GÓP NHẶT CHUYỆN ĐẠO

QUYỂN XXII

 1986

QUANG MINH

 

MỤC LỤC:
1. LỄ ĐĂNG ĐIỆN XÁ LỢI PHẬT TẠI ĐỀN THÁNH
2.CHỮ HIẾU TRONG NHO GIÁO
3. TÁNH KHIÊM NHƯỢNG
4. SO SÁNH LĂO GIÁO VÀ KHỔNG GIÁO
5. SỰ BIẾN THIÊN CỦA HỌC THUẬT NHO GIÁO
6. NGƯỜI TRONG THỜI KIM NGÂN SỐNG CHUNG VỚI THÚ DỮ
7. NGUYÊN LƯ CỦA CHƠN VÀ GIẢ
8. KHOA HỌC THIỆN

 

9. LƯ LÀ CÁI G̀?
10. ĐỨC THU TÂM
11. CÁCH PHÁN ĐOÁN VỀ SỰ ĐỜI
12. ĐẠO PHẬT Ở VIỆT NAM
13.TẢ CẢNH NÚI BÀ –THÁI PHONG
14.TRÍCH LỜI PHÊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
15. T̀NH THẦY TR̉ CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ VÀ CÁC MÔN ĐỒ
16. VĂN CHƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN NGÀI BẢO SANH QUÂN LÊ VĂN HOẠCH
17. MỘT SỐ BÀI THI CỦA NGÀI BẢO VĂN PHÁP QUÂN CAO QUỲNH DIÊU

*

 

 

1. LỄ ĐĂNG ĐIỆN XÁ LỢI PHẬT TẠI ĐỀN THÁNH

 

 *Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp trong cuộc Lễ Đăng Điện "XÁ LỢI PHẬT" tại Đền Thánh đêm 18-5 năm Quí Tỵ

 Hôm nay chúng ta thiết Tiểu Đàn an vị Xá Lợi Phật của Đức Phật Thích Ca. Bần Đạo đă để Xá Lợi Phật tại Nghinh Phong Đài ba ngày ba đêm cho con cái Đức Chí Tôn chiêm ngưỡng Đức Phật Thích Ca. Hôm nay đă đủ ba ngày Bần Đạo hành lễ an vị cho Ngài. Chúng ta hân hạnh được Đức Chí Tôn ban cho đặc ân nơi Ṭa Thánh, tức nhiên Đức Chí Tôn đem Đức Thích Ca về ở cùng chúng ta. Cái hạnh phúc ấy giá trị thế nào Bần Đạo không cần phải minh tả.

Ngộ nghĩnh là những điều Đức Chí Tôn làm bao giờ cũng dành để cho chúng ta một sự ngạc nhiên, và Xá Lợi Đức Phật Thích Ca là ǵ? Bần Đạo giải nghĩa cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu: Khi Đức Phật Thích Ca qui vị, th́ Ngài để di chúc cho cả Môn đệ của Ngài hỏa táng tức nhiên thiêu cái thi hài đó, thi hài của Ngài đă đốt nhưng chẳng hề khi nào tiêu hết, vẫn c̣n lại mấy miếng xương của Ngài dư thừa lại không cháy gọi là Xá Lợi.

Buổi sau này nước Anh, tức nhiên Anh Quốc hiệp lại với nước Ấn Độ mới đào lên gặp một cái hộp bọc pha ly, trên nóc có đề chữ rằng "Di hài Xá Lợi Đức Phật Thích Ca" lúc đó nước Anh mới lấy cả hộp Xá Lợi ấy. Sau này nước Ấn Độ được độc lập mới đ̣i nước Anh phải trả Xá Lợi Phật cho Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ buổi đó cuộc cách mạng tranh chủ quyền độc lập vẫn c̣n ở trong Liên Hiệp Anh. Măi đến sau này nước Ấn Độ mới hoàn toàn độc lập, nhưng trong nước tín ngưỡng về Phật Giáo tức nhiên Đức Phật Thích Ca đă giảm suy nhiều. Trong số 3.500 triệu dân, mà Tín đồ chỉ có 10 triệu thôi, thành thử v́ cái lẽ loạn lạc của nước, chính phủ nghĩ rằng: Để trong nước e Xá Lợi có thể bị mất, nên dành để có một mớ, chia cho Tích Lan một mớ, Đức Narada Théra đem hiến cho Ṭa Thánh Ngọc Xá Lợi là người Tích Lan đó vậy.

Trước kia Tích Lan dâng Xá Lợi Phật ấy cho Nhật có đi ngang qua Đông Dương (Sài G̣n) cuộc tiếp rước ấy rất nên long trọng. Tín ngưỡng về Phật Giáo của sắc dân Việt Nam rất nồng nàn thế nào th́ các vị Đại Đức đă ngó thấy trước mắt.

May thay: Ông Bửu Chơn là người Việt Nam, nhưng Ngài là Môn Đệ của Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông Phật Giáo Tích Lan. Ngài Bửu Chơn muốn xin Ngọc Xá Lợi ấy để trong nước Việt Nam, nên Đại Đức Narada Théra đem cho nước Việt Nam ba hột Ngọc Xá Lợi Phật, một cho Đại Thừa, một cho Tiểu Thừa, lại c̣n một hột để cho Tiểu Thừa Phật Giáo tại Kim Biên, tức nhiên là Miên Quốc.

Trong cái t́nh trạng của các Môn Đệ của Đức Phật Thích Ca nơi nước Việt Nam Phái Tiểu Thừa có hạnh phúc thống nhứt lụng lại. C̣n Đại Thừa th́ c̣n phân vân. Thành thử hột ngọc giao cho Tiểu Thừa đă thọ lănh, c̣n Đại Thừa họ đương rắc rối không có định đoạt, họ tính để Ngọc Xá Lợi ấy lại đó, rồi họ chung họp với nhau cất một cái Tháp đặc biệt để Thờ. Thành thử Ngọc Xá Lợi dành để cho Đại Thừa giờ phút này Đức Narada Théra giao cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung, do ư Ngài muốn cho nơi nào tùy ư để quyền cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung định liệu.

Ba cây Bồ Đề cho Tiểu Thừa một cây, cho Tiểu Thừa Phật Giáo Miên Quốc một cây, c̣n một cây của Đại Thừa đem về Ṭa Thánh. Hột Ngọc Xá Lợi đem về Ṭa Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Đạo Giáo Tích Lan, lấy của tư của Ngài hiến cho Ṭa Thánh. Chúng ta thấy cả hành tàng cả sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Ṭa Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ đại của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài, tức nhiên Phó Thủ Tướng Việt Nam đương giờ này là Ông Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, ông đă chịu nhọc nhằn cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều ngó thấy. Ngài hạ ḿnh xin cho đặng Ngọc Xá Lợi ấy thế nào? Nên hôm Ngài trở về Sài G̣n, Bần Đạo nhân danh toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Hội Thánh nam nữ lưỡng phái để lời cám ơn ông Bảo Sanh Quân rồi, và Bần Đạo sẽ cho các cơ quan Chánh Trị Đạo làm một tờ chúc thơ cảm tạ công nghiệp của Ngài.

Đức Phật Tổ tức nhiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Boudda Çakyâmouni) cả thảy con cái Đức Chí Tôn đă nghe Đức Narada Théra thuyết Đạo rồi. Ngài nói Đức Phật Thích Ca là người cũng như ta, có xác thân như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người ở trong thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài đă lên tới Phật vị. Ngài tái kiếp làm người với mănh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy.

Cái quí trọng của Đức Phật Thích Ca họ đă nh́n nhận cái cao siêu về linh hồn của Ngài trước khi chưa đầu kiếp. Các Tôn Giáo bao giờ cũng vậy, họ muốn tôn tặng Giáo Chủ của họ lên một địa vị phi phàm, tức nhiên họ đặt ra nhiều lẽ dường như ảnh hưởng của thần thoại. Tinh thần con người bao giờ cũng vậy, sợ chết, muốn sống, mà cái sống ấy muốn thế nào cho trường cửu với họ mới được.

Hại thay! Cảnh Hằng Sống không phải ở thế gian này với thi phàm xác tục của ta, mà cảnh Hằng Sống ấy nó ở nơi cơi Thiêng Liêng Vô H́nh kia. Cảnh ở thế gian này là cảnh đau khổ, họ muốn cho các vị Giáo Chủ của họ phi phàm họ bày ra nhiều cái thuyết thần thoại, giờ phút nầy làm cho khoa học phải trợn trạo đánh đổ về cái lư lẽ ấy, đánh đổ rất khoa học không thế ǵ chối cải được.

Nào là họ nói Đức Chúa Jésus do một người đồng trinh tự nhiên đẻ ra, chính ḿnh trong Đạo sử của Đức Chúa Jésus, cha của Ngài là Ông Thánh Joseph, mẹ của Ngài là Bà Marie, họ lại nói Đức Phật Thích Ca khi xuất thế ở trong nách của Bà Maya mà ra, Đức Lăo Tử cũng thế, họ làm cho giờ phút nầy cả tín đồ các Tôn Giáo khó giải quyết, họ đem cái lư do thần thoại nêu ra làm một sự chơn thật.

Hại thay! Nếu mọi sự chơn thật nó có thể làm cho cả đức tin con người phải điên đảo. Chúng ta ngó thấy cơ thể tạo đoan có âm dương tương hóa mới sản xuất h́nh ảnh tức nhiên cả kiếp sanh và sanh mạng cả toàn thể vạn linh nơi mặt địa cầu nầy. Đừng có nói chi nhiều, nội điện lực, nếu không âm điện và dương điện th́ chúng ta không có ngọn đèn sáng như thế nầy được.

Lại nói đến hơi thở của ta không có âm khí (Hydrogène) dương khí (Oxygène). Nếu chúng ta không có hơi thở đó chưa chắc ǵ chúng ta sống đặng, đừng nói chi nhiều cả cơ thể tạo đoan không có hàn nhiệt ôn lương, th́ vạn linh nơi mặt địa cầu này chưa chắc họ sống c̣n và tồn tại được.

Huống chi cái luật Tạo đoan phải có cha mẹ, có âm dương của cha mẹ mới sản xuất cái nhơn h́nh của chúng ta. Thành thử Đức Phật Thích Ca cũng sanh như ai kia vậy. Nhưng Tiền căn của Ngài cao siêu hàng phẩm của Ngài tới Phật vị, cho nên sự sáng suốt khôn ngoan của Ngài phi phàm hơn hết nên cả nước Tích Lan (Ceylan) đều gọi Ngài là Mâu Ni tức nhiên một vị Hiền Triết vô đối của họ. Họ tôn tặng chức tước, tôn tặng Đức Thích Ca xứng đáng quá chừng, cũng như Đức Chúa Jésus Christ nhờ thiên căn sáng suốt thành thử người ta gọi Ngài là "Le Saint des Saint" (một vị Thánh trên các Thánh) Đức Lăo Tử, Đức Khổng Phu Tử cũng thế, các vị ấy đều do nơi tiền kiếp phi phàm mà thôi, chớ các vị ấy xác tục cũng như ta, người cũng như ta, sống chết cũng như ta, đầu óc trí năo cũng như ta, sống trong cảnh khổ năo cũng như ta.

Bần Đạo ước mong các con cái Đức Chí Tôn hiểu đặng các điều chơn thật ấy, đặng tu, cố gắng làm sao cho phi phàm, làm sao ḍm tánh đức của Đức Chí Tôn thế nào? học đ̣i cho đặng huệ quang của Ngài ban cho th́ trí năo ta mới thông suốt như Ngài đặng.

Trước kia Đức Phật Thích Ca đă thành Phật đặng, th́ chúng ta cũng thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẽ ấy. Bần Đạo mong mỏi cả con cái Đức Chí Tôn cố gắng học đ̣i như Ngài đặng thành Phật như Ngài vậy.

 

 

2. CHỮ HIẾU TRONG NHO GIÁO

 

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp đêm 15-4 Ất Mùi

Đêm nay Bần Đạo giảng cho đám thanh niên Nam Nữ để ư nghe cho lắm. Đêm nay Bần Đạo giảng chữ Hiếu, đương nửa thế kỷ 20 nầy, đạo đức suy vi, nhơn luân điên đảo, phong hóa cổ truyền do nơi tinh thần chơn chất hiền lương của cổ nhân đă để lại bị văn minh khoa học nó làm cho cả tinh thần đạo đức đều mất quyền nghĩ cả khoa học từ thế kỷ 20 nầy, nó đă đem lụng lại cho nhơn loại những ǵ? Thật ra cái sanh sống của nhơn loại nó có thay đổi, nó có hướng về duy vật nhiều hơn là tinh thần khoa học, nếu để tâm suy gẫm th́ ta ngó thấy, nó có thể tạo hạnh phúc cho xác thịt nhơn loại mà nó làm cho tiêu hủy cả tinh thần loài người cũng có.

Những nhà triết học Âu Châu nhứt là Pháp, đă nói một câu rất chánh đáng, chánh đáng mà có khuyết điểm khoa học lắm lắm đó vậy. Họ nói rằng: "La science sans conscience est le plus grave danger de l'existence humaine" khoa học không có thiên lương là một đều nguy hiểm cho sự sanh tồn của nhơn loại, thật quả vậy, nếu như nhơn luân của cả toàn nhơn loại mà không có phương pháp cố thủ nó lụng lại đặng, nó đă điên đảo rồi, cái nhơn luân ấy làm sao nó làm căn bản cho nhơn loại.

Nay v́ thiếu nhơn đạo, nhơn loại không biết yêu ái với nhau, chỉ tranh sống, chỉ tranh mạnh, mong làm bá chủ của toàn cầu, gây biết bao chiến tranh khổ năo; chẳng phải hao về sanh mạng mà thôi, mà hao cả phú hữu nơi mặt đất nầy mà chớ, biểu làm sao nhơn loại không thống khổ cho đặng. Ai đời họ đă làm một điều trái hẳn luật Thiên nhiên của Tạo Đoan mà chính ḿnh Đức Thánh Nava ở tại Đền Thánh La Mă đă buộc phải lên tiếng, sanh dục không cần nam, nghĩa là người đàn bà không cần có chồng mà muốn có con khoa học có thể cho có con đặng, nếu như cái t́nh trạng ấy quả nhiên xô đẩy nhơn loại đi tới một cái địa điểm chúng ta sẽ ngó thấy ǵ? Chúng ta ngó thấy Đạo luân thường của nhơn loại sẽ bị hủy đi mà chớ. Đi tới mục đích đó biểu sao cả tinh thần con người không hướng về vật h́nh rồi cái Đạo nhơn luân không đếm xỉa đến, thử hỏi nếu một trẻ thơ kia sanh ra không có cha, cha nó là một cái ống bơm kia mà thôi, thử cái Đạo nhơn luân của nhơn loại đă ra sao mà chớ.

Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra cái thuyết duy vật của Cộng sản đáng lư lắm vậy. Trót đă xô đẩy tới cảnh tượng đó, không cần biết Tổ phụ Tông đường cha mẹ là chi nữa hết? Ông nội cũng đồng chí, bà nội cũng đồng chí, ông ngoại cũng đồng chí, bà ngoại cũng đồng chí, đồng chí cha, đồng chí mẹ, đồng chí anh, đồng chí em, cả thảy đều là đồng chí. Cái thuyết duy vật ấy do nơi thất Đạo nhơn luân mà sanh ra đó vậy.

Bây giờ nói tiếp qua cái giá trị chữ Hiếu, văn minh Nho Tông của chúng ta là ǵ? Tưởng cũng không cần ǵ nói cho mấy người lớn nghe, Bần Đạo chỉ giảng cho đám thanh niên Nam, Nữ mà thôi.

Mấy đứa nhỏ có biết cha mẹ đă sanh ra nuôi nấng được cho nên h́nh, nên vóc, cái cam khổ của cha mẹ như thế nào mà chớ.

Hễ có rầy la có dạy dỗ, có nhiều đứa cường ngạnh lén lút ra ngoài nói: Ổng vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa xả, có nhiều khi ra sau lén lén ngồi rủa đủ thứ. Tới chừng biết khôn ngoan đến tuổi già, cả tâm năo và lương tâm của ḿnh sẽ cắn rứt và sẽ h́nh phạt một cách chừng đó mới khôn ngoan.

Hại thay! Ôm một đứa con đỏ từ vú sữa mớm cơm, nuôi cho nên h́nh, nên vóc, thật ra không biết bao nhiêu khổ năo truân chuyên của cha mẹ, có nhiều khi phải hy sinh cả hạnh phúc của ḿnh, để cả trí năo, cả tâm hồn, cả giọt mồ hôi nước mắt để nuôi con, biết bao nhiêu gia đ́nh không phải dở, mà nghèo v́ con nên khổ, mấy đứa nhỏ có biết điều đó đâu. À mà có biết chăng là khi nào mấy đứa bây có chồng có vợ, tới chừng bây có con đó mới biết cam khổ nuôi con bây như thế nào, bây mới biết ơn cha mẹ là nặng.

Tiên Nho có nói: "Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân" có nuôi con là thế nào mới biết ân trọng của cha mẹ, những nhà Đạo đức xưa kia trong cửa Đạo Nho Tổ Phụ ta hay để lời than, hễ đọc đến làm cho ta khổ năo cả tâm hồn: "Ai ai phụ mẫu sanh ngă cù lao, dục báo thâm ân hiệu thiên vơng cực", không có thế ǵ mà tưởng tượng được, tỏa ra cả, tâm hồn chí hiếu gặp một cái nước cũng như nước Việt Nam cả thảy đều có hạnh phúc là ăn no mặc ấm, dầu cho miệng lưỡi đă nói một tiếng khổ chớ một sắc dân hạnh phúc hơn các sắc dân toàn cầu đa số vậy.

Bần Đạo c̣n nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra sao, mà cả thảy thiên hạ đều đói, Bần Đạo nghe được một cái t́nh trạng rất khổ năo lương tâm là có một gia đ́nh con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa cao gạo kém, buổi nọ con nó đă nhịn đói đôi ba bữa, mà thứ con nít nhịn đói thử như thế đó không la làng la xóm sao được, la rầy um xùm nên cha mẹ chịu không nỗi, bây giờ kiếm cơm cho con ăn mà không ra, rồi gạt nó cũng chụm lửa lên ở trong bếp lấy trấu bỏ trong nồi cơm vậy, bắt lên rồi mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh giữ nồi cơm rồi lén ra sau hè thắt cổ tự vận. Mấy em có biết điều đó đâu, cái hiếu nếu mấy em không trả cả một đời mấy em chưa hề khi nào nên người bao giờ "Nhơn sanh hiếu nghĩa vi tiên" không hiếu nghĩa không làm ǵ nên người được.

Bần Đạo thuật một cái bài học hồi c̣n học trong trường Nho, Thầy của Bần Đạo dạy: "Tâm đạo cảm Thiên, Hiếu đạo cảm Thiên", ở trong cổ nhơn vị sư ổng dạy một tích làm từ đó cho tới lớn không buổi nào quên hết.

Nhà Đại Minh Hùng Vơ có một người học tṛ khó mẹ góa con côi học giỏi lắm, duy có nghèo, lớp nào lo học, lớp nào lo làm mướn nuôi mẹ với nuôi thân. Khi nọ người mẹ đau bịnh quá văng. Cái tục lệ nhà Minh buổi nọ, ở ngoại thành không được phép vô nội thành, chỉ cách có một dăy trường thành mà thôi. Hễ ai vô nội thành mà rách rưới xin ăn đều bị đuổi tống ra, ai mặc đồ tang phục mà vô nội thành cũng bị đuổi ra. Người học tṛ khó ấy tính vô nội thành đặng hành khất về chôn mẹ, mà hễ bận đồ tang phục vô th́ bị đuổi. Bây giờ anh ta mới gọi là "Tâm tang" anh ta xé một miếng khăn tang bằng ngón tay, rồi mới xẻ cái vú ra một đường nhét vô trổng, ngoài mặc áo học tṛ như thường để vô nội thành, gọi là Tâm tang, đi vô nội thành đặng đi xin về chôn mẹ.

