ tại sao mấy em treo bức ảnh cô gái nầy tại văn phòng? Các em có thường nói đùa, giỡn với bức ảnh đó không? Mọi người nhìn nhau, vị nhạc viên bị bịnh nhớ lại chuyện nói đùa lúc trước, không dám giấu Ngài, bèn đứng dậy thưa: Bạch Đức Ngài, có một hôm anh em tụ họp đông tại văn phòng, ai nấy đều khen bức tranh ấy đẹp, trầm trồ ca ngợi không ngớt. Con có nói đùa rằng: Phải chi mà nàng ấy nhận làm vợ mình thì mình ưng chịu liền. Đức Hộ Pháp nói: Cũng bởi câu nói ấy mà mỗi đêm con ngủ với nàng ấy phải không? Tất cả anh em trong Ban nhạc nhìn anh ấy cười rộ lên. Đức Ngài bèn dạy: Qua nói cho mấy em biết, đừng có nói giỡn chơi với những người vô hình. Nếu nói thì phải nhận chịu, không bao giờ sai chạy. Như người con gái trong bức tranh nầy là một điển hình đó. Thôi con gỡ bức tranh cô gái nầy đốt đi, Qua chứng cho. Đừng có thấy hình đẹp mà tiếc không nên đâu. Sau đó khi đốt xong, Đức Ngài cho anh em Ban nhạc giải tán. (Theo lời kể lại của ông Nhạc Sư Trần Thiện Niệm).
THANH TÂM TÀI NỮTrước ngày khai nền Đại đạo, các chơn linh cao trọng có nhiệm vụ xuống thế độ đời thường tìm cách giáng cơ dạy đạo cho chúng sanh, trong đó có Bà Thanh Tâm Tài Nữ, một vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung cũng giáng dạy nhiều về giáo lý từ năm Mậu Thìn 1928 đến năm Quý Dậu (1933). Theo Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp với đề tài “Kiếp Duyên và Kiếp Quả về Thanh Tâm Tài Nữ”, Ngài cho biết: Cô đầu kiếp tại Việt Nam, mất lúc 18 tuổi tại bãi biển Vũng Tàu. Khi được cứu rỗi về Cung Diêu Trì, Cô được lịnh Phật Mẫu dạy hiệp cùng Cửu Vị Tiên Nương giáng cơ dạy Đạo trong Trường Quy Thiện của Diêu Trì Cung lập tại Thảo Đường. Qua lời kể lại của các vị tiền bối đạo Cao Đài, Bà Thanh Tâm Tài Nữ, tiền kiếp là một vị Nữ Tiên ở Cung Diêu Trì, có một kiếp giáng trần tại Việt Nam bị chết chìm nơi bãi biển Vũng Tàu ngày 5 tháng 4 năm Đinh Mão (Dl. 17/5/1927), được các vị chức sắc đương thời hành lễ tang và dâng sớ cầu xin Đức Phật Mẫu cứu rỗi cho chơn linh Bà. Sau đó Đức Phật Mẫu có giáng cơ cho biết Bà Thanh Tâm đã được cứu rỗi trong một bài Thánh giáo năm Đinh Mão, có đoạn dạy như sau: Thiếp chứng lòng thành kỉnh và đạo đức của chư đạo hữu. Vả lại, Thanh Tâm có căn trước, nên thiếp vì chư đạo hữu mà cứu rỗi cho chơn linh của nó trước ngày mãn hạn. Vậy Thiếp đem chơn linhThanh Tâm về Diêu Trì Cung nghe kinh và học đạo đủ một trăm ngày cho chơn thần hườn nguyên, hườn nguyên rồi sẽ cho xuống hầu chuyện cùng chư đạo hữu. Thế là sau đó Bà Thanh Tâm Tài Nữ có giáng cơ vào Ngày 4 tháng 3 năm Mậu Thìn (Dl. 23/4/1928). Bài Thánh giáo đó được trích trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: THANH TÂM Mừng mấy anh. Ðạo mở rộng, giống Ðạo gieo đã trót hai thu, mà người thiệt vì Ðạo chẳng có bao nhiêu. Thế nên hồi chưa mở rộng nền Ðạo, Ðức Thích Ca dòm vào thế cuộc mà than rằng: Lộ vô nhơn hành, Ðiền vô nhơn canh, Ðạo vô nhơn thức, Ta hồ tận chúng sanh! Ba anh có hiểu chăng? Sao gọi là: Lộ vô nhơn hành? Ðường có người đi nhiều mà không ai là người phải, đường đi dập dìu thiên hạ mà toàn là ma hồn quỉ xác, tâm giả dối, hạnh hung bạo, mật chứa đầy tà khí, thế nào gọi là người! Còn Ðiền vô nhơn canh là sao? Ruộng đây là tỷ với Tâm, Tâm không ai giồi trau. Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú. Người mà có Tâm như vậy ra thế nào? Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có ra công làm cho đất phì nhiêu đặng cho buổi gặt hưởng nhờ mà không chịu làm, thế thì phải diệt tận chơn linh. Cho đến năm 1933, vì nhơn duyên của Bà còn phải nặng nợ với chúng sanh, nên Bà lại đầu kiếp qua Anh Quốc. Trước khi đi Bà có đến từ biệt Đức Hộ Pháp trong một Đàn cơ ngày 12 tháng 1 năm Quý Dậu (Dl. 8/2/1933). Bài Thánh giáo đó như sau: THANH TÂM TÀI NỮ Mừng mấy anh, mấy chị, Em sẽ tái kiếp Hồng mao, nên đến từ tạ. Ðức Phạm Hộ Pháp hỏi: Sao em đầu kiếp xa vậy? - Vì em có nhơn duyên nơi nước Anh. Em đầu kiếp xuống đây để đứng ngả ba đường đón Ðức Chí Tôn. Nếu có quên, nhờ quí anh nhắc, thức tỉnh em nhớ. Em đã nói trước với quí anh rồi, có lạ chi dòng luân luân chuyển chuyển mà da díu bận lòng. Em đến giúp nên cơ Ðạo đặng báo nghĩa cho Chí Tôn. Em nghe Chí Tôn nơi nầy, chạy theo nơi nầy không gặp. Em nghe nói nơi khác, chạy nơi khác, cũng không gặp. Hỏi ra thì em khiếm khổ hạnh nên khó phép thấy Người, nên quyết luân hồi chịu khổ hạnh hầu gặp cho đặng, kẻo ức. Thương quá đỗi thương mà chưa từng thấy mặt. Thưa mấy chị, Ðã may duyên gần gũi hình bóng của Người, ráng đặng gặp Người, kẻo sau ăn năn uổng lắm! Cái oan nghiệt kiếp sanh đáng ghê sợ chưa bằng không gặp mặt Chí Tôn, vì lẽ ấy mà biết bao nhiêu Tiên, Phật hạ trần chịu khổ. Xin mấy chị nghe:
TÁI THỦ QUYỀN HÀNHTái thủ quyền hành nghĩa là trở lại với chức vụ cầm quyền một lần nữa. Trong Đạo Cao Đài, như chúng ta biết, hồi mới khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn dự định phong phẩm Giáo Tông cho Ngài Ngô Văn Chiêu, nên trong Đàn cơ ngày 17 tháng 4 năm 1926, Đức Ngài giáng cơ dạy ba ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến nhà Ngô Văn Chiêu bảo ông phải may một bộ Thiên phục Giáo Tông và dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu lãnh nhiệm vụ may bộ Đại phục đó cho hoàn thành. Nhưng năm ngày sau, tức là ngày 22 tháng 4 năm 1926, Đức Chí Tôn giáng cơ bảo Bà Hương Hiếu như sau: Hiếu! Dâng mão Giáo Tông cho Thầy xem. Trúng, mà ai đội con phòng lật đật. Ta thấy bài Thánh giáo trên của Đức Chí Tôn đã tiên đoán rằng ông Chiêu sẽ không nhận chức Giáo Tông. Quả thật vậy, sau đó, ông Ngô Văn Chiêu không đến lãnh chức vì ông theo một hướng tu khác. Do Đạo càng ngày càng phát triển, ngày Khai Đạo cũng gần kề, Để có người điều hành mối Đạo, cho nên ngày 23 tháng 9 năm Bính Dần (Dl. 29/10/1926), Đức Chí Tôn mới giao chức Giáo Tông cho Đức Lý Đại Tiên Trưởng, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm, theo tịch đạo là