Nhơn khi đó nhóm ngoại ô ngay chỗ đó lửa phát cháy, cháy một cách dữ dội lắm, làm cho ông Đại Minh Hùng Vơ lên Hoàng cung hoảng hốt. Thấy dân chúng khổ năo ổng cầu nguyện với Trời đặng cho ngọn lửa tiêu xuống đi, ổng vừa ngó trên ngọn lửa ổng thấy Quan Thánh Đế Quân, Quan B́nh và Châu Xương hiện h́nh đứng trên ngọn lửa đặng làm cho ngọn lửa ấy tắt, th́ khi đó đă cháy hết xung quanh rồi, chỉ c̣n có một nhà mà thôi, cái nhà ông học tṛ khó có thây chết của mẹ.

Ông Đại Minh Hùng Vơ đứng trên cái Dịch đài Hoàng cung ḍm thấy Quan Thánh, Quan B́nh và Châu Xương đứng trên ngọn lửa, ổng bái, ổng lạy đặng cám ơn, nhưng mà ổng vừa lạy ổng vừa ngoắc th́ Đấng ấy đến ngay trước mặt của ông Hùng Vơ, rồi Quan Thánh bái ông Hùng Vơ nói: Em chào Đại Ca, rồi ông Đại Minh Hùng Vơ liền biết ḿnh là Lưu Bị tái kiếp, mới hỏi lụng lại Quan Thánh: Tam Đệ hà tại? Hỏi vậy Tam Đệ là Trương Phi bây giờ ở đâu? Trấn Bắc Tướng Quân tên ... ǵ đó (lâu quá Bần Đạo quên) nói rồi ba h́nh liền biến mất.

 Ông Đại Minh Hùng Vơ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đ̣i Trấn Bắc Tướng Quân về, rồi bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đ̣i cấp thời đây, đ̣i về đêm ngày sợ gian thần sủng nịnh nó tâu vô tâu ra sợ về mang hại nó mới đồ mưu làm để ổng nằm trong cái ḥm rồi đệ tờ sớ nói ổng chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên th́ Ngài sống lại, không yên chúng tôi chở Ngài về biên thùy.

V́ cớ cho nên ḥm hồi xưa họ có soi lỗ dưới đáy đặng cho có lỗ hơi, cái tục lệ đó như vậy? Khi ông nọ về triều đ́nh ông Đại Minh Hùng Vơ mừng rồi ổng khóc lóc là nghe tin bạn chết, mừng là thấy Trấn Bắc Tướng Quân đă về tới, dầu chết đi nữa c̣n thấy thi hài của em, tưởng đâu là mưu như vậy ai ngờ khi vở nấp ḥm th́ đi dọc đường để lên để xuống bị nghẹt hồi nào ông kia chết thiệt. Một mặt ổng đ̣i ông nọ, một mặt ổng sai đi ra đặng tra gạn coi tại sao hết thảy nhà cháy mà nhà đó c̣n. Tới chừng tra ra th́ ḷi ra người học tṛ khó v́ hiếu. Ông vội đ̣i rồi tức th́ phong quan hàng Văn Minh Điện Đại Học Sĩ, sau lên tới Giáng Nghị Đại Phu, vậy thấy cái hiếu, cái hiếu động Trời, động đất như thế đó mấy em bất hiếu, cả thảy bất hiếu Trời đất xử định mấy em ra sao?

Từ đây tới sau dặn đừng có kỳ kèo đối với cha mẹ. Hễ c̣n thanh xuân chưa lịch lăm thế t́nh, hăy nương nơi cái hay cái biết của cha mẹ. Cường ngạnh tới chừng sau rồi có một trăm tuổi già ngồi khóc lên khóc xuống cũng không ích, ăn năn tự hối như Bần Đạo đây có nhiều khi ngồi nơi nào nhớ, moi óc nhớ coi cha nói ǵ, mẹ nói ǵ, t́m gần trối chết, t́m đặng nhớ.

C̣n bây giờ đă có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la th́ kỳ cào, quạo quọ, ở trong cửa Đạo nầy Bần Đạo xin đứt cả thảy mấy em thanh niên rán giữ chữ Hiếu làm gương mẫu.

 

3. TÁNH KHIÊM NHƯỢNG

 

 *Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Đền Thánh đêm 30-5 Qúi Tỵ

Mấy em Thanh niên nam nữ lưỡng phái.

Đêm nay Bần Đạo giảng đặc biệt cho mấy em đó. Cái tương lai cơ nghiệp Đạo, tương lai của Thánh Thể Đức Chí Tôn đào tạo cho mấy em, mấy em sẽ nối chí cho chúng Qua, hay là mấy em lập thân danh đặng một ngày kia vào hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn tại thế nầy. Qua c̣n giảng giải cho mấy em đi trong khuôn khổ của Đức Chí Tôn. Muốn cho mấy em phải đào luyện nên Qua nói phần tu tức nhiên trau giồi tánh đức của mấy em đặng xứng đáng cái phận sự trọng yếu của mấy em tương lai ngày sau kia.

Hôm nay Qua giảng về sự thật và cái hay của tánh đức hạ ḿnh và khiêm nhượng đổi lụng lại phản lực của nó là: Tự cao, tự tôn, tự đại.

Chúng ta thử xét đoán tại mặt thế nầy, ta mang thi phàm xác thịt cũng như ai, ta xét đoán lại coi ta có hơn ai chăng? Có đặng hơn cái chi mà ta tự cao, tự tôn, tự đại? Cũng ở trong ḷng mẹ mà ra, ai cũng sanh trong một khuôn luật như ta. Thân h́nh cả thiên hạ nơi mặt địa cầu này hai ngàn bảy trăm triệu người, ta thử so sánh có thể hơn hai ngàn bảy trăm triệu người đó hay chăng? Mà ta tự tôn, tự đại. Ta cũng như một hột cát ở băi sa mạc kia.

Lấy theo t́nh lư mà luận, đầu ta cũng một đầu, thân ta cũng một thân, ta không phải ba đầu sáu tay hơn ai mà ta tự tôn, tự đại, nếu lấy theo h́nh thể mà luận th́ thân nầy thế nào, th́ thân của bạn đồng sanh ta cũng như ta vậy. Ta không có lư do ǵ gọi ta hơn kẻ đó, hơn bạn đồng sanh ta mà ta tự tôn tự đại. Nếu như ta luận về mặt tinh thần tại sao ta c̣n được Đại Từ Phụ ban cho ta khôn ngoan khéo léo, biết nên, hư, phải, quấy, lấy tinh thần đặng định hướng cái cái mạng sống của ḿnh coi có mục đích chuẩn thằng không?

Ôi! Thoảng như bạn đồng sanh ta thiệt thà hơn ta thiếu kém về mặt trí thức tinh thần hơn ta, ta ngó thấy, nếu ta hơn bạn ta là nhờ căn tu của ta dày hơn họ chút thôi, c̣n căn tu của họ mỏng hơn ta một chút mà thôi, lấy theo lư luận về căn tu ấy, th́ ta hơn họ, hơn mảy may mà thôi, hơn một chút xíu thôi, không phải đủ mà ta tự cao, tự tôn, tự đại. Trái ngược lại, nếu người bạn đồng sanh thiếu kém hơn ta, khiếm cảnh tu hơn ta, mạng căn quả kiếp nặng nề hơn ta, th́ ta phải thương yêu họ, tội nghiệp dùm họ, chớ ta không có quyền nào thù ghét họ, coi họ là hèn hơn ta, ta cao trọng hơn họ là không có lư do vậy.

Bây giờ trái lại cái phản lực đó, chúng ta thử nghĩ coi, ḿnh phải khiêm nhượng chơn thật hay xảo trá? Nếu kẻ nào tự cao, tự tôn, tự đại, mà giờ phút nầy không biết hạ ḿnh đặng chiều chuộng người, th́ đời nó không buổi nào thiên hạ thương được, dầu cho từ buổi nhỏ dĩ chí 100 tuổi già đến chết nó vẫn học măi thôi, không buổi nào gọi tự đủ. Đời nó 100 tuổi vẫn t́m tàng học măi học sách đời, học sách Thánh Hiền để lại học cả hay ho khéo léo của các vị Giáo Chủ đạo đức tinh thần để lại, mà nếu không biết khiêm nhượng th́ không ai thèm dạy mà chúng c̣n ghét là khác, nếu kẻ nào như vậy th́ chúng bỏ xó phải chịu cái phận khổ năo mà thôi không ai thèm dạy hết, bởi v́ người ta ghét, không ai ngó ngàng tới đâu có dạy dỗ ǵ mà nên được, dầu cho một kẻ thiếu niên kia mà biết khiêm nhượng phục sự một ông già.

 Tuổi ḿnh đang thanh niên mà đặng ông già giáo hóa ḿnh, khi tuổi ḿnh c̣n non mà trí đặng già là nhờ biết khiêm nhượng. C̣n như những kẻ không biết hạ ḿnh hiu hiu tự đắc, tự cao, tự đại, thành ra cái giá trị của nó đối với thiên hạ v́ kiêu một chút mà người ta bất măn, v́ nó tự cao, tự tôn, tự đại, xấc xược dối trá không đáng giá ǵ hết, mà lại chọc cho thiên hạ ghét gớm thân danh ḿnh th́ dầu cho học bao nhiêu người ta cũng vẫn ghét vẫn gớm thôi.

Bây giờ cái tính đức của sự khiêm nhượng, lấy theo h́nh thể mà luận, ḿnh biết thân ḿnh, ḿnh vẫn kiếm thế học măi. Ḿnh vẫn hạ ḿnh kiếm thế hiểu lấy ḿnh và biết người, th́ sự khiêm nhượng hạ ḿnh có cái hay, dầu cho cái giá trị của ḿnh không nên ǵ hết, nhờ sự khiêm nhượng mà người ta thương ḿnh, nâng đỡ ḿnh, d́u dắt ḿnh, đưa ḿnh lên phẩm vị xứng đáng với ḿnh, cũng nhờ sự khiêm nhượng ấy mà người ta tôn tặng. Cái đó nói thiệt là hơn, c̣n những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại, nếu ḿnh đi con đường nguy hiểm tới trước mắt chết cũng thây kệ ḿnh cũng không ai nói, là v́ chúng ghét. Nhưng hại thay! Chúng c̣n bắt ḿnh làm một sanh vật để họ thí nghiệm.

Bây giờ lấy tinh thần mà luận, sự khiêm nhượng buộc ḿnh phải khiêm nhượng, chính ḿnh chưa đủ ǵ hết.

Đức Khổng Phu Tử kia c̣n bị một đứa con nít là Hạng Thác dạy Ngài thay! Đến khi gặp Đức Lăo Tử Ngài nói, cái thuyết nhơn luân để tạo xă hội cho thế gian. Cái thuyết của Ngài, nếu ta nghĩ Đạo của Ngài th́ rộng không biết bao nhiêu, mà Đạo của Ngài đối với Đức Lăo Tử nó vẫn thơ sinh, th́ chẳng hề khi nào làm thỏa măn đặng cả nhơn tâm, của thế thái nhơn t́nh được. Cái thuyết lập xă hội thơ sinh của Ngài đối với Đạo của Đức Lăo Tử th́ nó già, c̣n của Đức Khổng Phu Tử c̣n thiếu niên, c̣n thơ ấu nên bị Ngài trích điểm.

Thử nghĩ một vị Thánh như Đức Khổng Phu Tử bị một đứa con nít dạy, rồi bị ông già chê mà Ngài cũng khiêm nhượng, nên chúng ta nh́n nhận Ngài là một vị Thánh sống hiển hiện tại thế.

C̣n những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại bất quá làm hề cho một người thiếu trí coi chơi chớ cái giá trị không đáng ǵ hết, rốt chuyện thiên hạ coi nó là giả không có giá trị chi đâu, mà tự cao, tự tôn, tự đại.

Bần Đạo nói: Những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại là giả dối, người đó không c̣n cái giá trị ǵ đặng sống cùng thiên hạ xă hội nhơn quần, v́ họ mất cả tinh thần cả h́nh thể đó vậy.

Ấy vậy mỗi kiếp sống của chúng ta đây, Bần Đạo thường giảng là cái kiếp duyên, chỉ sống đây là một kiếp thường mà thôi c̣n cái tánh đức tự cao, tự tôn, tự đại không khi nào thiên hạ thương được, nên kiếp sanh ấy xét ra sống chi vô ích không ăn thua ǵ hết.

Bần Đạo thường giảng, cái sự yêu thương là một của cải Thiêng Liêng, nếu cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn tạo nó đặng, th́ dầu cho Cửu Phẩm Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.

Bần Đạo đă nói: Nếu chúng ta làm cho người chí thân ta, trong thân ta, máu thịt ta, thương ta được, giá trị nó là đồng.

Làm cho những kẻ không phải trong thân ta, người ngoại nhân kia, thương ta được giá trị nó là bạc.

Làm cho những kẻ thù địch ta, thương ta được giá trị nó là vàng.

Ba món báu ấy mà tạo đặng, th́ cái kiếp sanh này dầu cho Cửu Phẩm Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.

 

 

4. SO SÁNH LĂO GIÁO VÀ KHỔNG GIÁO    

 

Cùng một tinh thần phục cổ, nhưng Lăo Tử khác hơn Khổng Tử ở chỗ, một đàng th́ sùng thượng Đạo lư của cổ nhân để làm phương châm xuất thế, c̣n một đàng phục hoạt Đạo Thánh Hiền để làm phương châm nhập thế.

Khổng Tử cố đem dịch lư và Đạo thống Nhân Nghĩa của Phục Hy, Văn Vương, Châu Công giản hóa người đời quyết thực hiện một xă hội thánh đức như thời kỳ vua Nghiêu, vua Thuấn.

Đến như Lăo Tử th́ không thế, Ngài đem cái học ngột truyền vô ngôn, vô văn tự thực hành như Khổng Tử, mà trái lại dùng h́nh thức hữu vi của cơ ngoại truyền dắt dẫn người đời trở lại cơ bí truyền vi nội tỉnh. Có thể nói một cách giản dị hơn: Khổng Tử từ trên nguồn đổ xuống c̣n Lăo Tử từ nghịch ḍng trở lại nguồn.

Ở thời kỳ thái cổ, tâm tánh con người mẫn huệ, dể thông cảm nhau, nên không cần văn tự hay ngôn ngữ. Như kinh “Huỳnh Đ́nh” là một kinh bí văn của Đông Hoa Phù Tang Đế Quân. Bởi không phải ai cũng đạt đến hay hiểu nổi, nên Lăo Tử dùng văn tự giải ra theo tŕnh độ trí thức của thế nhân. Đó là phần ngoại truyền hay ngoại thiên. Nó chỉ là cái bông, cái hữu h́nh để cho người nương theo đó mà đạt đến cái vô h́nh.

Nhà Đạo học Ngô Nguyên Tử trong Huỳnh Đ́nh Kinh Giải có nói rằng: “Huỳnh Đ́nh xuất ở tiên thiên nhưng chức ở hậu thiên. Nó vốn không h́nh tượng, không danh tự, nên cưỡng vẽ nó bằng cái ṿng tṛn và cưỡng gọi nó là Huỳnh Đ́nh. Nhân cái ṿng tṛn ấy sanh ra vạn vật nên gọi nó là Huỳnh Đ́nh, và nó biến hóa không lường nên gọi nó là Thần. Huỳnh Đ́nh là thể c̣n Thần là dạng, ấy một vật mà có 2 tên. Bên Nho tu nó gọi là môn Đạo Nghĩa, bên Thích tu nó gọi là Pháp Môn Bất Nhị, c̣n bên Đạo tu nó th́ gọi là Cửa Môn Diệu.

Mượn cái hữu h́nh hữu danh  (Huỳnh Đ́nh) để đạt đến cái vô h́nh vô danh (Đạo) đó là phương pháp phản bổn hườn nguyên của Lăo Tử quyết thực hành hầu đưa nhơn sanh từ cái tiểu thể hữu vi vọng đọng trở về nhập với cái đại thể duy nhứt vô vi tịch tỉnh.

Theo Lăo Tử, đời sở dĩ hổn loạn là v́ người đời quá thiên trọng về trí xảo, về đa sự. Đời càng trí xảo đa sự th́ càng nghịch hành lại Đạo thường. Một khi chẳng biết Đạo thường mà vọng động là theo ư riêng th́ ắt gặp điều nguy hại! (Bất tri thường, vọng tá hung). Để thuận hành với Đạo thường, để nhập với Đạo thường, Lăo Tử chủ trương tỉnh sự (bớt việc) bởi lẻ bởi vô vi hiếu tỉnh, vô sự, vô dục th́ con người sẽ tự hóa, tự chánh (ngay chánh), tự phú (nhong phú), tự phát (tánh thuần phát).

Cái khái niệm về vũ trụ và nhân sanh nầy được Lăo Tử thuyết minh trong Đạo Đức Kinh.

(Trích trang 85-87 Đời Hạ Nguơn của Vương Kim)

 

 

5. SỰ BIẾN THIÊN CỦA HỌC THUẬT NHO GIÁO

 

Nho giáo như đă xét từ đời Xuân Thu đến hết đời nhà Thanh bên Tàu kể có 2.500 năm. Trong khoản thời gian ấy, Nho giáo có lúc thịnh lúc suy, nhưng bao giờ cũng có cái tinh thần rất mạnh để đối phó với thời cuộc mà sinh tồn, mà phát đạt. Nhờ có cái tinh thần ấy cho nên cái học thuật tuy có biến thiên nhiều lần, nhưng cái đặc tính của Nho giáo vẫn không mất mà lúc nào cũng giữ được cái thái độ tôn nghiêm, đủ để làm người ta tin phục.

Xét về sự biến thiên của học thuật th́ từ đời Hớn trở đi, ta có thể chia Nho Giáo ra làm hai cái học:

1.-Một là cái học nghĩa lư.

2.-Hai là cái học từ chương.

Đối với cái học nghĩa lư th́ sau đời Khổng Tử, Nho Giáo có hai phần lớn là phái Mạnh Tử và phá Tuân Tử. Hai phái ấy đều xưng là theo cái học của Khổng Tử, song mỗi phái mỗi chủ trương một tôn chỉ khác nhau. Từ cuối đời Chiến Quốc đến hết đời Tần sang tới Hán Vũ Đế trở đi thời càng ngày càng thịnh. Song cái học thuật trong thời đại từ Hán đến Đường chỉ chú trọng đến sự t́m nghĩa lư trong các kinh truyện, thành ra một lối học gọi là Huấn Hỗ Học. Kế đến đời Tống các Nho gia bỏ lối học huấn hỗ mà t́m lấy những vi ngôn đại nghĩa của Thánh Hiền, lập ra pháp lư học, đem cái tư tưởng lên tới cơi siêu vật và gây thành cái triết lư rất cao minh.

Phái lư học của Tống Nho có 3 học thuyết:

1 là tượng số học, 2 là Đạo học, 3 là tâm học.

Tượng số học do Thiện Khang Tiết lập ra, nhưng về sau không thịnh hành; Đạo học và Tâm học th́ từ đời Nam Tống đến đời Minh đều cùng nhau đối lập. Đạo học lấy Tŕnh Chu làm tiêu biểu, mà tâm học th́ lấy lục vương làm tiêu biểu.

Nho giáo đến đời Thanh th́ chia làm mấy phái như Hán Học Phái, Tống Học Phái và sau cùng là Tân Học Phái. Hán Học Phái lấy việc khảo cứu các kinh truyện làm tông chỉ. Tống Học Phái lấy các học thuyết của Tống Nho làm tông chỉ. Tân Học Phái lấy việc theo nghĩa theo sáu kinh làm tông chỉ. Các học phái ấy đều muốn sửa đổi cái lưu tệ để khiến sự học được thích hợp với sự ứng dụng ở đời.