Thanh, Hương. Như vậy, vị Giáo Tông đầu tiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh là Đức Lý Thái Bạch, chính Ngài đã cho biết trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: “Lão hạ mình bỏ quyền Nhứt Trấn lãnh việc GIÁO TÔNG mà lập vị cho đoàn em bước tới”. Lý Giáo Tông là Đấng vô hình nên khi cầm quyền điều khiển Cửu Trùng Đài hữu hình thì Ngài phải thông qua cơ bút nơi Hiệp Thiên Đài, và trong tình hình nghiêm trọng của nền Đạo do nhà cầm quyền Pháp gây ra, sự đối phó không được mau lẹ, cho nên trong Đàn cơ tại Tòa Thánh ngày 26 tháng 2 nhuần năm Mậu Thìn (Dl. 15/4/1928) do Hộ Pháp Thượng Phẩm phò loan, Hầu bút Phối Sư Thái Bính Thanh, Lý Giáo Tông giáng dạy như sau: Thái Bính Thanh, Hiền Hữu nói lại với Thượng Trung Nhựt rằng: Lão nhượng trọn quyền Giáo Tông lại cho Người… Đến ngày 24 tháng 6 năm 1928, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ giải thích thêm về quyết định nầy: Lão tưởng không cần phải nói thì chư đạo hữu cũng đủ biết rằng: Lão cầm quyền Giáo Tông đặng cũng nhờ nương theo chư đạo hữu mới có phần xác mà hành chánh đặng …Lão dầu để hết tinh thần Thiêng Liêng vào nữa cũng chẳng làm gì. Chi bằng Lão để cho chư hiền hữu dùng hết sức phàm điều đình, chừng nào không đặng cầu đến Lão sẽ hay. Cười…. Như vậy, từ đây Đức Lý Giáo Tông đã tạm giao quyền điều hành Cửu Trùng Đài cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt. Nhờ thế, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt với thể pháp riêng của mình, cùng hợp tác với Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc, mới vững tay lèo lái thuyền Đạo, dần dần trở lại ổn định. ĐỨC LÝ THÁI BẠCH TÁI THỦ QUYỀN HÀNH. Cho đến ngày 03 tháng 10 năm Canh Ngọ (Dl. 22/11/1930), Đức Lý Giáo Tông cho lịnh triệu các vị Chức sắc Cửu Trùng Đài về Tòa Thánh hầu lịnh. Hộ Pháp và Bảo Văn Pháp Quân phò loan, Đức Lý giáng dạy: “Lý Giáo Tông Chào chư hiền hữu, chư hiền muội. Có Đức Chí Tôn ngự, chư hiền hữu, chư hiền muội khá mừng Người! Lão cảm ơn Thượng Đầu Sư làm vẹn phận sự giúp Lão”. Thượng Đầu Sư bạch: Đệ tử cùng cả chức sắc đều hết lòng lo lắng, cúi xin Đức Lý Giáo Tông từ bi tái nhậm quyền hành hầu chỉnh đốn nền Đạo. (….) Đã trót 5 năm để đủ cho cơ đời dạy ngoan chư hiền hữu, chư hiền muội. Ngày nay Lão định trừ diệt quỷ quyền, không cho rối loạn nền Đạo mà thử thách Thiên phong nữa. Chư hiền hữu, chư hiền muội đã đủ tài lực, đạo đức mà hành chánh rồi, thì Lão cũng nhứt định giữ nghiêm luật pháp. Vậy thì Lão hành chánh, cứ lấy công bình vô tư làm mực thước. Lão chẳng vì thương riêng mà che chở. Lão chẳng vì ghét riêng mà hành phạt. Lão nói thiệt rằng: Đạo vón của toàn cả chúng sanh. Lão chẳng lẽ lấy tư mà làm công cho đặng. Lão phải chấp chánh quyền hành, công thưởng tội trừng cho đáng lý. Chẳng phải bởi ngửa nghiêng Cơ Đạo mà buộc Lão tùng đời, Lão lấy quyền vô vi Càn Khôn làm biểu hiện. Lão chỉ vì tình nhau mà cho chư hiền hữu, chư hiền muội biết trước rằng: Đừng ỷ công mà cả lòng khi lịnh. Lão nhứt định chẳng hề tha thứ bao giờ, nên thì để, hư thì trừ. Chư hiền hữu, chư hiền muội đừng trách Lão quá ư nghiêm khắc nghe! Hộ Pháp! Lão dùng văn chương thường dụng của nhà Nam đặng làm mẫy Đạo Nghị Định nầy. Hiền hữu gắng để ý hết vào, xem xét coi như chánh đáng thì ký tên cùng Lão đặng ban hành. Phòng có điều chi trở ngại cho Lão hiểu đặng toan sửa cải nghe”. Tóm lại, sau thời gian nhượng quyền Giáo Tông kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1928 cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt dụng cơ đời, tài lực, để hành chánh, nay Ngài Đầu sư đã làm vẹn phận sự, đến ngày 22 tháng 11 năm 1930 Đức Lý Giáo Tông Tái thủ quyền hành trong thời gian ngắn để cùng với Đức Hộ Pháp ban hành sáu Đạo Nghị Định quan trong. Trong sáu Đạo Nghị Định nầy, Đạo Nghị Định thứ Nhì. Đức Lý Giáo Tông ban quyền Giáo Tông về phần xác cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt. Điều thứ Nhứt của Đạo nghị Định Nhì ghi rõ: Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn phần thiêng liêng có Lão. Kể từ rằm tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Ngài Thượng Trung Nhựt mới chánh thức đảm nhiệm chức quyền Giáo Tông. Ngài đã giữ phẩm vị nầy đến lúc Ngài đăng Tiên. Trong Đàn cơ ngày 04 tháng 11 năm Canh Ngọ (Dl. 24/12/1930) Đức Lý giáo Tông cho một bài thi tứ tuyệt và một bài Thánh giáo dạy như sau: Cửu tử kiêm triêu đắc phục huờn, 久 死 今 朝 得 復 還 Hạnh phùng Thiên mạng đáo khai Nguơn. 幸 逢 天 命 到 開 元 Thế trung kỵ tử hà tri tử, 世 中 忌 死 何 知 死 Tử giả hà tồn, chủ Tịch Hương? 死 者 何 存 主 籍 香 Lão đã mang một cảm tình rất nặng cùng chư hiền hữu, hiền muội rồi đó. Lão là người đã đứng ngoài vòng thế sự hèn lâu, nên đòi phen bợ ngợ, phải tìm tàng lượng tri lý mỗi người, ôi! nghĩ nên rất khó! Vì khi nãy, Lão thấy con cái Chí Tôn đông đảo dường ấy, may là một nước Việt Nam chưa đủ trọn mà dường nầy, ngày nào Ðạo đã truyền bá toàn trong nhơn loại, trọn khắp ngũ châu, mới sao nữa! Ngán thay cho cái trách nhậm nặng nề, vì trót đã hứa lời cùng Từ Bi ra tế độ, hễ trách phận đàn anh, tuy nhiên lấy oai quyền khuyến nhủ trừng trị lấy em mặc dầu, chớ cũng nên hiểu tâm của mỗi đứa. Lão chỉ sợ một điều là Lão không phương gần kẻ tà tâm toan dạy dỗ; còn như gần kẻ đạo đức chơn thành thì rất dễ, song chẳng cần ích. Tâm Thánh là ngôi vị của Ðấng thiêng liêng, không lo trau giồi thì cũng còn tự nhiên vì vẻ đẹp, còn vẻ đẹp thiên nhiên đã mang nặng thi hài nơi khổ cảnh nầy mà không mất thì đoạt vị đã đặng rồi, lại cần ai nâng đỡ. Ấy vậy, Lão đến mà gieo hột Thánh cốc nơi lòng kẻ tà tâm, mong cho đơm bông kết quả, đặng liệu thế hồi tâm, chớ chẳng phải đến rước người hiền ngõ. Chư hiền hữu, chư hiền muội xem trong năm Khai Ðạo, biết bao khổ não truân chuyên. Lão, vì đã thấy rõ, nên không nỡ ngồi an xem cơ thắng bại. Lão nhứt định đứng chung vai đâu cật cùng chư hiền hữu, chư hiền muội, mà chia bớt khổ tâm. Lão chẳng phải sợ, vì