Ngoài những học phái chuyên tri về đường nghĩa lư, c̣n có cái học từ chương chỉ chú trọng ở mặt khoa cử để đem học giả vào con đường danh lợi. Cái học khoa cử khởi từ đời Hán rồi đến đời Đường mới cực thịnh. Nho Giáo nhờ cái học ấy mà làm ra khắp thiên hạ, nhưng cũng v́ cái học ấy mà thành ra cái học hư văn, làm mất cái chân tướng sự học của Thánh Hiền.

Hoàng Lê Chân đời Thanh sơ nói rằng: “Cử nghiệp thịnh nhi Thánh học vong” thật là nói đúng cái bịnh của sự học khoa cử vậy.

(Trích trang 383-384 Nho Giáo Quyển Hạ của Trần Trọng Kim)

 

6. NGƯỜI TRONG THỜI KIM NGÂN SỐNG CHUNG VỚI THÚ DỮ

 

Trong Thánh Kinh Adam và Eva sống trong vườn Eden cùng thú dữ như cọp, beo, rắn, rít…là v́ cái tâm con người thời ấy hết sức thuần lương, không sát hại loài vật để làm món ăn, mà chỉ dùng hoa quả. Loài cầm thú biết vậy nên không lo sợ, sống chung với con người không chút nghi kỵ, không sợ mồi bẫy, đâu đâu đều là t́nh trạng ḥa hảo tương thân tương ái cả.

Phải chăng đây là một huyền thoại  hay là một sự thật.

Người và cầm thú có sự thông cảm hiểu nhau, khi nào cầm thú cảm thấy ta thương yêu chúng như đồng loại. Ư muốn của con người phát ra một luồn điện mà cầm thú nhận được một cách tự nhiên v́ chúng sống toàn theo thiên tính.

Câu chuyện Thánh Traucois d’Assise đă dụ được con sói ở Gubbio, cũng như Ramana sống với một con cọp trong hang, đâu phải là việc ngọa truyền . Mỗi đêm một con cọp to lớn vào hang với Ramana trú ngụ và liếm tay người, rồi nằm ngủ dưới chân người mỗi đêm và chỉ ra đi vào buổi sáng.

Brunton trong quyển L’Inse Secrete có thuật câu chuyện sau đây: Ngày kia ông gặp bất ngờ một con rắn hổ đang phùng mang le lưỡi, miệng hả lớn, nhưng không có ư tấn công ông. Ông la hoảng lên, có nhiều người chạy lại, nhưng chưa kịp can thiệp th́ có một người lạ nào đó ngồi bên con rắn dữ đang vuốt ve nó. Nó cúi đầu yên lặn không c̣n hả họng le lưỡi nữa. Bổng hai người khác chạy lại th́ con rắn bổng chui vào bụi mà đi mất.

Người lạ mặt là một đệ tử của Ramana. Người ấy không phải dùng phép lạ ǵ để qui phục con rắn mà có lẻ là một người đă thực hiện được cái tâm thái ḥa của huyền đồng cùng mọi vật. Đây là lời người ấy cắt nghĩa cho tôi câu chuyện kỳ lạ ấy: “Tôi không ǵ phải sợ con rắn ấy cả. Tôi đến bên nó  mà ḷng thản nhiên không thù hận giết chóc nó, ḷng tôi tràn đầy một t́nh thương dạt dào với tất cả các loài vật trên đời!”

….

So sánh với đoạn trên nầy của Patanjali, cũng có gần 20 thế kỷ “Thú dữ không bao giờ tấn công kẻ mà trong bảy năm ḷng không chút ǵ oán hận”. Vivekananda cũng quả quyết: “Những con thú rừng rú nhứt cũng không thối lui trước kẻ mà trọn 7 năm không bao giờ có tư tưởng ác.”

Lăo Tử trong Đạo Đức Kinh cũng đồng quan điểm trên khi ông bảo: “Ḷng hư vô  là trở về với tâm trạng của đứa con đỏ (phục qui về anh nhi): “Hàn đức chi hậu, tỉ như xích tử, độc trùng bất thích, mảnh thú bất cứ, cược điểu bất bác”. (Kẻ mà Đạo đức dầy giống như con đỏ: độc trùng không cắn, thú dữ không hại, ác điểu không bắt). Ông lại nói ở một chương khác: “Kẻ nào biết được Đạo, nhiếp sinh đi đường không gặp thú dữ, loài tê hay loài cọp không hại. Tê không chỗ đâm, cọp không chỗ vấu”.

Biết được Đạo nhiếp sinh th́ là thực hiện được tâm hư, đứng trên nhị nguyên, không bao giờ oán ghét ai. Nên lưu ư đến con số 7 đă nêu trên: nó là một con số huyền bí của sự hoàn thành của con số 3. Liệt Tử nói về bài học nhiếp sinh của ông như sau:

“Ṛng ră bao năm ta vào cửa Thầy, ḷng không dám nghĩ đến thị phi, miệng không dám nói đến lợi hại, được Thầy ban cho một cái nh́n. 5 năm sau miệng không dám nói đến lợi hại Thầy ban cho một nụ cười. 7 năm sau ḷng thản nhiên ḷng không nghỉ đến thị phi, miệng không nói đến lợi hại, Thầy cho phép ngồi cùng một chiếu”. Được ngồi cùng chiếu là được ngan hàn, tức là người đă được Đạo, đă thực hiện được Tâm Hư.

(Trích trang 130-133 Chu Dịch Huyền Giải cua Nguyễn Duy Cần)

 

 

7. NGUYÊN LƯ CỦA CHƠN VÀ GIẢ

 

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Báo Ân Đường Kim Biên (theo lời ghi âm 1957)

Hôm nay Bần Đạo xin giản về nguyên lư Chơn và nguyên lư của Giả và ta t́m thử phương pháp đăng tránh cái Giả theo Chơn. Thật ra sống trong đời nầy muốn t́m ra cái Chơn cũng không phải dể mà muốn tránh cái Giả cũng thế. Ta muốn biết cái lư của nó th́ ta t́m phương cách nào đặng t́m ra tướng diện thiệt của nó, bởi cớ đó là điều trọng yếu trong kiếp sống của ta đó. Cái Chơn chúng ta thấy trong vạn linh nào là vật chất, thú cầm, nhơn loại ta thấy ba phẩm đó có thấy phẩm nào thế phẩm nào mà biết có vụ giả được.

Nguyên lư cái Chơn ở đâu? chúng ta thường thấy trước mắt về vật chất như vậy như sắt, đá, gạch ngói, vật bất động đó, tánh chất của nó, dầu cái nguyên lư của nó có đi nữa, nó cũng không hại. C̣n chúng ta thấy trong thú, điểu thú chẳng khác nào như con gà kia, nó đẻ trứng ra nó biết ấp. Không biết ai dạy nó, mà nó biết ấp trứng đó, rồi nở con, nó biết t́m phương thế nuôi con nó. Bè con nó c̣n có thể dùng thân của nó để làm nhà bao bọc, che đậy, binh vực.

Con ḅ, con trâu hay con heo, các vật loại, dầu cho vật loại đó lớn như con voi, nó có cái thiên tính của nó tự nhiên nó chơn thật, đẻ con ra biết thương, biết bảo hộ, biết binh vực, biết nuôi nấng một cách chơn thành. Luật thiên nhiên đă định cho nó thế nào, nó theo thế ấy, nó không thay đổi chi hết. Duy có loài người th́ thật khó lắm, bởi càng khôn ngoan trí thức chừng nào th́ cái Chơn đó họ hay làm Giả quá chừng quá đổi, Chơn bóng dáng mà họ thường lấy cái giả đó là nhiều, cái giả là nhiều lắm vậy.

Tại sao? Tại cuộc đời chúng ta sống trong xă hội, khôn th́ sống, bóng th́ chết, dại th́ nghèo khổ, đói khát, hèn hạ, khốn th́ sang quyền quí. Cuộc đời tranh đấu đó làm cho con người phải kiếm thế tự bảo vệ lấy ḿnh, bảo vệ cái sống c̣n của ḿnh đặng cho khỏi thiệt tḥi cùng đồng sanh của ta trong xă hội. ôi thôi! Sinh ra một cái đời Đạo đức suy đồi, nhơn luân điên đảo th́ không có c̣n căn bản tinh thần Đạo đức, chẳng c̣n tâm lư chút nào hết. Hại thay! Nó có cái ảnh hưởng mật thiết, cái sống của ta với h́nh chất nầy nó liên hệ lụng lại với tâm hồn của ta. Có kẻ thơ chơn chơn, thật thật, thiệt thà lắm đối với ai cũng thế, cái thiên tính sinh ra nó có cái Đạo đức hiển nhiên trong ḿnh mà sống với họ ở đời, chung sống với thế sự, họ bị nhiều nổi áp bức, hiếp đáp lạ lùng.

Xă hội bất công đă làm cho cả tâm lư con người ta phải hư hoại hết, biểu sao quá khổ tâm hồn rồi, quá khổ thân thể rồi phải đi kiếm, kiếm nơi đặng an ủi. Kiếm ở đâu? Kiếm trong cửa Đạo. Từ cổ chí kim bao giờ cũng vậy, những kẻ đau khổ tâm hồn đến chừng muốn kiếm chỗ ẩn núp đó là vào trong cửa Đạo. Mà hại thay! Cửa từ bi Thiêng Liêng mở ra chẳng phải cho kẻ hiền lương nhơn đức mà thôi, lại mở cho toàn hết thảy thiên hạ. Rồi những kẻ gian hùng, ác đức, những kẻ xảo trá gian ngược đó đeo vô, chung vô, thành ra cửa Thiêng Liêng của Đạo cũng không tránh được cái Giả.

 Đi t́m Chơn có khi rồi gặp Giả, nó c̣n muốn chạy vô cửa chót hết đặng gửi tâm hồn của ḿnh, chung vô cửa Đạo lại c̣n gặp Giả hơn nữa, dể giả. Cái Giả đó mắc mỏ lắm, Giả là họ mượn cái màu chơn thật họ gạt lường cái tâm lư của ta. Nó mắc mỏ là dỉ nhiên khó giữ lắm, khó ǵn giữ lắm vậy. Thành ra cả tấn tuồng đời đă biến ra một tuồng gian ngược hung bạo đủ thứ hết. Cái bất công xă hội đó đă xô đẩy nhơn loại đi tới cảnh quá oan nghiệt. Nếu không nói rằng cái quả kiếp ấy, nhơn quả ấy, nhơn loại sẽ trả một cách mắc mỏ lắm vậy.

Bây giờ ta thử t́m thuốc…t́m thuốc đặng kiếm cái Chơn mà tránh Giả. Ta có thể nào t́m được hay không? Có chớ! Đời đă giả, ta chịu để thiên hạ chê ta ngu đi, rồi ta cứ chơn thật đi, hoặc may là một giống chơn thật, thật của ta đó trồng ra. Ta bị thiên hạ gạt đi, gạt một lần, đôi lần cho đến mười lần đi nữa, cho đến đáo để, rồi sự chơn thật của ḿnh đó cũng phải ra ánh sáng. Thiên hạ thấy biết cái h́nh dạng của nó từ khi nó ra thiệt tướng được rồi th́ có thể mắt thế gian truyền ra. Rồi những kẻ thân của ta thấy t́nh yêu ái chơn thật của ta đó, mới gieo giống trong tâm hồn của bạn của ta.

Bần Đạo không nói nhiều, không nói cả thiên hạ, mà khởi thử coi một cá nhân khôn hè, cư xử cho chơn thật đi, đừng gian hùng, đừng mưu sĩ ǵ hết, đừng lường gạt thiên hạ. Người đó dầu thiệt tḥi bao nhiêu, tôi tưởng không đến nước mà thiên hạ chà đạp, khi dễ lắm, không có, không đến mức đó. Ấy vậy, muốn câu cái chơn thật, muốn câu cái Chơn đó, ít nữa là ḿnh phải có cái Chơn mới câu được nó, c̣n ta không có Chơn th́ cũng như không có miếng mồi mà câu con cá quí báu của ta mà ta tính câu đó. Có nhiều khi cái sự chơn thật ấy bị đè nén, bị ngoại lực hay là phản động lực của nó đè xuống chôn vùi đi, rồi những người mà làm chủ đặng t́m lấy nó, chủ chơn thật  đó, phải bươi móc t́m tàng ra cực nhọc đáo để mà rốt chuyện nó cũng phải xuất h́nh nó ra được.

Nội cái Đạo Cao Đài của chúng ta, Đức Chí Tôn đến đưa cây cờ cứu khổ trót trên hai mươi năm, Bần Đạo tạo khôn biết mấy cây, hể đem nó ra rồi th́ thiên hạ hoặc là giành giựt nó, xé bỏ nó đi, đốt nó cháy đi không biết mấy hiệp. Cây cờ cứu khổ của Bần Đạo nó thay h́nh không biết mấy lần, nó bị khám phá, nó bị thiên hạ chà đạp không biết mấy lần. Mới đây, lần chót nầy, Bần Đạo đương cầm nó trong tay, chúng giựt đi, rồi nó đem lên núi chỗ hiểm địa làm cái thiết thành ở trển mà nhốt cây cờ đó vô. Dường đi t́m lại cho đặng nó chông gai hiểm trở không biết bao nhiêu mà nói. Mà đây rồi Bần Đạo cũng có phương thế lấy nó lại đặng, bởi nó là món báu chẳng của riêng cho ai mà báu đó là cho toàn thiên hạ. Đem nó ra, đưa trước mặt, ta tưởng hạng thượng lưu trí thức, có học, có đủ mưu chước hơn thiên hạ được thấy h́nh dạng nó, biết nh́n lại nó được. Nầy không, cả cái tâm t́nh của con người họ chỉ coi cá nhân của họ, cái quyền, cái lợi của họ mà thôi. Họ không biết thương đến sinh linh tộc chủng của họ, họ chưa biết coi cả thiên hạ làm nhà mà họ coi có một bản thân của họ mà thôi.

T́nh trạng đem cái Chơn đó ra rất khắc khe, khó ḷng lắm vậy, khổ năo lắm vậy. Con cái Đức Chí Tôn nếu biết phải tập tánh nhẫn nại, nhẫn nại cho đúng mức, rồi lấy cả trí năo của ḿnh mà đoán xét. Đức Phật có nói: “Tự giác nhi giác tha”, biết đâu một ngày kia tay Bần Đạo cầm không nổi, mà tất cả con cái Đức Chí Tôn cầm nổi cây cờ Thiêng Liêng đó, cây cờ Cứu Khổ của thiên hạ đó, Bần Đạo tin tưởng và mong cả cái năng lực của toàn thể con cái của Thầy, của Đức Chí Tôn giúp sức đặng trương cây cờ Cứu Khổ ấy lên một cách oai quyền và dinh diệu đặng cứu thế, cứu đời đang khổ năo đó vậy./.

 

 

8. KHOA HỌC THIỆN

 

Socrate, Đại Triết gia Hy Lạp, ngày nọ gặp nam thanh niên tên Xénophon trên một con đường ở thành Nhă Điển. Triết Gia giơ tay ra chận đứng thanh niên hỏi: “Anh biết ở đâu bán bánh thịt không?”

Thanh niên vội vă đáp: “Ở chợ”.

Nhà Hiền Triết hỏi tiếp: “Rồi anh biết ở đâu bán giày vớ không?”

Xénophon vừa nói vừa chỉ: “Th́ cũng ở chợ”.

Socrate khen giỏi rồi hỏi nữa: “Nhưng anh biết ở đâu người ta tập nên người thiện không?”

Chàng thanh niên ngơ ngác thú thật với Socrate: “Từ lâu không hề để ư khoa ấy”.

Triết Gia đáp: “Tất cả những hiểu biết và của cải ích ǵ cho anh, nếu anh không thành một người lượng hảo, chúng sẽ biến thành một khí giới hại anh, hại xă hội nếu lương tâm anh không được giáo luyện. Vậy anh hăy theo tôi. Chúng ta sẽ giúp nhau nghiên cứu khoa học cao cả nhứt của loài người là “ Khoa Học Thiện”.

Xénophon nghe lời. Nước Hy Lạp nhờ đó mà có một công dân kiến quốc xứng đáng.

Câu chuyện nầy, thưa bạn giúp ta để ư một vấn đề tối ư quan trọng của con người là lư tưởng luân lư.

Ai trong chúng ta cũng nhận thấy bằng kinh nghiệm, tự nhiên chúng ta khao khát sống thiện. Lắm lúc thấy ḿnh yếu đuối, tội lỗi, tầm thường, chúng ta nghe lương tâm thúc giục cải hóa cuộc đời.

Bourecau và Falory nói: “Mỗi ngày trong muôn ngàn trường hợp, chúng ta cảm thấy sự yếu đuối, sự tầm thường của chúng ta”. Mà cảm thấy như vậy tức là mặc nhiên chúng ta nhận con đường có một lư tưởng tuyệt vời phải chiếm đoạt là sống thiện cho đặng nên người đàng hoàng phải chuyên luyện khoa học thiện.

Tại sao?

-V́ là người mà không được huấn đức th́ không nên người.

(Trích trang 14 Thuật Sống Dũng của Hoàng Xuân Việt)

 

 

9. LƯ LÀ CÁI G̀?

 

Lư là cái ǵ? ở đâu có lư? Lư, số tượng có liên quan ǵ với dịch không?

Đầy cả khoản trời đất duy chỉ có một cái “lư” mà thôi! Có lư th́ có tượng, có tượng th́ có số. Dịch khởi nguồn ở tượng số. Khi tượng số đă thành h́nh th́ lư đầy đủ ở trong tượng số. Dịch được sáng tác chính ở bói toán. Khi bói toán đă lập th́ lư đă ngụ ở trong bói toán rồi.

Như vậy cái lư chẳng qua là Thái Cực, và cái số ấy cũng chính là Dịch mà thôi, cho nên câu nói có lư khi viết: Thái cực là nguồn của lư. Đồ Thư là tổ của số. Đấng Thánh Nhân bắt chước theo Hà, Lạc để làm dịch.

Chủ trương “lấy số để diễn dịch” của phái nầy cũng không phải là dở. Cho nên nhiều bậc đại nho tuy chủ trương chính thống theo Tiền Thánh, nhưng chẳng thể bỏ cái đặc sắc của thuật số. Thiên Ung một đại Nho đời Tống đă chẳng nổi danh thuật số với bộ Hoàng Cực Kinh Thế là ǵ? Chính ở điểm nầy, bọn quan tổng toản Tứ Khố Toàn Thư là Tôn Sĩ Nghị, Lục Tích Hùng mới nói: “Nhờ thế lực nhà Nho để thực hành rộng lớn ở đời…”

Gần đây, 3 nhà khoa học Trung Quốc: “Dương Chấn Ninh, Lí Chính Đạo và Ngô Kiện Hùng nhờ quang niệm vũ trụ trong Kinh Dịch đă tuyên bố tại Đại Học Đường Comlombia tại Mỹ Quốc, công cuộc thực nghiệm khoa học của họ để đánh đổ “Luật đối đảng”, một nguyên tắc căn bản của vật lư học từng thống ngự khoa học giới 30 năm qua, khiến tư tưởng thế giới phải giựt ḿnh kinh ngạc. V́ vậy, tạp chí Life ở Mỹ, xuất bản ngày 28 tháng giêng năm 1967 đă viết một bài xă luận đề cao tánh chất trọng yếu của huyền học, tức là h́nh nhi thượng học với nhau đề là “Nguy cơ trên lĩnh vực khoa học”.