chưa có quyền hành hữu vi nào mà phạm đến Lão đặng, chỉ sợ giùm cho chư hiền hữu, chư hiền muội mang nặng thi phàm, mà chịu cường quyền đè nén. Chư hiền hữu, chư hiền muội có đạt được phép tiên tri như vậy đâu mà mong tránh khỏi. Lão nghĩ như thế nên nhứt định tái thủ quyền hành, đem cặp nhãn thiêng liêng thay vì cặp nhãn của Thầy, đặng thấy giùm mọi điều cho chư hiền hữu, chư hiền muội, đặng quyết thắng chúng sanh trong kỳ Khai Ðạo nầy, thì Lão tưởng khi Lão chưa phải là người vô dụng vậy. Khi Lý Giáo Tông đồng ý trở lại tái thủ quyền hành, Ðức Chí Tôn bèn giáng cơ dạy Hội Thánh phải làm lễ Ðăng điện cho Ðức Lý thật long trọng để Ngài trở lại làm việc. Bài thi trên được Ðức Phạm Hộ Pháp giải nghĩa trong bài Thuyết đạo nói về công nghiệp của Ðức Lý Giáo Tông, tại Ðền Thánh trong đêm 18 tháng 8 năm Kỷ Sửu (Dl. 9/10/1949) sau khi cúng Vía Ðức Lý, trong đó có đoạn: “Ðức Chí Tôn thường nhắc toàn Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng làm lễ Ðăng điện cho long trọng khi Ngài (Ðức Lý Giáo Tông) tái nhậm phận sự, rồi Ngài lên ngôi vị của Ngài, Ngài cầm cơ viết. Bần đạo tưởng không có vị vua chúa nào viết được bài diễn văn như Ngài. CỬU TỬ KIM TRIÊU ĐẮC PHỤC HUƠN: là cảnh trần ta chết đã lâu rồi, mà hôm nay ta được phục sanh lại trong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn. HẠNH PHÙNG THIÊN MẠNG ĐÁO KHAI NGUƠN: là còn hạnh phúc đặng Thiên mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần đạo đã thuyết cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển khởi Thượng Nguơn Tứ Chuyển, Ngài đến khai Nguơn là có duyên cớ. Bần đạo dám chắc rằng, Ðấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được. Ngài đến đặng mở Thượng Nguơn Tứ Chuyển. THẾ TRUNG KỴ TỬ HÀ VÔ TỬ Thế gian sợ chết mà không biết cái chết là gì? Chính Ngài hỏi rồi nói: TỬ GIẢ HÀ TỒN CHỦ TỊCH HƯƠNG: Hương là tịch đạo của Nữ phái. Nữ phái là nguồn sống của nhơn loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế gian nầy đặng chi?"
DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔNDIÊU TRÌ Diêu 瑤: Còn đọc là dao, là một thứ ngọc quý báu. Trì 池: Cái ao. Diêu Trì là một cái ao làm ngọc dao, một loại ngọc quý và đẹp. Ao Diêu Trì nằm nơi Cung ngự của Đức Phật Mẫu, nên Cung này được gọi là Diêu Trì Cung. Đức Phật Mẫu ngự tại Diêu Trì Cung nên người ta gọi Ngài là “Phật Mẫu Diêu Trì”. Chính trong Bài Phật Mẫu Chơn Kinh có câu: Tạo Hóa Thiên Huyền vi Thiên Hậu, Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì. KIM MẪU Hai chữ Kim Mẫu là hai chữ nói tắt của “Kim Bàn Phật Mẫu”, nghĩa là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn (hay Kim Bồn), là nơi chứa các nguyên chất để tạo ra chơn Thần cho vạn linh. Bài Kinh Đệ Cửu Cửu có câu như sau: Nơi Kim Bồn (Bàn) vàn vàn nguơn chất, Tạo hình hài các bậc nguyên nhân. Theo sách “Ngọc Lộ Kim Bàn”, Kim Bàn (Kim Bồn) là một cái mâm vàng Thiêng liêng nơi Diêu Trì Cung mà Đức Phật Mẫu dùng để chứa các nguyên chất. Khi Trời đất đã được hình thành, Phật Mẫu mới đem Chơn tánh phân ra một hột. Từ một hột đó, Ngài mới thổi hơi chân khí biến thành một trăm ức Linh căn Chân tánh (tức Nguyên nhân), rồi Ngài đem chứa trong Kim Bàn (Kim Bồn), nói một cách khác, Kim Bàn là nơi tạo ra các bậc Nguyên nhân. Như vậy, Kim Bàn Phật Mẫu, nói tắt “Kim Mẫu” là một Thánh hiệu khác của Đức Phật Mẫu, mà trong Di Lạc Chơn Kinh có chỉ rõ. Bởi vậy nơi cõi trần, Phật Mẫu là Mẹ của Thần, Thánh, Tiên, Phật. Trong Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dùng Thánh hiệu “Kim Mâu” để nói về Đức Phật Mẫu như sau: Riêng thương KIM MẪU khóc thầm, Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu. VÔ CỰC Do Đức Phật Mẫu được xưng tụng là “Vô Cực Thiên Tôn”, nên có nhiều người tưởng lầm là Vô Cực trước Thái Cực, như vậy mâu thuẫn với Thánh giáo Đức Chí Tôn: “Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực”. Thật ra, Vô Cực đây là một trong Tam Cực, gồm: Vô Cực, Thái Cực, Hoàng Cực. Có thể gọi chung là Đạo, là Pháp, là nguồn đầu của vũ trụ vạn vật. Dựa theo các Kinh sách, Thánh giáo nền Đại Đạo thì Tam Cực giảng về thời kỳ tạo lập vũ trụ, chúng ta tạm hiểu rằng: 1- Vô Cực: Thời kỳ khí hồng mông đang hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hiệp, mà Đạo Đức Kinh gọi cái đó là: “Đạo tự hư vô sanh nhứt khí”, nghĩa là từ trong Đạo hư vô sanh ra Nhứt khí. Nhứt khí có ba phương diện hay là Ba ngôi, mà ngôi Thứ nhứt gọi là Vô cực. 2- Thái Cực: Từ trong Vô Cực là ngôi thứ nhứt lại có một điểm khí dương phát sanh. Hễ khí động phát sanh tức là khí dương, thì phần tịnh còn lại là khí âm. Cho nên Kinh Dịch nói “ Thái Cực sanh lưỡng nghi” , nghĩa là Thái Cực sanh ra khí âm và khí dương. Đạo Đức kinh gọi là Một sanh ra hai. Đây là ngôi thứ nhì của Nhứt khí, gọi là Thái cực. Tuy có hai tên Vô Cực và Thái Cực nhưng không phải là hai ngôi riêng biệt, mà đó là hai trạng thái của một tự thể (hai mặt của một vật). Có thể gọi Thái Cực là thời thứ hai. Trong thời kỳ này tuy đã có âm dương tương đối, nhưng chưa đủ mức để phối hợp, phải để qua đến thời kỳ thứ ba. 3- Hoàng Cực: Khí âm (Vô Cực) hiệp đúng mức với khí dương (Thái Cực) thành thể thứ ba là Hoàng Cực. Hoàng Cực hỗn hiệp âm dương, từ đó xuất phát vạn pháp. Nếu không có Hoàng Cực thì âm dương không tương hiệp, thì làm sao sanh hóa được! Nên Đạo Đức Kinh mới nói: “Hai sanh ba”, là âm dương hiệp sanh ra Hoàng cực. Ta có thể nói Hoàng Cực là tổng hợp của hai thể âm dương. Vậy thì Ba ngôi Vô Cực, Thái Cực và Hoàng Cực tuy phân ra ba thời kỳ nhưng đều là một khí Chơn Nguyên (Nhứt khí), mà mỗi ngôi đều có một vai tuồng riêng biệt, chẳng giống nhau mà luôn luôn bổ túc cho nhau. Đức Diêu Trì Kim Mẫu vẫn có một vai tuồng đặc biệt, thuộc về ngôi Vô Cực, nên xưng hiệu là: Vô cực Từ Tôn (hay Vô Cực Thiên Tôn). Nghĩa là Ngài đại diện cho ngôi Thứ nhứt là ngôi Vô cực, đồng ngôi, đồng thể với Thái Cực không phân biệt trước sau mà khác nhau do động