Lược sử dịch học đến đây coi như tạm đủ. Từ khi Đồ Thư xuất hiện vào đời Phục Hy đến nay kể đă 7-8 ngàn năm. Xưa dịch học với tác phẩm độc đáo của nó là Châu Dịch, đă làm cho tiền nhân của bao ngàn năm trước say mê và hao tốn hàng núi giấy, hàng lố mực để khảo sát biên chép, th́ ngày nay dịch học cũng có thể làm cho thế giới ngạc nhiên. Ngạc nhiên v́ nó vẫn trẻ, vẫn đẹp, vẫn gịn, vẫn khéo, ngạc nhiên v́ nó khoa học, hợp lư, giá trị vĩnh cửu. Song chiếu với khoa học, Dịch học có vẽ như đàn anh, đàn chị. Nhiều cái khoa học tưởng ḿnh chiếm công đầu trong việc khám phá, chẳng ngờ lại có những cái dịch học đă nói tới xa xưa.

Trên thới giới cổ kim nầy, có lẻ ít thấy một cuốn sách có 16 môn học như Trịnh Tiều đă nói trong bài Thông Tri Tổng Tự. Một tác phẩm giá trị cố nhiên bảo đảm một cách chắc chắn địa vị môn học của ḿnh. Thực thế, Dịch học chiếm địa vị tối cao trong nền triết học Đông Phương. Nền triết học Đông Phương sở dĩ có một cơ sở vững chắc và trường cửu được là nhờ ở dịch học. Mà Dịch học lại bắt nguồn từ Hà  Đồ, Lạc Thư, với những chân lư ảo diện của vũ trụ được các bậc Thánh hiền ghi lại trong Kinh Dịch, một bộ kinh được quí trọng như Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo (Bible) hoặc Thánh Kinh của Hồi Giáo  (Koran)./.

(Trích trang 121-127 Kinh Dịch với Vũ Trụ Quan Đông Phương của Nguyễn Hữu Lương)

 

 

10. ĐỨC THU TÂM

 

Thu tâm là đức giúp ta xử thế cách nào cho kẻ khác vừa mến vừa phục ta một cách chánh đáng và bền bỉ.

Những kinh nghiệm chua chát trong cuộc đời cho chúng ta biết rằng : quạo quọ, ăn nói như dùi đục chấm nước mắm, mĩa mai, trào phúng luôn gây thù, làm cho người ta cô độc và thất bại. V́ những kinh nghiệm đó, có kẻ v́ ích kỷ, v́ vụ lợi, có một lối xử thế cáo già; bên ngoài ngọt như mía lùi, luồn cúi, bom thóp, nhịn thua, bên trong thù oán, khinh nhạo thế nào cũng được, miễn sao có tiền nhiều, được quyền chức to, ân huệ lớn thôi. Lối xử thế của hạng người nầy không những chẳng phải là nhơn đức mà c̣n phản nhơn đức và c̣n là sự đệ mạc nhứt của con người.

Người có đức Thu Tâm không hành động như vậy. Tự thâm tâm họ yêu người, muốn cư xử cho đẹp ḷng người, chân thành cậy nhờ người giúp khi cần thiết. Luôn luôn lấy chân thành và vị tha làm kim chỉ nam, họ nổ lực tránh những tật xấu hay làm phật ḷng kẻ khác, đồng thời luyện những đức căn bản có thể chinh phục được ḷng thiên hạ.

Trong xă hội có những người được thương mà bị coi là tầm thường, không được trọng phục từ nhan sắc, tài ba, đức tánh đến công trạng. Sự thương đó nếu không phải là thứ thương hại th́ là thương lạm dụng. Người nầy thương người kia v́ thấy kẻ ấy xấu xí, đau bịnh, nghèo nàn, bị ăn hiếp. Có kẻ khác thương một ai đó v́ thấy kẻ nầy dể sai, dể lạm dụng. Nhưng h́nh thức thương nầy có phần không xấu, song không phải là đức Thu Tâm đ̣i hỏi.

Trong xă hội có ít kẻ được phục là đa tài không bị ghét. Họ xuất chúng về khả năng tinh thần, nhưng họ thiếu những đức tính như khiêm tốn, nhẫn nại, hiền diệu hay đức nào đó có thể hấp dẫn được ḷng kẻ khác. Được phục như vậy, người có đức Thu Tâm cũng không ham . Nhờ những đức tính quan yếu, nhờ đào luyện bản lỉnh, họ vừa được mến mà không bị khinh, vừa được phục mà không bị ghét. Người ta gọi là thứ người khéo xử thế.

Thiện cảm mà họ thu thập được từ kẻ khác là thứ thiện cảm phát xuất từ tâm  hồn lành mạnh bền bỉ. Nói như vậy cho hay có những thực tế không tránh được nầy là không làm sao cho ta được mọi người trong xă hội vừa mến vừa phục. Dĩ nhiên kẻ không biết ta th́ không mến phục ta đă đành. Cũng dĩ nhiên kẻ biết ta ăn ở bất đáng mà người ta ghét ta, không bằng những trường hợp đó.

Nói ngay, những trường hợp mà ta cư xử thành thực cùng với biết bao nhiêu đức tánh khác mà vẫn bị oán ghét, khinh rẻ, điều nầy ta đừng ngạc nhiên. Trong loài người có kẻ ác, hiểu lầm, lănh đạm, tây vị, tự ái quá lố v.v…Thượng Đế hóa nhân như Jésu kia mà c̣n bị kẻ đồng thời giết và đến ngày nay không ít kẻ coi là thất bại. Vĩ nhân như Thích Ca, Khổng Tử, Ganhi đâu phải đều được ai cũng vừa thương vừa phục.

Mà ở đời vấn đề là hành thiện hiểu là do nên người và giúp kẻ khác nên người, chớ không phải mua ḷng người với bất cứ giá nào. Có thứ người ta vẫn thương họ nhưng phải bài trừ tật xấu của họ. Có hạn người khác ta không nên làm cho họ thương bằng cách lo nên giống họ.

Người thu tâm chọn thứ thiện cảm của người xứng đáng tức là kẻ già dặn, biết phải quấy học hay chưa đỗ. Thiện cảm ở thứ người nầy bền bỉ.

(Trích trang 245-247 Thuật Sống Dũng của Hoàng Xuân Việt)

 

 

11. CÁCH PHÁN ĐOÁN VỀ SỰ ĐỜI

 

Cách phán đoán về sự đời hết sức quan hệ đến sự điềm tỉnh của ta.

Người ta thường tưởng rằng: họa phúc đều ở ngoài mà đến. Cái đó lầm và v́ thế người ta mới có lo sợ.

Nếu quả nghèo là khổ mà giàu là sướng th́ những người nghèo như Nhan Hồi, Socrate đều là khổ hết sao; mà những bật tứ hải như Tần Thủy Hoàng, Napoleon đều là sướng nhứt đời sao?

Nếu bảo con là nợ, vợ là oan gia  thời sao đối với Socrate có người vợ hung dữ như thế, ông lại cho là một cái phúc đối với ông, v́ nhờ đó ông điêu luyện được cái tính điềm đạm, thản nhiên đối với sự vật ở đời.

Nếu những cái mà thiên hạ đồng cho là họa như bần tiện, bịnh tử, đi lạc vào nhà các bậc địa hiền như Trang Tử hay Epitète…th́ cũng không làm ǵ cho mấy ông ấy nao ḷng.

Người ta thường ví những sự nhỏ mọn không đâu mà gây ra phiền năo cho ḿnh. Nếu ai cũng biết thản nhiên đối với sự vật, b́nh tâm mà xét th́ sẽ thấy trăm việc đều cho ḿnh, 90 việc không đáng bận ḷng chút nào cả.

Làm cho người phiền muộn không phải là tự ở sự vật, chính là ở cái cách người ta phán đoán về sự vật. Như cái chết có ǵ là đáng sợ đâu? Nếu đáng sợ th́ ông Socrate đă sợ. Nhưng đáng sợ là sự phán đoán rằng cái chết là đáng sợ. Như vậy, mỗi khi ta buồn bực, bối rối, phiền năo, ta đừng trách ai, chỉ trách ta nghĩa là tự trách sự phán đoán của ta mà thôi. Phải nhớ rằng làm nhục cho ḿnh, không phải là kẻ nó chửi ḿnh, nó đánh ḿnh, nhưng là tự ḿnh phán đoán cho rằng nó làm nhục ḿnh. Có kẻ nào làm cho ḿnh giận giữ th́ phải biết rằng chính sự phán đoán của ḿnh làm cho ḿnh giận giữ vậy.

Sự vật như mảnh gương trong, nếu ḿnh cười th́ nó sẽ cười lại cho ḿnh. Nếu ḿnh  khóc nó trả cái khóc lại cho ḿnh. Tôi thường tự hỏi: “Người đánh ta, ta giận là tại người hay tại ta làm cho ta giận?”.-Phần đông sẽ nói: V́ người đánh ta nên ta giận. Nhưng nếu ta biết người đánh ta là người điên, ta có c̣n giận người ấy nữa không? Chắc hẳn là không, nếu ta là người biết xét . Trái lại nếu ta biết người đánh ta là người tỉnh th́ ắt ta không khỏi phải nổi cơn giận giữ. Cũng một việc xảy ra đến ta mà khi th́ ta điềm tỉnh như thường, khi ta lại bực tức nóng giận. Tại nơi đâu?-Có phải tại nơi sự phán đoán của ta chăng? Tôi không thấy tại nơi ngoại vật chỗ nào cả.

Mạnh Tử nói: “Người ta ở đời, đối với người mà gặp phải kẻ dữ với ḿnh một cách ngan ngược, th́ coi như ḿnh đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thông thả dừng lại, gỡ dần ra thôi. Gai góc kia có đáng ǵ mà phải giận? Xử được nhờ thế th́ tâm ḿnh không phiền năo, mà bao nhiêu nổi oán hận cũng tiêu tan.

Ta nên coi chừng sự ngan ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lái đâm phải ta, như cơn gió dữ tự lở tạt nhầm ta. Ta nghĩ cho cùng có ǵ đáng giận.

Cách Socrate xử với vợ rất hung dữ của ông cũng một thế. Một lần kia có bạn rủ đi sớm. Bà la lối om ṣm. Ông vẫn thản nhiên, khi ông bước ra đi, bả lại đứng trên lầu, đổ trúc thau nước dơ lên đầu ông…các bạn ông tỏ dấu bất b́nh phản đối. Ông cười và bảo: “Th́ có ǵ là lạ, hễ trời hết gầm th́ tới mưa”. Ông thản nhiên trở vô thay áo.

Một lần khác, ông mời các bạn dùng cơm tại nhà. Không biết có việc ǵ, bà vợ bưng cả đồ ăn quăng ra ngoài cửa sổ (ông ăn ṛng rau trái). Ông cũng như thường tươi cười bảo: “Th́ bà muốn chúng ḿnh ra sân ăn mát mẻ hơn”. Quá sức tức tối bà liền ra sân quơ luôn các đồ ông đă lượm sắp vô mâm đĩa. Các bạn ông giận đỏ mặt muốn gây sự. Ông biết trước đă nắm tay áo các bạn lại ôn tồn nói: “Ví dụ các anh em đang ngồi ăn, rủi bị một con gà mái nhảy xổ vào, làm văn cả bát dĩa, các anh có đi gây sự với nó không?”.

Nếu một người khác gặp phải những trường hợp nầy, chắc chắn sẽ mất hết sự điềm tỉnh rồi vậy.

Không phải tại nơi sự vật xảy đến cho ta, nó làm cho ta vui mừng hay giận giữ, mà quả quyết là tại sự phán đoán của ta nó làm cho ta vui mừng hay giận dỗi mà thôi.

(Trích trang 121-125 Cái Dũng của Thánh Nhân của Nguyễn Duy Cần)

 

 

12. ĐẠO PHẬT Ở VIỆT NAM

 

I.Mở Đầu.

Lịch sử Đạo Phật ở Việt Nam có thể theo sự hưng suy mà chia làm 6 thời kỳ như sau:

1.-Thời kỳ du nhập (từ Tây lịch kỷ nguyên đến thế kỷ thứ 6: lúc Bắc thuộc lần thứ hai đến nội thuộc nhà Tùy).

2.-Thời kỳ tiệm phát (từ thế kỷ thứ 6 đến cuối thế kỷ thứ 10: Lúc nội thuộc nhà Tùy đến cuối đời Tiền Lê).

3.-Thời kỳ cực thịnh (từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14: đầu đời Lư đến cuối đời Trần).

4.-Thời kỳ trung suy (từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16: cuối đời Trần sang Hồ, thuộc nhà Minh cho đến đời Hậu Lê).

5.-Thời kỳ phục hưng (từ cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 18: đời Lê Trung Hưng: Lê Trung Tông đến Lê Hiển Tông tức là khoảng Nam Bắc triều đến Nam Bắc phân tranh).

6.-Thời kỳ suy bại (đầu thế kỷ 19 đến gần giữa thế kỷ 20. Từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đến hồi Tây thuộc).

 

II. Thời Kỳ Du Nhập

Theo sự tham khảo của các nhà văn học nước ta trước đây, th́ Phật Giáo du nhập Việt Nam do hai đường Ấn Độ và Trung Hoa.

a) Đường Trung Hoa: Sau khi vua Linh Đế nhà Hán mất (179), trong nước Hán có loạn, có nhiều tăng săi bỏ xứ chạy sang Giao Châu lánh nạng và hành Đạo ở đấy.

b) Đường Ấn Độ: Khoảng thế kỷ thứ ba, nhiều nhà sư Thiên Trúc như: Khang Cư (Sogdine), Nguyệt Thị (Indoscythe), theo đường thủy sang giáo Đạo trong nước ta.

Tuy vậy, Trần Văn Giáp trong quyển Le Bouddhisme en Annam, đă khảo cứu các sách Phật, có chép rằng: Khoảng cuối đời Hán Linh Đế có Mâu Bắc (Méou Pô) người gốc ở Thương Ngô, sang Giao Châu lánh nạng với mẹ. Mâu Bắc ban đầu học Đạo Lăo và phép Thần Tiên, nhưng đến năm 194-195, lại theo học Đạo Phật. Xem thế th́ biết trước Mâu Bắc, nghĩa là trước thế kỷ thứ hai, Đạo Phật đă du nhập ở Giao Châu rồi chứ đâu phải đợi đến các nhà sư bên Tàu chạy loạn sang ta mới có.

Sư Mật Thể trong quyển Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, đoạn nói về dịch kinh , đại khái cũng viết:

Trong hồi Bắc Thuộc, nước ta ở khoảng giữa Tàu và Ấn Độ, lại gần nước Chiêm Thành c̣n mạnh; dân Chàm biết tiếng Java và dùng chữ Phạn, ta cũng có nhiều người biết, do sự giao thiệp hằng ngày. Người Tàu qua Ấn Độ hay người Ấn qua Tàu thường t́m những người Việt ấy làm thông ngôn, hay cùng với họ góp sức dịch kinh, thành ra kinh chữ Phạn bắt đầu dịch tại Việt Nam.

Như vậy, Đạo Phật rất có thể từ Ấn Độ  trực tiếp truyền qua nước ta đồng thời hoặc trước hơn đến Trung Quốc.

Về gốc tích của Đạo, câu chuyện sau đây giữa bà Ỷ Lan, mẹ vua Lư Nhân Tông với sư Trí Không (chép trong “Thuyền uyển tập anh ngự lục”), cho ta dễ dàng nghiệm xét.

Ngày rằm tháng 8 năm Hội Phong thứ 5 (1096) Thái Hậu Ỷ Lan đặt tiệc chay tại chùa Khai Quốc đăi các Tăng. Tiệc xong, Thái Hậu hỏi sang việc Đạo:

“Nghĩa hai chữ Phật và Tổ như thế nào? Bên nào hơn? Phật ở phương nào? Tổ ở thành nào? Đạo tới xứ ta thời nào? Truyền thụ Đạo ấy ai trước ai sau? Mà sự niệm Phật hiểu tâm Tổ là do từ ư ai?”.

Các sư đều im lặng. Riêng có sư Trí Không trả lời rằng:

“Phật và Tổ là một, Phật truyền Đạo cho Ca Diếp. Về đời Hán có Ma Đằng đem Đạo vào Trung Quốc. Đạt Ma lại truyền vào nước Lương và nước Ngụy. Đạo rất thịnh khi dùng Thiên Thai thành lập. Ḍng ấy gọi là Giáo Tông. Hai ḍng ấy truyền vào nước ta đă lâu năm. Về ḍng Giáo có Mâu Bắc và Khang Tăng Hội là đầu. Về ḍng Thiền trước nhứt có Ti-ni-đa-lu-chi, sau đó. Vô Ngôn Thông lại lập ra một ḍng thiền khác nữa”.

Sư Trí Không trả lời thật rơ ràng nhưng Thái Hậu c̣n muốn biết thêm bằng cứ. Sư Trí Không dẫn lời của vua Tề Cao Đế (479-483) và sư Đàm Thiên rằng: “xứ Giao Châu tuy nội thuộc, nhưng chỉ là một xứ bị ràng buộc mà thôi. Vậy ta nên chọn các sa môn có danh đức sang đó để giảng hóa. May ra sẽ làm cho tất cả nhân dân được phép bồ đề”.

Sư Đàm Thiên đáp:

“Xứ Giao Châu đường thông với Thiên Trúc (Ấn Độ). Khi Phật Pháp chưa tới Giang Đông (nước Tề), th́ ở Luy Lâu (kinh đô ngày xưa của nước Việt Nam nay thuộc Bắc Ninh), đă có xây hơn 20 ngôi chùa, chọn hơn 500 vị Tăng, và tụng 15 quyển kinh rồi. V́ đó mà người ta đă nói rằng Giao Châu theo Đạo Phật trước chúng ta. Lúc ấy đă có những vị sư : Ma-la-kê-vực, Khang-tăng-hội, Chi-cương-lưu-chi và Mâu Bắc ở đó”.

Góp lại câu chuyện dẫn trên, ta thấy Đạo Phật và Ấn Độ truyền thẳng sang Việt Nam khoảng đầu Tây lịch không phải là vấn đề vô lư. Nhưng về sau ảnh hưởng  Phật Giáo Tàu mạnh hơn, do sự nước ta bị nội thuộc nước họ, nên Phật Giáo ở Việt Nam bị chi phối và lần lần tổ chức giống như Phật Giáo ở Tàu.

Những nhà truyền Đạo đầu tiên ở nước ta, nay không c̣n biết rơ là ai nữa, kế đó ta chỉ biết 4 vị là Mâu Bắc, Ma-ka-lê-vực, Khang-Tăng-Hội, Chi-cương-lưu-chi, là những người có công thật to với việc hoằn dương chính pháp.

Trong khoảng hơn 500 năm của thời kỳ du nhập và truyền bá, ngày nay không c̣n biết được ǵ hơn, v́ không ai biên chép truyền lại. Phải đợi đến thế kỷ thứ 6, khi có phái Nam Phương, Đạo mới bắt đầu phát đạt và c̣n có tài liệu ghi chép để lại khá rơ ràng.

 

III.THỜI KỲ TIỆM PHÁT

Thế kỷ thứ sáu,vào năm 580, nước ta đang nội thuộc nhà Tùy, có tổ phái Nam Phương là T́-ni-đa-lưu-chỉ (Vinataruci) gốc người Thiên Trúc, trước sang nước Trần bên Trung Quốc sau đến Quản Châu dịch kinh Phật rồi thẳng sang Giao Châu, tới trụ tŕ chùa Pháp Vân tại Lụy Lâu. Giáo Đạo được 15 năm, Ti-ni-đa-lưu-chi lập một thiền phái thứ nhứt ở Việt Nam, truyền được 19 đời (589-1216), đến năm Giáp Dần (594), đời Tùy Khai Hoàng th́ mất.