thái chuyển biến mà thôi. Đức Phật Mẫu khi giáng cơ tại Trí Huệ Cung, đêm 7 tháng 1 năm Tân Mão ( Dl 12-2-1951) có ban cho một bài thi, trong đó có đoạn thi như sau: Từ VÔ CỰC vào trong giới cảnh, Mới để tâm so sánh Tiên, Phàm. Chẳng từ ô trược dương gian, Vì thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm THIÊN TÔN (TỪ TÔN) Thiên Tôn là một bậc do chúng sanh tôn thờ cho các Đấng Thiêng liêng có công nghiệp với toàn vạn linh, trái với Thế Tôn là những bậc có các Đức tánh tốt đẹp để người đời khâm phục kính ngưỡng, như: Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. Đức Phật Mẫu còn được tôn xưng là Vô Cực Từ tôn, tức là một Đấng Mẹ hiền (nhơn từ), rất cao cả tôn nghiêm ở cõi Thiêng liêng. Trong bản Sớ Văn của đạo Cao Đài tâu trình lên Đức Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu có câu: HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
Ý NGHĨA BÀI KỆ CHUÔNG U MINHKệ 偈: Bài thi ngắn hay dài, dùng để tóm tắt đại ý một đoạn kinh, một bài thuyết pháp, hoặc để ca ngợi công đức Phật, Bồ Tát. Kệ cũng là những bài ca chứng đạo của các vị thiền sư bên Phật giáo. U minh 幽 暝 , như chữ “U minh địa”, chỉ cõi u tối, tức là cõi Âm phủ, cõi Diêm cung, cõi Địa phủ, mà hiện nay đạo Cao Đài gọi là cõi Âm quang. Thánh giáo Thầy có câu: Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng Tòa Nghiệt Cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa cầu 68 nầy; ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh phải bị đoạ vào nơi U Minh Địa, để trả cho xong tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác. Chuông U minh: Một loại chuông lớn, thường gọi là Đại hồng chung, vì loại chuông này được treo trên một cái giá, miệng quay xuống đất, khi đánh lên, tiếng chuông vang dội truyền đến cõi U minh (Địa phủ) để giác ngộ các tội hồn nơi đó, nên người ta đặt tên là U minh chung (hay chuông U minh). Kệ U minh chung là một bài kệ gồm 34 câu cầu nguyện trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để ngâm lên kèm theo tiếng Đại hồng chung thấu đến cõi U minh (Âm phủ), hầu thức tỉnh các tội hồn, biết ăn năn sám hối cầu nguyện với Đức Chí Tôn , Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng cứu độ cho. Trong Đạo Cao Đài, vào ba tháng của ba ngươn trong một năm là tháng giêng (thượng ngươn), tháng bảy (trung ngươn) và tháng mười (hạ ngươn), tại Tòa Thánh và các Thánh Thất cũng như Điện Thờ Phật Mẫu tại địa phương đều phải phân công trực dộng chuông U minh suốt ngày đêm, liên tục suốt tháng. Sau đây nhân ngày đầu tháng 10 Hạ ngươn, chúng tôi xin chép ra nguyên văn 34 câu kệ bằng Việt Hán, kèm theo lời giải nghĩa: A - Đoạn I (từ câu 1 đến câu 18):
B - Đoạn II (từ câu 20 đến câu 31): Sau đây từ câu 20 cho đến câu 31 gồm 11 câu cầu nguyện danh hiệu Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, Tam vị Đạo Tổ, Tam Trấn Oai Nghiêm, các Đấng trong Ngũ Chi Đại Đạo và chư Thần Thánh Tiên Phật mà trong Sớ Văn có tâu trình.