Đại đệ tử của Ti-ni-đa-lưu-chi là Pháp Đắc Hiền. Sư nầy người Việt, họ Đỗ, trù trị chùa Chúng Thiện (Bắc Ninh). Sư có nhiều đệ tử. Thứ Sử Lưu Phương mời sư tới Luy Lâu để ở Chùa Pháp Vân, rồi sau đi giảng Đạo và dựng chùa nhiều nơi trong nước. Từ đó phái Nam Phương bắt đầu truyền đi lan rộng. Sau nầy, các sư Pháp Thuận (đời Lê), Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Minh Không (đời Lư) đều thuộc phái Nam Phương.

Đến thế kỷ thứ chín, năm Canh Tư (820), đời Đường phái Quang Bích lại truyền sang do một vị sư Tàu là Vô Ngôn Thông. Sư nầy học Đạo với Mă Tổ ở Giang Tây. Sư đến ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng. Sau nầy những sư: Khuông Việt (đời Đinh, Lê), Trí Không, Khổng Lồ, Giác Hải (đời Lư) đều thuộc phái Quang Bích.

 Cũng trong thời nầy đất Việt ta đă có nhiều sư giỏi Pháp. Ngoài các sư có tiếng được dân Việt và người Tàu quí chuộng như Nhật Nam Tăng, Vô Ngại Tượng Nhân, lại c̣n có Duy Giám Pháp Sư và Phụng Đ́nh Pháp Sư là bậc lỗi lạc. Hai ông từng sang Trung Quốc giảng Đạo trong cung vua, từng được các nho giả Tàu mến yêu kính phục. Dưới đây xin chép một bài thơ của thi hào Dương Cự Nguyên đời Đường tiễn tặng sư Phụng Đ́nh, khi Pháp Sư từ giả nước Tàu để trở về cố quốc.

Cố hương Nam Việt ngoại,

Vạn lư bạch vân phong.

Kinh luân từ thiên khứ,

Hương hoa nhập hải phùn.

Lộ đào thanh phạm triệt,

Thần các hóa thành trùng.

Tâm đáo trường an mạch,

Giao Châu hậu dạ chung.

Dịch:

Quê nhà trông cơi Việt,

Mây bạc tít mù xa.

Cửa trời vắn kinh kệ,

Mặt bể nổi hương hoa.

Sóng gợn c̣n im bóng,

Thành xây hến mấy ṭa.

Trường an ḷng quấn quít,

Giao Châu chuông đêm tà…

(Bài dịch của Mật Thể)

Đạo học khoảng nầy truyền bá khá thịnh, có nhiều vị sư Việt Nam sang Thiên Trúc cầu Đạo như Trí Hành, Đại Thặng Đăng, Vân Kỳ, Mộc-soa-đề-ba, Khuy Xung, Tuệ Diệm. Trong số đó có vị ở tu và tịch diệt luôn bên ấy.

Tuy Đạo đă có ṃi phát đạt như vừa nói ở trên, nhưng nước ta vẫn c̣n bị người Tàu cai trị cho nên Đạo chỉ đạt đến hạng người quyền quí mà thôi, chưa ăn sâu vào dân chúng được.

Đầu thế kư thứ mười, khi Ngô Quyền chém được Hoằn Tháo, đuổi được quân Nam Hán ra khỏi nước để mở nguồn cho các cuộc độc lập về sau, Đạo Phật mới được truyền đi rộng răi.

Năm Mậu Th́n (968), vua Đinh Tiên Hoàng lên ngôi, Ngài trọng đăi các sư, định phẩm hàm và cấp bậc cho các hàng tăng Đạo. Đầu hàng tăng có chức Quốc Sư, rồi dưới đó có những chức Tăng Thống, Tăng Chính, Đại Hiền Quan…Những Sư: Ngô Châu Lưu, Đặng Huyền Quang, Trương Ma Ni đều được vào hàng chân sư, có phẩm trật triều đ́nh tôn tặng.

Vị sư trước nhứt của nước ta được tham gia chính sự là sư Khuông Việt. Sư nầy trước giúp Đinh Tiên Hoàng và sau giúp vua Lê Đại Hành. Vốn ḍng dơi tiền Ngô Vương, tên thật là Ngô Châu Lưu, sư được vua ban cho chức Tăng Thống và hiệu là Khuông Việt Đại Sư, nghĩa là một ông thầy cả khuông pḥ nước Việt. Đến khi Lê Hoàng lên ngôi, phàm sự quân quốc đều giao cho sư tất cả. Xem đó ta có thể quyết đoán được rằng thời bấy giờ Đạo đă được lan tràn đến ngoài dân chúng, nhờ có sự ủng hộ trực tiếp hoặc gián tiếp của chánh quyền.

Sách “Sử kư toàn thư” chép rằng: Năm Đinh Hợi (987), nhà văn hào Lư Giác được vua Tống Thái Tông (nước Tàu) sai sang phong chức Tiết Độ Sứ cho vua Lê ta. Vua sai sư Đỗ Thuận ra tiếp. Sư giả làm người lái đ̣ chèo thuyền cho Lư Giác đi. Lúc ấy trên sông có hai con ngổng đang bơi lội, Giác vốn sính làm thơ, thấy vậy ứng khẩu ngâm:

Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha.

(Song song ngỗng một đôi,

Nghển cổ ngó ven trời).

Sư Đỗ Thuận nghe, liền nối lời Lư Giác, đọc:

Bạch mao phô lục thủy,

Hồng trạo băi thanh ba.

(Nước biếc phơi lông trắng,

Sóng xanh chấn hồng bơi).

Lư Giác khen ngợi Đỗ Thuận có tài làm thơ và từ đó tỏ ư kính trọng vua ta lắm.

Khi Lư Giác chuẩn bị về nước, có làm bài thơ để lại, mà hai câu kết như vầy:

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,

Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.

Nghĩa:

Ngoài trời lại có trời soi rạng,

Ṿng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.

Vua Đại Hành đưa bài thơ ấy cho sư Khuông Việt xem và hỏi có ư ǵ không? Khuông Việt tâu: “Câu thứ bảy, sứ Tàu có ư tôn bệ hạ cũng như vua của họ vậy.”

Vua Lê liền sai Khuông Việt làm một bài chúc sứ lên đường. Bài ấy bằng Hán Văn, ngày nay c̣n mà Hoàng Xuân Hăn, Ngô Tất Tố và Mật Thể đều có dịch ra quốc ngữ.

 Những việc trọng đăi tăng đồ của vua Đinh, Lê và sự tham gia hành chánh của các sư trên đây là chuyện đầu tiên trong lịch sử Việt Nam độc lập. Nó làm nổi vai tuồng của Phật Giáo trong việc học Phật tu thân, vừa cho ta biết chắc rằng thời kỳ tiệm phát (khởi đầu từ phái Nam Phương xuất hiện đến đây) Đạo Phật nước ta đă bước được một bước khá dài  để tiến sang đời cực thịnh.

 

IV.Thời Cực Thịnh

Thế kỷ thứ 11, năm 1010, Lư Công Uẩn lên ngôi vua, tức là Lư Thái Tổ. Ngài là người xuất thân trong cửa thiền, học tṛ vỡ ḷng cũng là con nuôi của nhà sư Lư Khánh Vân. Nhờ thấm nhuần được giáo lư nhà Phật, Thái Tổ sau khi lên ngôi, trọng đăi hết thải những người tu. Dựng chùa Hưng Thiên Ngự Ngự và lầu Ngũ Phượng Tinh Lâu trong nội thành. Dựng chùa Thắng Nghiêm ở phái Nam thành Thăng Long. Xuất hai vạn quan tiền để dựng tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức và truyền khắp nước phải trùng tu chùa chiền và chọn người Đạo đức làm tăng.

Năm 1018, Thái Tổ sai Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nhà Tống thỉnh kinh Tam Tạng, hai năm sau mới đem về tới nước. Năm 1023, vua sai chép lại kinh ấy và trữ vào kho Đại Hưng. Từ đó Đạo Phật hết sức thịnh hành. Khắp nước đâu đâu cũng có những cuộc bái Phật hành kinh và những tổ chức làm việc từ thiện.

Đến năm 1069, có vị sư Tàu hiệu là Thảo Đường đến trụ tŕ chùa Khai Quốc (Thăng Long), được phong làm Quốc Sư và lập một thiền phái thứ ba, truyền được năm đời (1069-1205). Sau nầy các vị vua nhà Lư như: Thánh Tông, Anh Tông, Cao Tông đều đứng vào hàng Tổ và thuộc  về phái Thảo Đường.

Năm 1195 vua Cao Tông mở khoa thi Tam Giáo, tức là Nho Giáo, Phật Giáo, Lăo Giáo. Như vậy ta đủ biết Đạo Phật bấy giờ được sùng thượng tới bực nào.

Lịch sử c̣n cho biết rằng các sư trong triều Lư đă sáng tác được nhiều kinh sách nói về Đạo Phật như: Dược sư thập nhị điện văn Tân viên giác kinh, Thập nhị Bồ tát hạnh tu chứng Đạo tràng, Tham Thiền Biểu Quyết của sư Viên Chiếu, và: Chư Phật Tích Duyên Sự, Hồng Chung Văn Vi Vư, Tăng Gia Tạp Lục…của sư Viên Thông, là những kinh sách giúp đời rất nhiều trên đường tu tỉnh. Ngoài ra, lại có nhiều vị sư Đạo lư uyên nguyên, văn tài lỗi lạc. Trong những câu chuyện hằng ngày về Đạo đức, các sư thường xuất khẩu thành kệ, ư tứ thăng trầm mà lời lẻ thanh tao, rơ ràng khí tượng của hạng người cao ẩn. Dưới đây xin trích lục một bài kệ của sư Măn Giác (người thời Lư Nhân Tông) đọc trước khi viên tịch để làm ví dụ:

Nguyên văn:

Xuân khứ bách  hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhăn tiền quá,

Lăo tùng đầu thượng lai,

Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc,

Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch nghĩa:

Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến nở trăm hoa.

Việc đời thoáng trước mắt,

Trên đầu lộ tuổi già,

Chớ nói xuân tàn hoa rụng sạch,

Ngoài sân đêm trắng một cành mai.        

Sang đời Trần, Phật Giáo vẫn thịnh hành không thua đời Lư. Chính vua Trần Thái Tông đă tu Phật, Ngài viết được những quyển: Thiền Tông Chỉ Nam (giải bài giáo lư thiền định), khóa hư (nói về sinh, lăo, bệnh, tử và phá chấp thành kiến của thế nhân).

Năm 1247, vua lại mở khoa thi Tam Giáo, ai hơn th́ đỗ khoa giáp, ai kém th́ đỗ khoa ất. Những người được đỗ rất được ưu đăi và trọng dụng.

Thời nầy có ba vị ḥa thượng nổi danh, tục gọi là Trúc Lâm Tam Tổ. Tổ thứ nhứt là Giác Hoàng, tức vua Trần Nhân Tông. Tổ thứ hai là Pháp Hoa, tức Hỷ Lai. Tổ thứ ba là Huyền Quang, tức trạng nguyên Lư Đạo Tài. Những vị nầy Đạo học cao thâm có sáng tác những quyển: Đoạn Sách Lục, Tham Thiền Yếu Chỉ (của Pháp Loa), Chư Phẩm Kinh, Công Văn Tập, Ngọc Tiên Tập (của Quyền Quang).

Sinh thời, Tam Tổ đều có đến ở chùa Yên Tử (nay thuộc Quảng Ninh), rồi sau lập thêm chùa Thanh Mai, am Hồ Thiên, viện Quỳnh Lâm…để làm nơi ẩn dật.

Ngày nay nhiều nơi c̣n truyền tụng câu:

Dù ai quyết chí tu hành,

Có về Yên Tử mới đành ḷng tu.

Ấy là câu hát mà dân gian đời Trần xưa đă ngụ ư Đạo đức cao siêu của ba vị Trúc Lâm Ḥa Thượng.

Đến cuối đời Trần, Đạo Phật vẫn chưa suy lắm, mặc dù bị các Nho sĩ (trong ấy có Lương Hán Siêu và Lê Quát) chủ trương bài xích.

Tóm lại, trong hai triều Lư, Trần, khoảng gần 400 năm, Đạo Phật được vua quan trọng, tăng già nhiều bậc giỏi giang, dân chúng trong nước hầu hết tôn thờ tín ngưỡng. Có thể nói Đạo Phật thời nầy được coi là quốc Đạo. Ảnh hưởng của Phật Giáo ăn sâu vào các ngành hoạt động của dân cả hai phương diện: vật chất lẫn tinh thần, tạo nên một cảnh hài ḥa mà lịch sử đă chứng minh rằng cổ lai chưa có thời nào hơn được.

 

V. Thời Kỳ Trung Suy.

Cuối đời Trần Đạo Phật mặc dù c̣n thịnh về mặt sùng thượng của dân gian, nghĩa là cúng chùa lễ Phật, làm tượng, đúc chuông, nhưng về tinh thần Đạo đă bắt đầu trở nên một tôn giáo mê tín, xen lẫn đồng bóng, quỉ quái của biến trạng Lăo giáo vào.

Khi Hồ Qúi Ly cướp ngôi nhà Trần Đạo càng sai xa Đạo gốc, do Lạc Ma giáo ở Tàu truyền sang. Lạc Ma giáo là một tôn giáo ở Tây Tạng, du nhập nước Tàu từ đời Nguyên: yếu lư của giáo nầy là dùng sự bí mật của thần chú, cầu tức thân thành Phật.

Sau 7 năm làm vua, nhà Hồ bị nhà Minh bên Tàu sang đánh lấy. Họ tịch thu hết cả sách sử trong nước và kinh điển nhà Phật đem về Kinh Lăng. Thiêu hủy chùa chiền, lăng miếu và triệt để thi hành chính sách thực dân đồng hóa.

V́ vậy mất 13 năm thuộc Minh, Đạo tuy không bị cấm chỉ, nhưng ở trong chế độ Tăng kỳ và Tăng cương do họ tổ chức và kiểm soát, Đạo đă phải suy lạc và suy kém nhiều.

Năm 1418, B́nh Định Vương khởi nghĩa kháng Minh. Sau 10 năm chiến đấu, Vương thành công. Việc hư hao trong nước tuy được kiến thiết, nhưng kinh Phật bị mất nhiều, chùa chiền bị hư hại nhiều, mà thời kỳ nầy Nho học hưng thịnh, sĩ phu đua nhau cái học khoa cử,  triết lư nhà Phật không gây được danh lợi cho ai, nên h́nh như v́ thế  mà bị bỏ quên.

Dưới mắt vua quan và dân chúng lúc bấy giờ, đọ chỉ là một chỗ để chứa những hạng người bắt đắc chí, hoặc để cầu đảo cúng dâng mà thôi.

Sử chép: Đời Lê Thái Tổ thứ hai (1429), có mở một kỳ khảo hạch tăng đồ. Người nào trúng tuyển th́ được ở chùa tu hành, ai hỏng bị hoàng tục.

Đời Lê Thái Tông năm đầu (1434), trời đại hạn, vua dạy rước tượng Phật ở chùa Pháp Vân về kinh làm lễ cầu mưa. Năm sau, vua đúc tượng Thái Hoàng Thái Hậu xong, mời Huệ Hồng Thiền Sư vào khai quang điểm nhăn.

Năm 1466, đời Lê Thái Tông, sắc cấm hàng tăng Đạo không được qua lại với nhân dân trong thành; năm sau, cấm nhân gian không được làm thêm chùa chiền nữa.

Bao nhiêu điều ấy đă chứng tỏ Đạo Phật đời Hậu Lê rất suy. Sự suy nầy một phần do ảnh hưởng chiến tranh, một phần do vua quan không ủng hộ, nhưng một phần nữa ta cũng phải nhận rằng tăng đồ thời nầy phần đông là hạng không đứng đắn, lại để cho các tà giáo lung lạc, nên mối chín tín của Đạo mới bị mất đi vậy.

 

VI.Thời Kỳ Phục Hưng

Nhà Lê truyền đến đời Cung Hoàng th́ chính sự đỗ nát. Thừa dịp ấy Mạc Đăng Dung cướp ngôi.

Tuy vậy, uy danh của Thái Tổ, công đức của Thánh Tông c̣n van dội trong khắp nhân gian. Sự nhớ ơn các đấng tiên vương làm cho những người vẫn trung thành với nhà Lê nổi lên chống họ Mạc. Do đó nhà Lê lại trung hưng ở phía Nam, lập triều đ́nh riêng ở Thanh Hóa, chống nhau với họ Mạc 60 chục năm dài.

Khi dứt được họ Mạc, họ Trịnh và họ Nguyễn, đều là tôi của nhà Lê lại sinh ḷng ganh tị nhau gây nên thù oán rồi chia nhau mỗi họ hùng cứ một phương: Nguyễn ở Nam, Trịnh ở Bắc. Vua Lê chỉ ngồi làm v́ bên cạnh có họ Trịnh.

Sự rối ren trong nước như vậy nhưng Đạo Phật trong khoảng nầy lại có cơ phục hưng. Nam, Bắc đều có mở thêm mấy ḍng thiền mới nữa.

Ở Bắc, đời vua Lê Thái Tông (1573-1599), có nhà sư Tàu hiệu là Nhứt Cú đến mở một thiền phái gọi là Tào Động. Tào Động cũng  là chi phái của Bồ Đề Đạt Ma bên Tàu. Sư Nhứt Cú trước truyền cho Thủy Nguyệt rồi Thủy Nguyệt truyền xuống cho Tôn Điển v.v…và lần lần truyền đến ngày nay.

Đời vua Lê Hy Tông (1676-1705), một vương công họ Trịnh là Lân Giác lập ra phái Liên Tôn. Đồng thời có sư Nguyệt Quang cũng phổ truyền phái ấy. Hai sư nầy đều là đệ tử của sư Chính Giác, Chính Giác là học tṛ trong chi phái của phái Lâm Tế bên Tàu.

Trong thời nầy có nhiều bậc cao tăng như Huệ Đồng Thiền Sư, Lạc Hồ Văn Cảnh thiền sư, Hương Hải thiền sư v.v…Nhất là Hương Hải thiền sư, đỗ cử nhân năm 18 tuổi, Phật pháp rất thông, từng được vua Dụ Tông mời vào cung giảng luận. Dưới đây là một bài kệ của ông đáp lời nhà vua, khi vua hỏi: “Thế nào là ư của Phật?”

Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hài thủy.

Nhạn vô di tích chi ư,

Thủy vô lưu ảnh chi tắm.

Dịch nghĩa:

Giữa trời cánh nhạn,

Trong nước bóng ch́m,

Nhạn không c̣n lưu dấu vết,

Nước chẳng để lại bóng h́nh.

Xét trong sử cũ, thấy từ đời chúa Trịnh Trắng, Trịnh Cương, Trịnh Giang, việc làm chùa đúc chuông, dựng tượng Phật cũng nhiều, nhưng đến đời Cảnh Hưng nguyên niên (1740), v́ lắm giặc giả, chúa Trịnh Gian lại tịch thâu chuông các chùa để rèn binh khí. Phật Giáo ở Bắc v́ thế phải bị đ́nh trệ, trong khi phái Nam vẫn phát đạt hưng lên.

Ở Nam khi Nguyễn Hoàng giữ vững được đất Thuận Hoá, họ Nguyễn hết ḷng sùng thượng  Đạo Phật. Ngoài việc dựng chùa Thiên Mụ, đời Nguyễn Minh Vương lại gửi mua bên Tàu ba tàng kinh Phật: Kinh, Luật, Luận, để bổ vào sự mất mát từ xưa.

Đời Vũ Vương Nguyễn  Phúc Khoát, vua sai người sang Tàu thỉnh Đại Tạng Kinh hơn 1000 bộ, về để tại chùa Thiên Mụ và chính nhà vua tự hiệu ḿnh là “Thiên Túng Đạo nhân”.

Khoảng nầy nước Tàu Đạo Phật phải lúc trung suy, vua Thanh sùng Nho chuộng cử nghiệp. Các cao tăng thấy trong nước ḿnh Phật Giáo suy đồi, nhận thấy nước ta sùng ngưỡng nên họ lần lược kéo nhau sang để giảng hóa.