C. Đoạn III (từ câu 32 đến câu 35): Cuối cùng, ba câu 32, 33 và 34 là cầu nguyện ba Đấng Chưởng Giáo mở ba thời kỳ Đại hội Long Hoa: Đó là:
DI LẠC VƯƠNG BỒ TÁTTheo Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Hội Thánh in bằng chữ Quốc ngữ, chúng ta thấy viết là “Di Lạc Chơn Kinh 彌 勒 真 經” hoặc “Di Lạc Vương Bồ Tát 彌 勒 王 菩 薩”, nhưng phiên âm Hán Việt, theo cách phát âm của Hán Việt Tự Điển Thiều Chửu và Hán Việt Từ Điển Đào Duy Anh phải viết là “Di Lặc Chơn Kinh” hoặc “Di Lặc Vương Bồ Tát”. Ngoài ra, bên Phật Giáo cũng thường đọc Thánh danh Ngài “Di Lặc Vương Bồ Tát. Để thống nhứt với Hội Thánh, chúng tôi cũng theo bản kinh Thiên Đạo và Thế Đạo mà viết về Thánh danh Ngài là “Di Lạc Vương Bổ Tát”. DI LẠC TRONG PHẬT GIÁO Di Lạc Vương Phật hay Di Lạc Vương Bồ Tát đều là Hồng danh của Đức Phật Di Lạc. Có điều gọi Di Lạc Vương Phật là để chỉ Đức Ngài đang hành quyền cai quản chư Phật, còn gọi Di Lạc Vương Bồ Tát để chỉ Đức Ngài còn đang là vị Bồ Tát thi hành nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ chúng sanh. Di Lạc Bồ Tát là do tiếng Phạn “Maitreya Bodhisattva” phiên dịch ra, có nghĩa là Từ Thị 慈 氏 (Đấng Từ bi có lòng thương rộng lớn), Vô Năng Thắng (có trí huệ và từ bi thù thắng, không ai hơn), dịch là A Dật Đa 阿 逸 多. Theo Lời Phật Thích Ca nói thì Đức Di Lạc Bồ Tát còn đang ở trên tầng trời Đâu Suất thuyết pháp, đợi đến ngày giáng sinh làm người ở trần gian để tu thành Phật ở Hội Long Hoa, tức là một vị Phật tương lai, sau Đức Thích Ca Mâu Ni vậy. Phật Di Lạc tượng trưng cho vị Phật tương lai. Người ta thường thờ Ngài chung với Phật Thích Ca Mâu Ni (hiện tại) và Nhiên Đăng Cổ Phật (quá khứ), gọi là Tam thế chư Phật (đời quá khứ,hiện tại, tương lai). Đức Di Lạc thường thị hiện ở cõi trần để hóa độ chúng sanh nhưng không ai hay biết Ngài là ai. Đức Di Lạc được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký kế thừa Phật vị của Ngài, tức là một vị Bồ Tát sẽ thành Phật tại cõi nhân gian và sẽ kế thừa Đức Phật Thích Ca để giáo hóa chúng sanh. Di Lạc Bồ Tát là hiện thân cho đức tính hỷ xả: Bởi vì Ngài thấy được các pháp do nhân duyên sinh khởi, không thật, chỉ có giả danh, nên Ngài không có chấp trước các pháp. Tượng thờ Đức Di Lạc Bồ Tát, người ta tạc Ngài và có sáu đứa bé đeo theo chọc phá, đó là tượng trưng cho sáu thức (Lục tặc) luôn luôn quấy rối, nhưng Ngài vẫn an vui tự tại, hoan hỷ như thường. Đức Phật Di Lạc có nhiều lần hóa sanh xuống trần để cứu độ chúng sanh. 1- Có thuyết cho rằng Bố Đại Hòa Thượng 布 袋 和 尚 sinh vào thời Ngũ Đại chính là Đức Di Lạc giáng sinh. Trong Phật giáo Trung Hoa, từ thế kỷ 10, hòa thượng Bố Đại được xem là hiện thân của Đức Di Lạc.Đời sống của Hòa thượng Bố Đại không hề khác nhau với Thích Ca Mâu Ni Phật, không những Ngài không có đạo tràng mà Ngài cũng không có nơi ở, trong lịch sử danh tánh cũng không có, pháp danh cũng không có. Người ta chỉ biết mỗi ngày Ngài mang một cái túi vải to (chữ Nho gọi bố đại) đi dạo khắp nơi, cho nên mọi người gọi Ngài là Bố Đại Hòa Thượng. Tương truyền Bố Đại Hòa Thượng có thân hình mập mạp, mặt tròn, bụng to, miệng luôn luôn cười vui, vai lúc nào cũng |