Bấy giờ có những sư như: Tế Viên Ḥa Thượng, Giác Phong Lăo Tổ, Thọ Tôn Ḥa Thượng (tức Nguyễn Thiều), Đạo pháp rất cao, ở Tàu sang truyền Đạo trong nước ta.

Trong số các sư kể trên có sư Nguyễn Thiều trước đến Ninh B́nh lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau đến Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân và truyền ra chánh phái Lâm Tế. Ông là sơ tổ phái Lâm Tế ở nước ta; sư Minh Hoằng, Minh Hải, Minh Vật…đều là đệ tử truyền tông thuộc ḍng Lâm Tế.

Ngoài ra c̣n một số cao tăng khác nữa. Nhưng thời nầy h́nh như không có vị nào sáng tác nên những kinh sách ǵ quan trọng.

Đạo Phật bấy giờ tuy tiếng là có cơ hưng vượng nhưng sự dị đoan mê tính vẫn bị pha lẫn nhiều, kẻ theo Đạo phần đông không hiểu được giáo lư theo tinh thần cao cả của Đức Như Lai. Hơn nữa Đạo cũng bị chi phối nhiều bởi Đạo Nho và Đạo Lăo nên sự thịnh đạt không thể nào so sánh với thời đại Lư Trần xưa được.

 

VII.Thời Kỳ Suy Bại

Cuối đời Vũ Vương, Đạo trở lại thời kỳ đ́nh đốn. Tả Ngoại Trương Phúc Loan là một quyền Thần, nhiệt liệt binh vực các cố Đạo và lên án tăng đồ. Ông bảo:

“Thầy chùa là bọn ngu dốt, trốn sưu lậu thuế, lười biến, phần nhiều đáng tội treo đầu. Trái lại các cố Đạo người Âu là những người thông thái siêng năng, lại giàu có. Họ mở rộng ḷng bố thí, trợ giúp kẻ bần nhơn cô quả. Họ trọng nể pháp luật của triều đ́nh.

Tăng đồ một phần v́ bị sự ghét bỏ ấy mà suy lần, kế nhà Tây Sơn nổi lên, giặc giả lung tung, làm cho cửa thiền thêm buồn tên quạnh quẻ.

Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh sau khi cầu viện với Pháp về diệt được nhà Tây Sơn, cuộc an ninh được lập lại trong nước. Nhưng từ ấy xét lịch sử không thấy có ǵ đáng đánh dấu một giai đoạn vẽ vang cho Phật Giáo, trừ việc làm của một vài vị kể ra sau đây:

Khoảng Minh Mạng thứ 6 đến thứ 9 (1825-1828) ở Bắc có An Thiền Đại Sư trụ tŕ chùa Đại Giác Bắc Ninh), làm được bộ sách, nhan đề là “Đạo Giáo Nguyên Lưu”, ba quyển c̣n lưu hành tới ngày nay. Năm Tự Đức thứ hai (1849) ở Nam có Đoàn Minh Huyên (tức Đức Phật Thầy Tây An) trụ tŕ chùa Tây An (Châu Đốc), chỉnh lư Phật Pháp, mở ra tôn phái Bửu Sơn Kỳ Hương, gây một phong trào học Phật tu nhân lan rộng gần khắp miền Nam. Nhưng chỉ được 7 năm (1849-1856), Phật Thầy tịch. Phật sự của phái nầy từ đó không bành trướng được v́ sự càn quét bất kể của quân đội Pháp bắt đầu đánh chiếm Nam Kỳ.

Xét sự tín ngưỡng của các vua và công việc về Phật sự kể trên trong một thời gian dài ngót 200 năm, ta thấy rằng Phật Giáo trong triều Nguyễn nầy suy kém lắm “Từ trên vua quan cho tới thứ dân, ai ai cũng yên trí rằng Đạo Phật là để cúng cấp, cầu đảo chứ không có ǵ khác nữa. Và phần đông họ chỉ trọng ông Thầy ở chỗ danh vọng chức tước, mặc dầu ông thầy ấy thiếu học thiếu tu. Tệ hại ấy làm cho tăng đồ trong nước lần lần sa vào con đường trụy lạc, cờ bạc rượu chè, đàm trước thanh sắc.

Trong một bài tựa là: “Phật Giáo ở xứ ta v́ đâu mà suy đồi” đăng trong “Pháp âm Phật học” số 9 (tháng 9 năm 1937), ông Hoằng Nhiên đă nêu lên mấy nguyên nhân suy bại, trong đó có vài điểm tương tự ư trên:

1.-Phái tăng già ở xứ ta phần nhiều tu mà không học.

2.-Người ḿnh hay trọng sự lạy lục cúng dường theo lối mê tính dị đoan.

3.-Không biết trọng sáng kiến của người khác.

4.-Không biết giúp đỡ tán dương người tài trí, nhà hiền giả, bậc chơn tu.

5.-Cố chấp về văn tự theo tư tưởng Hán nho mà không rộng xem các sách khác.

Sự xác nhận ấy đúng.

Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam ta có thể nói đây là một giai đoạn điêu tàn nhứt.

 

VIII. Phật Giáo Hiện Đại

Tuy vậy, sau hồi suy bại trầm trọng, nhờ ảnh  hưởng phong trào chấn hưng Phật Giáo quốc tế nhứt là ảnh hưởng của Phật Giáo Tàu do Thái Hư Đại Sư đứng ra cổ vơ, Phật Giáo Việt Nam lại ồ ạt hô hào hoằng dương vào khoảng năm 1930-1940.

Trước tiên công cuộc ấy do sư Khánh Ḥa và sư Thiện Chiếu. (cuộc vận động gặp nhiều trở lực, sư Thiện Chiếu tức giận hoàn tục, cùng một số tăng già, cư sĩ thành lập Nam Kỳ nghiên cứu học Phật hội (1931) ở Nam. Rồi đến Trung Kỳ có sư Giác Tiên, cư sĩ Lê Đ́nh Thám, mở Đạo trường và xướng lập Phật Học Hội (1932). Ở Bắc có sư Trí Hải và ông Nguyễn Năng Quốc…lập Bắc Kỳ Phật Giáo Tổng Hội (1933). Ngoài ra Phật học trường đều mở khắp ba kỳ: Ở Bắc tăng trường đặt tại chùa Quán Sứ, ni trường ở chùa Bồ Đề; ở Trung, Phật học viện ở chùa Tây Thiên, ni trường ở chùa Diệu Đức; Ở Nam, Phật học viện của hội Lưỡng Xuyên Phật học Trà Vinh được tổ chức.

Các hội Phật học lần lược mở ra, hội nào cũng xuất bản tạp chí. Trước nhứt ở Nam có Từ Bi Âm ra đời (1932), kế ở Trung có Viên Âm (1933), ở Bắc có Đuốc Tuệ (1934). Rồi nào là Tiếng Chuông Sớm (1934), Duy Tâm (1935), Bác Nhă Âm (?), Tam Đảo (1937), Pháp Âm Phật Học (1937) tiếp tục xuất để tuyên dương Phật Pháp.

Đặc biệt nhất là năm 1939, ở Nam Châu Đốc có ông Huỳnh Phú Sổ  (tức Đức Giáo Chủ Phật Giáo Ḥa Hảo) mở cơ hoằng pháp, chấn chỉnh Phật tông theo chân truyền của Đức Phật.  Ông thuyết pháp ngày đêm không biết mệt mỏi. Lại hạ bút thành văn, sáng tác pháp yếu gồm in gần có ngàn trang. Năm 1945 ông hô hào thành lập Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội và tổ chức làm rất nhiều công việc từ thiện, đáng kể nhứt là việc cứu tế nạn đói Bắc Kỳ.

Tóm lại Phật Giáo Việt Nam qua giai đoạn cực suy, đến giờ xem có ṃi chấn chỉnh. Sách kinh đă có những Thiền Sư, cư sĩ biên dịch ra quốc dân cũng nhiều, sự sùng ngưỡng trong nước đâu đâu cũng thấy có. Nhưng một nền Phật Giáo thống nhất và chân chính th́ dường như c̣n chờ đợi ở mai kia, một ngày mai đỉnh cách và viên đốn.

(Trích Việt Nam Tam Giáo Sử Cương của Nguyễn Văn Hầu từ trang 81-103)

 

 

13.TẢ CẢNH NÚI BÀ –THÁI PHONG

 

(Một bút hiệu khác của Huệ Phong)

1.-TRỜI ĐÊM ĐI ĐẢNH

Đảnh điện đêm đi động đá đầy,

Càng cao cảnh cũng cỏ cùng cây.

Hỏng hên hang hố h́nh hom hỏm,

Chỉn chộ chày chuông chuyến chập chầy.

Ngẩm nghĩ ngồi ngâm ngơ ngẫn nguyệt,

Mơ màng muốn mộng mịt mờ mây.

Thơ thẩn thoang thoảng thêm thâm thúy,

Nông nổi nôn nao …nặng núi nầy.

                                 Thái Phong

2.-DU SƠN CẢM TÁC (lục chuyển hồi ngâm)

Linh hiển núicảnh đẹp xây,

Đá nương cây phủ nhánh chen đầy.

H́nh thung suối thẩm triền gom nước,

Bóng dợn trời cao đảnh lợp mây.

Kinh kệ buổi nay mừng săi nọ.

Đạn bôm ngày trước quạnh chùa nầy.

Nh́n càng tủi hận ḷng du khách,

Chinh chiến bụi c̣n chạnh đó đây.

Cách đọc thơ Lục chuyển:

Quí bạn đọc xuôi xuống một bận, rồi đọc ngược lại một bận. Đoạn bỏ hai chữ đầu đọc ngũ ngôn xuôi xuống và ngược lại, rồi bỏ hai chữ chót cũng đọc xuôi và đọc ngược như trên (là 6 bận).

Thí dụ:

Cách 1:

Đây đó chạnh c̣n bụi chiến chinh,

Khách du ḷng hận tủi càng nh́n.

Nầy chùa quạnh trước ngày bôm đạn,

Nọ săi mừng nay buổi kệ kinh.

Mây lợp đảnh cao trời dợn bóng,

Nước gom triền thẩm suối thung h́nh.

Đầy chen nhán phủ cây nương đá,

Xây đẹp cảnh Bà núi hiển linh.

Cách 2:

Núi Bà cảnh đẹp xây,

Cây phủ nhánh chen đầy.

Suối thẩm triền gom nước,

Trời cao đảnh lợp mây.

Buổi nay mừng săi nọ,

Ngày trước quạnh chùa nầy.

Tủi hận ḷng du khách,

Bụi c̣n chạnh đó đây.

…..

Cứ theo cách giải thích trên ta sẽ có 6 cách để đọc bài thơ nầy thuận nghịch mà ư thơ vẫn không thay đổi, thật là tuyệt bút.

 

 

14.TRÍCH LỜI PHÊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP

 

a. Ai được phép mang giày vào Điện.

Phần thứ nhứt:
Chỉ vải sau lưng: Chí-Tôn muốn định phận ḿnh là Tam-Thừa.
Phó-Trị-Sự hành quyền về hạ-thừa chớ chưa vào Thánh-Thể nên mang một thẻ nơi lưng.

C̣n Phối-Sư là bậc Thượng-Thừa nên có ba thẻ. Trung-Thừa Chí-Tôn không cần định để cho mỗi người cố-gắng lập vị ḿnh mau chóng tới bậc Thượng-Thừa. Nếu qua khỏi ba thẻ lên chín tức là vào hàng phẩm Cửu-Thiên Khai-Hóa.

Cách nhau có một mức Phối-Sư với Chánh-Phối-Sư mà xa nhau như Trời một vực. Hễ đủ tài đức cầm quyền Đạo có quyền Vạn-Linh và quyền Chí-Tôn ủy-nhiệm ân-tứ quyền-hành th́ là vào ngay Cửu-Thiên Khai-Hóa qua khỏi Tam-Thừa.

Phần thứ hai:
Ai cho Luật-Sự mang giày vào Điện.
Điều ấy là quá phép, đặng mang giày vào Điện là Chánh Phối-Sư th́ hàng Tiếp-Dẫn Đạo-Nhơn mới đặng mang giày vào Điện.

Phần thứ ba:
Khi nào đă có mang Sắc-Lịnh của HỘ-PHÁP nơi ḿnh và hành-lễ thay h́nh thay xác cho HỘ-PHÁP mới đặng đứng ngay giữa thế cho h́nh-ảnh HỘ-PHÁP, c̣n ngoài ra th́ đứng một bên phía Thế-Đạo tức phía Thượng-sanh.

Khi thay h́nh-ảnh là khi có lịnh đặc-biệt của HỘ-PHÁP phú cho và có mang Sắc-Lịnh nơi ḿnh.

Phần thứ tư:
Chỉ kêu là vị Luật-Sự. Đối với Lễ-Sanh th́ gọi là ông Luật-Sự Pháp-Chánh. Tới bậc Chưởng- Ấn trở lên mới gọi là Ngài.

      HỘ-PHÁP (Ấn-Kư)

b.Lời Thỉnh-Giáo của Tiếp-Lễ Nhạc-Quân

1- Ba vị Chưởng-Pháp: Phái-Ngọc mặc Sắc-Phục đỏ, Phái-Thái mặc Sắc-Phục vàng c̣n phái Thượng theo lẽ phải mặc Sắc-Phục xanh, nhưng không hiểu sao lại mặc Sắc-Phục toàn trắng ?

Lời Phê: Mạng lịnh của Đức Chí-Tôn Bần-Đạo cũng không hiểu.

2 - Tiểu-Đệ nghe nói có Thập-Nhị Bảo-Quân, nhưng không hiểu là ai và có phải mỗi vị Bảo-Quân sau nầy Chưởng-Quản một Hàn-Lâm-Viện không ?

Lời Phê: Toàn-thể Bảo-Quân là Hàn-Lâm-Viện, mỗi vị có sở-thức, sở-năng ấy là điều khác nhau đặc-biệt, tỷ như Huyền-Linh-Quân nghĩa là Thần Linh-Hồn khác với Bảo-Học-Quân thuộc về khoa học hay là thực-tế học.

Bảo-Huyền-Linh-Quân
Bảo-Thiên-Văn-Quân
Bảo-Địa-Lư-Quân
Bảo-Học-Quân
Bảo-Cô-Quân
Bảo-Sanh-Quân
Bảo-Phong-Hóa-Quân
Bảo-Văn-Pháp-Quân
Bảo-Y-Quân
Bảo-Nông-Quân
Bảo-Công-Quân
Bảo-Thương-Quân.

3 - Thập-Nhị Bảo-Quân dưới quyền nào của Đạo ?

Lời Phê: Riêng cho quyền Thượng-Hội, dưới quyền chỉ-huy của Giáo-Tông và HỘ-PHÁP.

4 - Cửu-Trùng-Đài là xác, Bát-Quái-Đài là hồn, Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần đứng trung-gian để cho xác-hồn hiệp một, nhưng sao Đền-Thánh Hiệp-Thiên-Đài ở trước, Cửu-Trùng-Đài ở trung-gian rồi mới đến Bát-Quái-Đài ?

Lời Phê: Phải phân phẩm đặng khai mở Thiên-Môn, rộng quyền Phổ-Độ, đặng tận độ các chơn-linh và các phẩm chơn-hồn vào Cửu-Thiên Khai-Hóa, phải đến Thiên-Môn trước rồi mới vào đặng Cửu-Thiên, hồn nó không ở với xác mà ở ngoài xác, c̣n Chơn-thần là dắt d́u đồng sống với xác đặng độ xác, tương-sanh th́ cần chi phân sau hay trước chỉ là Khinh cùng Trọng mà thôi chớ.

5- Nếu nói Hiệp-Thiên-Đài là Chơn-Thần trung-gian của xác và hồn th́ Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài đứng ở giữa, nhưng sao lại đứng ở ngoài mà ngó vào Cửu-Trùng-Đài rồi đến Bát-Quái-Đài ?

Lời Phê: Đứng giữa rồi ngoài họ đuổi Thiên-Hạ ra th́ ai thấy dùm cho, nếu Chơn-Thần vắng mặt th́ chắc xác không biết đường đi mà chớ.

6 - Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài phải đứng chầu lễ Đức Chí-Tôn hay có ư-nhiệm về Bí-Pháp thế nào, tại sao lại không ngồi?

Lời Phê: Chơn-Thần phải thường tại tức là phải Hằng-Sống, nếu để nó ngồi không buộc nó đứng th́ nó sẽ ngủ gục hay là chết. (26/ 10/ Canh-Dần )

      HỘ-PHÁP (Ấn-Kư)

c.Tờ thỉnh-giáo của Hộ-Đàn Pháp-Quân, ngày 1/4/ Quí-Tỵ 1953, v/v bái lễ Chí-Tôn tại Bát-Quái-Đài, cả Chức-Sắc, Chức-việc Đạo-Hữu xoay lưng lại xá bàn HỘ-PHÁP, khi măn đàn rồi cả Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài xá đáp lễ lại.

LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP

Cái xá ấy chẳng phải làm lễ trọng Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài từ lớn đến nhỏ mà là xá chữ Khí. Chữ Khí là nguồn cội của Pháp đă biến sanh ra vạn-vật, Phật là trước tới Pháp là thứ kế Tăng là tiếp, cái xá ấy là kính đệ tam qui, trong Pháp ấy xuất-hiện Phật-Mẫu kế tới Vạn-linh, v́ cớ cho nên Diêu-Tŕ-Cung cùng Hiệp-Thiên-Đài có t́nh mật-thiết cùng nhau về một căn-cội Pháp, để vận-hành Ngươn-Khí tạo Vạn-linh th́ vị HỘ-PHÁP do Di-Đà xuất-hiện rồi kế vị HỘ-PHÁP và kế tiếp Long-Thần HỘ-PHÁP cùng toàn bộ Pháp-Giới đương điều-khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng đều do nơi chữ Khí mà sanh sanh hóa-hóa. Chào chữ Khí tức là chào cả Tam-Qui Thường-Bộ-Pháp-Giới tức là chào mạng-sanh của chúng ta, chớ chẳng phải chỉ chào HỘ-PHÁP Thập-Nhị Thời-Quân. Thập-Nhị Địa-Chi đă xuất-hiện mà đang thi-hành sứ-mạng nơi Hiệp-Thiên-Đài, mà chào toàn-thể Vạn-Linh đă sanh-hóa từ tạo Thiên lập Địa.

Xin nhớ và truyền-bá lời Giáo-Huấn nầy, chính ḿnh lầm hiểu là thất-đức chớ chẳng phải người đảnh-lễ là thất-đức.

      HỘ-PHÁP (Ấn-Kư)

 

 

15. T̀NH THẦY TR̉ CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ VÀ CÁC MÔN ĐỒ

 

1. Không biết có phải luật trời cố định là hễ danh nhân th́ đau khổ v́ gia đ́nh không mà từ Socrate đến Khổng Tử đều giống nhau ở chỗ bất hạnh lứa đôi. Socrate bị ông tơ nhốt chung trong lao tù hôn nhân với ác phụ mấy mươi năm trời hành khổ ông. C̣n Khổng Tử vừa Thánh vừa thông minh không kém Socracte lại bị bà Nguyệt kết tóc xe tơ với một đàn bà mà theo Lâm Ngữ Đường th́ thuộc loại vụng về, dở dang. Không rơ hẳn tại lỗi ai mà họ Khổng phải ly dị vợ hồi 23 tuổi sau bốn năm cầm sắc đắng cay.

2. Cũng không biết phải do luật trời cố định nữa hay không mà những vạn thế sư biểu như Socracte, Khổng Tử thành công trong nghề làm Thầy đối với người dưng kẻ lạ hơn là đối với con cái của ḿnh. Socracte có ba người con là Lamprocles, Sophrosque và Méné-xène mà không ai được ông dạy dỗ nổi danh. Thậm chí đến giờ phút ông uống độc dược ba con ông cũng không được ông cho chứng kiến cảnh ông ly trần. Chỉ có các môn đồ là được theo ông tận cùng đời ông thôi.

Khổng Tử th́ theo Luận Ngữ cho biết có đứa con trai tên Lư Tự là Bá Ngư và đứa con gái ông gả cho một môn đồ mà ông thương v́ bị bắt oan tên Công Dă Tràng. Bá Ngư bẩm phú tầm thường, trí óc kém cỏi, giao tế lù khù, đặc biệt là lười học. Luận Ngữ thuật lại, mấy lần Khổng Tử hỏi Bá Ngư học thi chưa? Học Lễ chưa? Bá Ngư đều trả lời chưa cả. Trần Cang một môn đồ của Khổng Tử nói rằng: “Nhờ Khổng Tử hỏi Bá Ngư về việc học mà biết được họ Khổng “quân tử chi viễn kỳ tử dă”. Người quân tử không hay gần con như vậy là tại sao? Chắc tại nhiều lư do mà quân tử có thể dùng để biện minh cho ḿnh để khi có ai nói: “Hỡi thầy thuốc! ông hăy tự chữa lấy ông (Médice! Curate ipsum)”.

Ở đây ta muốn nhấn mạnh mẫu số chung giữa Socracte và Khổng Tử là hai sư biểu đều đối với con rất sơ, nếu dạy được tṛ thành danh lỗi lạc th́ không dạy được con nên thân nên phận ǵ.

3. Lối tổ chức lớp học của Khổng Tử cho các môn đệ như Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử Cống, Tăng Tử, Tử Hạ v.v…đại khái ta thấy giống như Socracte tổ chức cho những Plation, Criton, Apollodore v.v…hay giống như Platon trong học viện Aoadémus. Thầy tṛ họ Khổng ngồi quanh quần với nhau trao đổi ư kiến để t́m chân lư và Đạo lư hơn là thầy độc giảng thao thao bất tuyệt. Tṛ học ở Thầy mà Thầy cũng học ở tṛ.

Lắm lúc Khổng Tử dạy học theo kiểu Aristore trong học viện Lycéum, học viện mà Aristote dạy các môn đồ theo lối vừa đi dạo vừa dạy. Cái cảnh Khổng Tử ngồi dạy xong th́ cầm đờn ca hát, tṛ ngồi xướng họa thưởng thức, hay cảnh thầy tṛ lang thang đất Thái, đất Trần, Thầy nằm nghỉ mệt, mơ màng với tàng cây thơ mộng, c̣n trẻ đọc sách, người nấu cơm là cái cảnh thông thường của thầy tṛ họ Khổng. Ngày nay được mấy thầy tṛ cởi mở ngồi hỏi với nhau về hoài bảo tương lai. Khổng Tử hỏi Tử Cống ước nguyện ǵ? Tử Cống bảo: “Chỉ mong phát phú bằng thương măi”.

Hỏi Tử Lộ sau nầy muốn làm ǵ? Tử Lộ thưa rằng: “chỉ mong có ngựa, có xe đi, có của cải đầy đủ, ḿnh dùng dư, tiếp giúp bạn bè”. Tử Lộ hỏi Khổng Tử chí nguyện ra sao? Khổng Tử nói: “Không mong ǵ hơn là thân phận kẻ già mà được yên hàng, bằng hữu giữ chữ tín và tuổi trẻ đừng thất vọng”. C̣n cảnh đàm Đạo thân mật thâm thúy giữa sư đệ hơn cảnh đối thoại chân thành ấy nữa không!

4. Ngày nay có mấy Thầy biết nghe lời tṛ, có mấy lần Khổng Tử đến thăm nàng Linh Công là vợ vua nước Vệ, một đàn bà khét tiếng lẳng lơ. Hai bên bái xá nhau ra vẻ tương đắc. Thực ra Khổng Tử đi thăm Linh Công như vậy có ǵ đáng trách. Nhưng về sau môn đồ ông là Tử Lộ tỏ vẻ trách ông là thiếu cẩn thận, buộc ḷng ông phải cam đoan với Tử Lộ: “Dư sở phủ giả, thiên yếm chi! Thiên yếm chi” (Thầy mà làm vậy, Trời hại Thầy, Trời hại Thầy).

Cũng Tử Lộ có lần trách ông sao có ư nghĩ muốn đến với Phật Nhiễu là bề tôi họ Qúi mà cướp đất chủ. Khổng Tử viện lư nầy, lư nọ nhưng sau cùng nghe lời Tử Lộ, không đến với Phật Nhiễu.

5. Ở thời đại nào cũng vậy chứ không riêng ǵ thời đại ta, có vô số thầy dạy tṛ rồi rồi tṛ giỏi đâm ḷng ganh tị và thường hay chê bai, mạt sát tṛ nào ăn ngay nói thẳng chạm tự ái ḿnh. Khổng Tử không như vậy, ông là thầy với tất cả các ư nghĩa thẳm sâu của tiếng ấy. Nghĩa là ông vui mừng khi thấy tṛ có điểm hơn ḿnh, ông không  tiết lời khen môn sinh.

Tử Lộ đủ thứ tật xấu, nào hung hăng xằng, phán đoán lệch lạc, nhiều lần táo bạo trực ngôn cảnh cáo ông mà Khổng Tử vẫn quí mến Tử Lộ, vẫn tán dương Tử Lộ. Có lần Khổng Tử nói chơi với Tử Lộ: “Nếu Đạo Thầy mà bất thành, Thầy sẽ với một mái thuyền thảnh thơi trôi trên mặt biển. Lúc ấy chắc không c̣n ai theo Thầy ngoài Tử Lộ”. ông nầy tưởng Thầy ḿnh nói thật, tỏ ra khoái chí, vênh vênh tự đắc ḿnh là trung đệ đầu sổ.

Thật đúng rặt là thái độ của Pétrus, môn đồ đầu tiên của Chúa Jésus cả quyết dù ai bỏ Thầy th́ bỏ chứ ông không bao giờ bỏ. Tự đắc như vậy mà đêm Đức Jésus bị bắt, Pétrus chối Thầy ḿnh đến ba lần. Tử Lộ đối với Khổng Tử cũng giàu hào khí như Pétrus, khi chưa thành đại thánh. Khổng Tử thấy Tử Lộ vênh vênh như vậy khen là can đảm mà c̣n non trí. Lần khác họ Khổng khen Tử Lộ là người không đố kỵ và liêm chính. Tử Lộ cảm thấy như lên mây cho ḿnh là người quá tuyệt đến đổi Khổng Tử dặn thêm là vậy chưa đủ. Th́ ra ta thấy Tử Lộ là người tâm tính nông nổi quá, thương Thầy thực, cầu tiến song chưa thuần. Vậy mà Khổng Tử cũng thấy được nhiều ưu điểm để khen.

Trọng Cung, một đồ đệ nữa của họ Khổng không có ǵ nổi bật như các môn sinh khác nhưng có lần nói một câu chí lư, được ông khen. Trọng Cung nói: “Cư kinh, hành giản”. Nghĩa là cư xử th́ cung kính c̣n cầm quyền th́ thi hành đơn giản. Như vậy ta thấy dù tṛ của ông tầm thường tới đâu, Khổng cũng t́m được điểm son để khen.

Trong Khổng Tử Gia Ngữ, có chỗ Khổng Tử nói với Tử Hạ: “Nhan Hồi có đức tín hơn ông, Tử Cống lanh lợi hơn ông, Tử Lộ gan mật hơn ông, Tử Trương nghiêm chỉnh hơn ông”. Tử Hạ bổng đứng dậy, ngạc nhiên nói: “Vậy thưa Thầy, tại sao bốn anh ấy c̣n theo học Thầy?”

Khổng Tử nói: “Ngồi xuống, ngồi xuống, Thầy nói hết cho nghe. Nhan Hồi tin mà chưa biết không tin. Tử Cống lanh mà không biết chậm. Tử Lộ dũng mà hông biết biết nhát. Tử Trương nghiêm mà không biết ḥa dịu”. Môn sinh được Khổng Tử khen không tiếc lời đó là Nhan Hồi. Theo ông th́ Nhan Hồi hiền lương, ông nói ǵ th́ hiểu ngay, hiếu học biết an phận nghèo, ngày càng tiến trên con đường Đạo lư. Có thể nói Khổng Tử thương Nhan Hồi nhứt các đồ đệ của ông, y như Đức Giêsu thương Thánh Gioan hơn các 11 vị sứ đồ vậy. Hai thầy tṛ tương đắc và coi nhau như tri kỷ. Lắm lúc họ tṛ chuyện nhau như bằng hữu hay đôi nhân t́nh. Lần nọ hai người gặp nạng ở đất Khuông. Thoát nạng xong, Khổng Tử gặp Nhan Hồi nói: “Thầy tưởng con chết rồi chứ”. Nhan Hồi thưa: “Thầy c̣n sống làm sao con dám chết”. Nói xong hai Thầy tṛ cười reo khoái trá. Muốn ư thức cảnh ngộ nầy ta đừng quên họ là người tàn nữa. Một trong những giáo điều thâm thúy nhứt của Khổng Tử, ông đă truyền lại cho Nhan Hồi, ông nói: “Đắc dụng th́ ḿnh thi Đạo, bằng không th́ ẩn thân hành Đạo”. Mấy ai ngày nay dấn thân vào việc nước mà lấy câu ấy làm châm ngôn.

6. Họ Khổng biết lạc quan nh́n cái hay của tṛ ḿnh nhưng không phải không quở trách nặng. Về điểm nầy ta thấy ông xứng đáng là một tôn sư và trong hệ thống quân sư phụ, sư đi trước phụ được Khổng Tử chứng minh một cách hùng hồn. Ông rầy la môn đồ bằng một thứ t́nh cốt nhục. Lúc muốn cho họ nên người mà cần trực ngôn, ông không nể nang mềm dẻo một cách giả tạo. Mấy lúc ấy ta thấy ông tỏ ra gần ta hơn khi ông là tượng trưng của chữ Lễ.

Đọc đời tư các vĩ nhân, thấy những lúc họ tỏ ra giận dữ như bọn phàm nhân chúng ta sao ta thấy quí mến họ hơn. Chúa Jésu có lần bảo môn đồ hăy học nơi Chúa sự hiền lành, khiêm nhường thật trong ḷng song có lần Chúa cũng nổi cơn lôi đ́nh vác roi rượt đánh bọn con buôn lấy đền thánh Giê ru salem làm chợ búa. Lúc uống độc dược xong, Socrate thấy các môn đồ của ḿnh khóc, ông nghiêm mặt quát: “Các anh làm kỳ vậy! tôi đuổi hết phụ nữ ra khỏi pḥng, chỉ để các anh lại thôi là cố ư tránh cái cảnh hèn yếu đó”. Người ta nói cơn giận của vĩ nhân là “Ira sancta” tức là Thánh nộ có phải không? Có lần Khổng Tử thấy Tử Lộ cương trực đến thành hung bạo, cảnh cáo Tử Lộ: “Coi chừng hung hăng tầm bậy mà bất đắc kỳ tử”. Không ai bảo họ Khổng là nhà tiên tri hay nhà tính t́nh học song v́ am hiểu tính nết học tṛ ḿnh nên quả thực về sau cái chết chưa tới số của Tử Lộ ở đất Vệ chứng minh tiên ngôn của Đức Khổng Tử.

Lần khác Nhiễm Tử và Tử Lộ (cũng Tử Lộ nữa) là bề tôi của họ Qúi kẻ sắp đánh  một thuộc địa của nước Lỗ mà không cương trực ngăn cản. Đánh như vậy theo Khổng Tử là bất công. Nhiễm Hữu, Tử Lộ đổ lỗi cho họ Qúi. Khổng Tử nổi nóng nói như tạc nước sôi: “Các anh giúp nước mà thấy không giúp dân được th́ nên từ chức. Người quân tử không bao giờ viện lẻ nầy lư nọ làm bậy. Thiên hạ ngoài nước thấy họ Qúi cùng các anh không phục th́ phải làm cho người ta phục, sao lại đem quân đánh người ta, làm như vậy là gây điên đảo không phải ở quốc ngoại mà chính ngay nội bộ nước ḿnh. Các anh hiểu chưa?”

7. Tính t́nh Khổng Tử lúc nào cũng ôn lương, ăn nói với các môn đồ mềm mỏng, thân mật nhưng không phải không có lúc ông không mỉa mai một cách tế nhị đâu. Tử Cống thấy Khổng Tử và các môn đồ cứ ở ẩn hành Đạo, trách ông sao dấu ngọc quí măi trong hộp mà không đem bán cho người đeo. Ông mỉa mai với Tử Cống: “Th́ đem bán đi, bán đi”. Trong bụng họ Khổng vẫn đồng ư với Tử Cống, nhưng v́ không gặp minh chúa nên chưa dấn thân. C̣n Tử Cống th́ hơi vội. Tủ Du dùng lễ nhạc trị dân. Có lần Khổng Tử nghe tiến hát vang dậy từ nhà dân , bảo Tử Du: “Ai lại đi cắt cổ gà bằng dao mổ trâu”. Tử Du nói: “Ngày xưa Thầy bảo tiểu nhân học Đạo th́ để trị. Nay con dùng lễ nhạc luyện họ thành quân tử, sao Thầy trách”. Khổng Tử nói cùng các môn đồ: “Tử Du có lư đấy. Lời ta nói lúc nảy chỉ hài hước thôi”.

8. Cái độc đáo của Khổng Tử là ông theo dơi sinh hoạt của môn đồ ông suốt đường đời của học. Một Aristote đối với cuộc đời của A lịch sơn Đại Đế, một Alain với André Maurois thể nào th́ từ trước Khổng Tử đă làm. Một số nhà Nho đă theo truyền thống của Khổng Tử. Ở nước ta có thể tạm liệt kê trường hợp của La Sơn Phu Tử đối với Nguyễn Huệ, mặc dù vị anh hùng nầy không hẳn là môn sinh của La Sơn Phu Tử hiểu theo nghĩa chuyên môn đă bàn trên. Học tṛ của Khổng Tử cũng như Socrate, Platon có đến số ngh́n. Nhưng trong đại đa số ấy kết tụ lại một thiểu số. Nó lập thành một gia đ́nh tâm huyết mà thầy được coi như cha và trỏ như con. Họ nương vai đỡ cánh với nhau để thực hiện chí lớn. Một Tử Du hồi c̣n ngồi trên ghế học đường được Khổng Tử nghiêm khắc dạy dỗ, có lần bị mắc là gỗ mục, là vách đất, không khắc ǵ được, không vẽ ǵ được bởi v́ lười biếng. Những Tử Lộ, Nhiễm Hữu đă thành nhân ra đời làm quan rối cũng được ông theo dơi cảnh cáo cho những khi làm bậy. Tử Cống tuổi chất đầy vai rồi mà c̣n cái tật háo danh, ưa so sánh người nầy với người kia để cho ḿnh nổi bật, có lần bị Khổng Tử cho bài học đau thấu xương để hết cái tật chê người nầy móc người nọ.

Khổng Tử nói với Tử Cống: “Thầy tự kiểm để tự tu mà làm chưa trọn, có thời gian đâu mà xét nét, sửa sai thiên hạ”. Trường hợp Thánh Pétrus trong đêm đức Jesu bị bắt, toát gươm thất phu chi dũng, nhào tới chém sứt vành tai của một đối phương, bị đức Jesu mắng rằng: “Kẻ dùng gươm phải khốn v́ gươm”. Có giống trường hợp sau đây của thầy tṛ Khổng Tử không? Nhiễm Hữu làm quan cho họ Qúi, thâu thuế thắt họng dân chúng, Khổng Tử nổi cộc bảo với các môn sinh: “Chúng con hăy nổi trống thổi chiên mà đả đảo nó. Nó không phải là học tṛ của ta nữa”.

Ôi ! ngày nay làm sao trên đường phục vụ ta t́m được những tôn sư biết lựa lúc nỗi lôi đ́nh dùm ta như những thánh sư như chúa Jesu và Đức Khổng Tử. Ta trị dân mà tham quyền cố vị, kỳ thị, hối mại quyền thế, tham nhũng, ta cần người cảnh tỉnh lắm chứ. Không lẻ đợi tới khám đường giúp ta hối hận.

9. Thầy tṛ họ Khổng chẳng những Thầy lo cho tṛ mà tṛ cũng chết sống là trung đệ, bênh vực thầy đáo để. Nhan Hồi biểu lộ ḷng khâm phục vô biên thầy ḿnh trong mấy lời sau đây: “Đừng nói dại mà thiên hạ cho ḿnh ngu. Thầy của chúng ta không ai b́ nổi”. Rồi chính Tử Cống lại được Thúc Tôn Vơ Thúc say sưa ca ngợi tài đức, cho rằng hơn hẳn Khổng Tử. Lời ấy lọt vào tai Tử Cống, Tử Cống liền nói: “Tôi là vách tường, thiên hạ nhón gót lên thấy được vài đồ quí, c̣n Thầy tôi là vách cao muôn trượng thiên hạ không làm sao phóng mắt tới để thấy vô số bảo vật trong kho lẩm vô tận”. Trời ơi! Sao mà Thầy tṛ người ta tương kính, tương nể và đùm bọc nhau chung thủy như vậy.

Nếu ở thời nay, Khổng Tử đầu thai ứng cử làm đại sự nào mà khách chính kiến với môn đồ, ông có bị cả một chiến dịch tṛ lên mặt báo bôi lọ Thầy không?

10. Trong đời làm Thầy, ngay như Khổng Tử là minh sư có lúc cũng thiếu sót mà vô số nhà giáo tạm thường khó tránh khỏi. Đó là thấy không hết trong đám môn sinh của ḿnh có mấy ngôi sao tuy lúc học th́ lu, lúc ra đời sáng rực. Cái hơn của Khổng Tử là mắc cái thiếu ấy mà không tầm thường ở chỗ miệt thị những người thiên tài lúc chưa lột xác. Tôi muốn nói trường hợp tṛ Tăng Tử của Thầy Khổng, Tăng Tử cũng gọi là Tăng Săm, người mà ngay Nha Hồi được Khổng Tử ca tụng thông minh nhứt, trọng sủng nhất không sánh kịp, người đă tiếp tục được chí cả của Khổng Tử, người đă làm cho tên Thầy ḿnh thành minh tinh trong cuốn Đại Học, người đă thấu triệt được câu “Ngô Đạo nhứt ái quán chi” Đạo của tôi là một lẻ mà gồm trọn tất cả.

Người lúc c̣n sách đèn lại là một đứa học tṛ không có ǵ xuất sắc. Hiền hậu đến bị coi là khù khờ, ít nói đến thành coi là đần độn. Thấy vậy Khổng Tử không nức nở khen như khen Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử Cống, song không miệt thị nhận ch́m Tăng Tử. Người mà ông đặt ít kỳ vọng lại là người truyền bá Đạo của ông đắc lực nhất. Nếu Lâm Ngữ Đường bảo, Tử Lộ của Khổng Tử một thứ Thánh Péreus của Jesu th́ bạn có thể nói Thánh Paulus của Đức Jesu là một Tăng Tử của Khổng Tử. Dĩ nhiên ở đây chỉ nhắm một hai khía cạnh thôi: cho ca trước th́ nói về tánh khí và cho ca sau là nói về mặt truyền bá thuyết.

11. Sau hết bạn chỉ dùm tôi trong lịch sử loài người vài trường hợp mà tṛ chết, Thầy khóc như mất t́nh nhân như mất vợ hiền giống y trường hợp Thầy Khổng Tử khóc tṛ Nhan Hồi. Ai cũng biết đức Khổng Tử yêu mến Nhan Hồi nhứt trong các môn sinh. Ông tin tưởng Nhan Hồi sẽ kế nghiệp ông, quảng bá Đạo của ông. Nhưng đau đớn thay, Nhan Hồi chết sớm, bỏ ông hồi mới 31 cái xuân. Khổng Tử hay Hồi chết kêu lên một cách đau đớn: “Trời hại tôi, Trời hại tôi”. Niềm tin của ông đặt nơi Nhan Hồi biến thành ảo vọng đến đỗi ông thốt những lời sau đây khi có môn sinh trách ông sao khóc than chi quá thảm năo. Ông nói: “Tôi không khóc Hồi chết th́ c̣n khóc ai nữa bây giờ”. Thầy mà như họ Khổng th́ thưa bạn, môn sinh có chết mấy kiếp nếu được luân hồi tái sinh, chắc không xin Trời Phật điều ǵ hơn là xin cái diễm phúc làm người để được làm môn sinh Thầy Khổng.

(Trích trong quyển Gương Thầy Tṛ của Hoàng Xuân Việt từ trang 24-34)

 

 

 

16. VĂN CHƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN NGÀI BẢO SANH QUÂN LÊ VĂN HOẠCH

 

a) Đức Thái Thượng Lăo Quân cho Ngài Đạo Hiệu là Ngô Đồng và có cho đôi liễu:

NGÔ rạng cẩm đường, một tấm ưu thời bền dạ sắt,

Ṭng che hoan lộ, trăm năm vị quốc chặt gan ĐỒNG.

Chúng ta để ư, thường các Đấng cho biệt hiệu hay Đạo hiệu th́ lấy chữ đầu mỗi câu, nhưng ở đây Đức Thái Thượng lấy chữ đầu của câu đầu và chữ cuối của câu sau làm Đạo Hiệu đó cũng là một trường hợp đặc biệt.

b) Đức Nhàn Âm Đạo có cho Ngài Bảo Sanh Quân một bài Thánh Giáo như sau:

Mừng chư Hiền Hữu.

Bần Đạo đă từng d́u dắt chư Hiền Hữu trong đường Đạo và việc đời; không lẻ hôm nay một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài đảm đương gánh vác trách nhiệm nặng nề mà chẳng có một vài lời tỏ ư kiến vậy.

Hoạch ! Hiền Hữu nên nhớ, lo việc nước là v́ Đạo, v́ đời, tuy việc t́nh cờ chớ đó là Thiên ư. Đạo được sáng ngời chăng là do nơi kết quả trong bước đường của Hiền Hữu. Cái khó là chỗ đó. Bần Đạo xin có đôi lời tâm huyết nầy:

Thi

Gánh đời đă tự cất lên vai,

Trau chuốt sao cho đủ trí tài.

Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm,

Thiệt hư ǵn nhẹm chước phương hay.

Dụng quyền hơn đức, quyền tan nát,

Tạo thế kém nhân thế đạo đày.

Ví biết giống nồi đang thống khổ,

Trở đương cho vẹn phận làm trai.

 

Làm trai cho vẹn phận,

Nợ non sông muốn gánh phải lo tṛn.

Giữa bể khơi lắt lẻo chiếc thuyền con,

Cơn sóng gió liệu cho c̣n hay để mất.

 

Khóc nước loạn rừng khuya con quốc quốc,

Là v́: Máu thành sông, thây chất ví non cao.

Kiếp ngựa trâu Việt chủng vẫn kêu gào,

Đá Tinh Vệ chừ bao cho lấp bể.

 

 

Vận hội đều đă xây thời thế,

Bởi hung tàn mà chưa thoát lệ nô.

Bốn ngh́n năm một gánh cơ đồ,

Chia rẽ măi điểm tô không kịp bước.

 

Đời lấn Đạo đời xa cội phước,

Đạo d́u đời vận nước mới an.

Đức lập quyền dân được châu toàn,

Quyền xua đức nhân gian thống khổ.

 

Lấy chí Thánh d́u đời giác ngộ,

Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang.

Trị theo đời mà dân chúng vẫn lầm than,

Đó là d́u chúng đến con đường tự diệt.

 

Do bốn chữ: Minh, Cang, Liêm, Khiết.

Đạo hay đời trăm việc cũng thành.

Gắng đề pḥng bả lợi đua tranh,

Cầm hạt giữ đạm thanh khi sớm tối.

 

Chậm răi bước đường xa chớ vội,

Góp ư hay mở lối cương thường.

Thương đời cho trọn chữ thương…

Bần Đạo xin chư Hiền Hữu hiệp sức mà chống vững cơ Đạo, trong lúc nầy là lúc khó khăn. Tuy thấy bề ngoài dể chớ c̣n lắm gay go đời với dân với nước, phải thận trọng bởi trách nhiệm, dầu Đạo dầu đời. Con đường thất bại mới vừa qua chỉ rơ chư Hiền Hữu trong bước sau nầy. Chờ qua hết màng đương diễn sẽ thấy lần hồi dể dàng an tịnh.

Nên hiểu lời Bần Đạo.

Thăng

c) Đức Chí Tôn c̣n giáng cơ cho Đức Bảo Đại có liên quang đến ngài Bảo Sanh Quân theo bài Thánh Giáo sau đây. Căn cứ theo bài nầy Đức Hộ Pháp trích hai câu luận:

Quốc Đạo Nam Triều thành Đại Đạo,

Nam Phong thử nhựt biến nhơn phong.

Giảng 4 đêm 1 lần, kéo dài cả tháng mới dứt.

Bài ấy như vầy:

 

 

 

Pḥ Loan:   Hộ Pháp ,  Tiếp Đạo   

Đêm 11 tháng 12 Đinh Hợi (21-1-1947)

 

THẦY CÁC CON

Ừ! Ngày nay là ngày Thầy đă đắc vọng cho toàn thể ṇi giống các con.

Vinh ! con và Hoạch phải hiệp cùng Vĩnh Thụy mà làm tṛn sứ mệnh theo thánh ư Thầy đă định đa nghe !

Tắc ! con biểu Tài viết Nho văn bài thi nầy rồi  Hoạch con đưa tận tay Vĩnh Thụy.

                                   THI

Thượng hạ nhị thiên xử địa huờn,

Việt Nam nhứt quốc nhứt gian san.

Hoàng Đồ toàn bảo Thiên Thi định,

Đảnh tộ trường lưư tổ nghiệp tồn.

Quốc Đạo Kim Triều thành Đại Đạo,

Nam Phong thử nhựt biến Nhơn Phong.

An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn,

Văn hóa tương lai lập đại đồng.

 

Thầy lại muốn cho hai con Hoạch và Vinh hiệp cùng Vĩnh Thụy hội thuyết tại Hạ Long nghe à !

Thầy ban ơn cho các con.

Thăng.

Quan sát bài Thánh Giáo trên, chúng ta chẳng những được một kim chỉ nam cho tương lai nồi giống Việt thường mà c̣n biết được nền Đại Đạo sẽ đem phong hóa Việt Nam làm gương mẫu cho phong hóa nhơn loại trong thế giới đại đồng buổi tương lai nữa mà chớ.

d) Trong một đàn cơ Đức Cực Chơn Lăo Sư có giáng cho Ngài Bảo Sanh Quân một bài thi tứ tuyệt như vầy:

Mèo mun ngồi dựa cái mùng meo,

Trèo đăi rồi leo bẻ trái đèo.

Lách trật khỏi nhào vô lật trách,

Leo ra chủ rượt chạy la reo…

 

 

17. MỘT SỐ BÀI THI CỦA NGÀI BẢO VĂN PHÁP QUÂN CAO HUỲNH DIÊU

 

Trong lễ thiêu xác của Ngài năm 1976, Ngài Hồ Bảo Đạo có kể công nghiệp về mặt văn chương; bởi thế chúng ta đă mang một ơn rất trọng đại với Ngài Bảo Văn Pháp Quân. Những bài sau đây đều do Ngài sáng tác:

1) Bài Dâng Hoa

2) Bài Dâng Rượu

3) Bài Dâng Trà

4) Bài xưng tụng công đức của Phật Mẫu: “Kể từ hổn độn sơ khai….”

Lúc sanh tiền, thời Pháp thuộc mà làm thi thiên về quốc sự th́ không truyền bá được nên Ngài mượn đề “Đăng Sơn” để nói sự khó khăn của bước Đạo như kẻ leo núi gặp dây mắt mèo, gặp dốc khó bước; những kẻ ruồng đường dẫn lối người sau mà đến đănh được th́ hết gặp khó khăn, ư nói những Chức Sắc lớn lănh Đạo đầu tiên mà được tín nhiệm của nhơn sanh th́ cơ Đạo sẽ tiến triển dể dàng.

 

         ĐĂNG SƠN

Nhớ thuở lên non gặp mắt mèo,

Đầy đường lễnh nghễnh lớp ḅ leo.

Dở chơn chơn ngán, chơn không bước,

Nh́n dốc dốc cao, dốc khó trèo.

Gấp bước ruồng đường người trước dẫn,

Lần hồi nối gót kẻ sau theo.

Cùng nhau rửa bợn qua lằn suối,

Vào cảnh tiêu diêu khỏi gặp đèo.

 

Lên non gặp cọp tưởng là mèo,

Chừng biết ổng rồi, dớn dác leo.

Tục cọp gặp voi t́m hố tuột,

Cổ truyền thấy cọp cứ dương trèo.

Tuột đèo mơn sức co ḍ nhảy,

Mệt mơi dừng chơn sợ ổng theo.

Chẳng nệ rừng sâu, đâu nệ suối,

Mới vừa khỏi dốc, bóc lên đèo.

                              Cao Liên Tử

 

Khi Ngài Bảo Văn đăng Tiên ngày mùng 4-9 Mậu Tuất (15-10-1958), các thi gia có làm nhiều thi điếu, xin trích đăng ít bài tuyệt bút:

 

          ĐỨC CAO THƯỢNG SANH KHÓC

NGÀI BẢO VĂN PHÁP QUÂN

CAO HUỲNH DIÊU

I.

Nh́n lại Trung Tông cảnh đượm sầu,

Cao Quân Văn Pháp có c̣n đâu !

D́u đời cửa Thánh đường mong đợi,

Thoát tục non Tiên vội đến chầu.

Ủ dột rừng ṭng xơ xác cảnh,

Rơi tan khối ngọc sụt sùi châu.

Lời vàng trao đổi từ đây dứt,

Giấc mộng hoa chờ gặp gỡ nhau.

                           Cao Hoài Sang

II.

Đă tầng cực nhọc đắp nền nhân,

Chưa toại ước mong vội lánh trần.

Đau khổ trả xong trường thế sự,

Nghiệp công ghi tạc chốn đài vân.

Tiếng cầm ấp lỗ đương êm ái,

Ngọn bút thần cơ đă đoạn phân.

V́ Đạo mấy mươi năm tận tụy,

Trăm năm lưu măi nét tinh thần.

                             Cao Hoài Sang

 

THUẦN ĐỨC ĐIẾU NGÀI BẢO VĂN

Nhơn sanh thất thập cổ lai hy,

Văn Pháp về Tiên quá nhiệm kỳ.

Văng vẳng bên tai lời chỉ giáo,

Mơ màng trong mộng Đấng uy nghi.

Cơi Thiên anh đă an ngôi vị,

Bến tục tôi c̣n lắm thị phi.

Thập Nhị Bảo Quân đành vắng dạng,

Tất thành xin điếu mấy vần thi.

                        Nguyễn Trung Hậu

 

NGÀI BẢO VĂN ĐIẾU NGÀI CA BẢO ĐẠO

        (Ca Minh Chương)

Một giấc ngh́n thu vĩnh biệt nhau,

Người trong tri kỷ, ruột gan xào.

Âm dương tuy cách xa muôn dặm,

Son sắc c̣n ghi tạc một màu.

Khóc phụ con hiền trông cửa trước,

Thương chồng vợ yếu vựa hiên sau.

Êm chơn với bước t́m nguồn Thánh,

Mà nở đành quên nghĩa tấc giao.

                               Mỹ Ngọc 1927

 

Khi về cơi Thiêng Liêng Ngài Bảo Văn có giáng cơ cho bài thơ Nhớ Trần như sau:

             NHỚ TRẦN

Đau khổ ném xong cái gánh trần,

Nhẹ nhàn mới toại chí thanh vân.

Đường mây vừa thoát tầm sông lệ,

Cánh hạc vui qua tận đảnh thần.

Công lớn chưa ghi trang sử Đạo,

Nghiệp Hồng c̣n tiếp dựng nền nhân.

Giựt ḿnh hối tiếc bao tâm sự,

Nhắn bạn trường tu gắn vẹn phần.

             Cao Liêng Tử tự Mỹ Ngọc

 

THI HỨA MINH CHÂU (1)

Thi thần mượn vận chứng công lao,

Rằng trẻ hữu tâm dựng Đạo mầu.

Trước giúp công Thầy tô vẻ “NGỌC”,

Cận kề đuốc Thánh rạng màu “CHÂU”.

Bước đời đă sẵn gương soi rơ,

Đường Đạo c̣n mong nguyệt rạng làu.

Đợi buổi giông tan Trời lố bóng,

Thang mây lần bước đến đài cao.

             Phú Nhuận ngày 28-11-Giáp Thân

                        MỸ NGỌC (11-1-1945)

(1) Minh Châu tức Trang Hoài Khánh là đệ tử của Ngài Bảo Văn Pháp Quân.

 

BỨC TRANH CŨ RÁCH

Thử hỏi tranh đồ trải mấy thu,

Giang san mờ mệt vẻ đeo sầu.

Cỏ hoa xơ xác màu phai lợt,

Ṭng bá nghiêng xiêu nét úa xàu.

Quạnh quẻ cửa nhà không kẻ ở,

Điều hiu am tự chẳng người tu.

Tiếc công Hàng Mạc xưa tô điểm,

Nay nở để nh́n cảnh bể dâu.

Trung Tông Đạo ngày 22-1-Mậu Tuất

                                   Mỹ Ngọc

 

             TỰ THUẬT

Danh không chát, lợi không ham,

Văn hóa ngh́n xưa gắn mịt tầm.

Phục văn quốc hồn nâng đảnh Việt,

Khêu ḷa đuốc ngọc rạng trời Nam.

Bao năm dơi bước theo chơn Đạo,

Muôn việc với đời dụng chữ tâm.

Sớm tối thừa nhàn nơi lănh thất,

Năm cung thường trỗi giọng Hồ Cầm.

Trung Tông Đạo ngày 21-2-Mậu Tuất

                                     Mỹ Ngọc

 

Một buổi trưa, đang mơ màng (lối năm 1932), Ngài Bảo Văn nghe vọng ngâm thi văn vẳn, Ngài định trí nhớ bài thi. Khi thức dậy Ngài chép lại và chờ một đàn cơ để hỏi bài ấy của ai và có chữ nào sai không? Bát Nương xác nhận là bài thi của Bà và rất đúng với bài ngâm hôm trưa ấy.

THI

Nhẹ gót nhàn du để vẽ hồng,

Sấn tay nước Việt dậm non sông.

Châu về đất Bắc chầu Kim Khuyết,

Ngọc rạng thành Nam chuộc ải đồng.

Mở lối đài vân mời chí sĩ,

Dọn đàng Hồng Lạc dắt anh phong.

Động Đào quen thú mơi chiều ngắm,

Hỏi khách tao nhân có mặn nồng.

                                 Bát Nương

 

Sau Ngài Bảo Văn có làm lối văn giống như Túy Sơn Vân Mộng của Đức Nguyễn Du, đặt tựa là “Trung Thu Linh Mộng”.

 

BI THU VẤN NGUYỆT

Thử hỏi thu hồng đă thoát qua,

Thu sang, thu trở đến thu tà.

Đường thu Cung Quảng bao nhiêu trải,

T́nh thế Hằng Nga chẳng mấy già.

Gương đă làu soi bầu thế giới,

Nguyệt sao ảm đạm nẻo quan hà.

Đạo tràng ngẩn lối trông tin nguyệt,

Nguyệt vẫn lu lờ lánh dạng xa.

Phú Nhuận ngày 14-8-Nhâm Ngọ (23-9-1942)

                                 Mỹ Ngọc

 

BÁT NƯƠNG HỌA

Thu về thắm thoát kế thu qua,

Thu hỡi chừng nao định chánh tà.

Thu đạm non Âu vừng ác xế,

Thu treo đảnh Việt bóng trăng già.

Thu c̣n nung nấu lằng binh lửa,

Thu tỏa đ́u hiu dậm hải hà.

Thu trước, thu nầy bao kẻ biệt,

Thu sầu, gượng nhắn khách đường xa.

                                   Bát Nương

   

HẾT

 

________________________________________________

 

Thay Lời Kết

Góp Nhặt Chuyện Đạo thật ra tên đúng của nó là “Tài Liệu Lượm Lặt” do Quang Minh sưu tầm và chép lại bằng tay. Tài liệu gồm 28 quyển bắt đầu khởi viết  tại Ṭa Thánh từ ngày 16-7-Canh Thân (1980) và kết thúc ngày…1986 khi Quang Minh đột ngột  qua đời vào năm nầy. Trong Tài Liệu Lượm Lặt gồm chuyện Đạo Cao Đài và các tôn giáo khác, chuyện lịch sử Việt Nam và thế giới, văn, thơ của các danh nhân…Quang Minh cảm thấy hay và chép lại. Đa phần các tài liệu nầy liên quan đến Đạo Cao Đài và các Đạo Nho, Lăo, Giáo. Các phần c̣n lại không đáng kể.

Tài liệu được viết tay trên tập viết học sinh thời bao cấp, giấy không được tốt như ngày nay. Có những lúc hết giấy viết ông dùng cả giấy rất mỏng mà thời đó người ta dùng để vấn thuốc lá hút rồi đóng lại thành tập. Lúc th́ dùng cả các tài liệu cũ bỏ đi nhưng mặt sau c̣n trống ông viết lên đó. Mực th́ lúc màu đỏ, lúc th́ màu tím, lúc th́ màu xanh, miễn sao có cái để viết là ông đều tận dụng hết, v́ lúc đó nhà ông rất nghèo.

Sau khi đọc qua tài liệu nầy, T.T có tham khảo ư kiến của các đàng anh và đă quyết định đổi lại thành Góp Nhặt Chuyện Đạo cho hợp t́nh với bài viết hơn. T.T đă lược bớt một số bài không liên quan đến chuyện Đạo để cho phù hợp với tựa đề.

Nếu Quang Minh c̣n sống chắc có lẻ ông c̣n sưu tầm và viết nhiều hơn nữa chớ không phải dừng ở tập 28. Góp Nhặt Chuyện Đạo đến đây cũng xin tạm dừng ở tập XXII. Cám ơn quí vị đă đồng hành cùng Góp Nhặt Chuyện Đạo đến tập cuối cùng.

Nay Kính

 

      GIA TÀI QUÍ

Gia tài ba để lại cho con,

Thật là quí hơn cả vàng son.

Nhờ đó con đây gần cửa Đạo,

Hiểu thông đôi chút chuyện trên non.

Từ ngày có được gia tài quí,

Phơi phới ḷng con như véo von.

Nguyện ḷng giữ kỹ gia tài ấy,

Đến măi đời sau cũng vẫn c̣n.

                              T.T

 

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

MỤC LỤC:

1. LỄ ĐĂNG ĐIỆN XÁ LỢI PHẬT TẠI ĐỀN THÁNH

2.CHỮ HIẾU TRONG NHO GIÁO

3. TÁNH KHIÊM NHƯỢNG

4. SO SÁNH LĂO GIÁO VÀ KHỔNG GIÁO

5. SỰ BIẾN THIÊN CỦA HỌC THUẬT NHO GIÁO

6. NGƯỜI TRONG THỜI KIM NGÂN SỐNG CHUNG VỚI THÚ DỮ

7. NGUYÊN LƯ CỦA CHƠN VÀ GIẢ

8. KHOA HỌC THIỆN

9. LƯ LÀ CÁI G̀?

10. ĐỨC THU TÂM

11. CÁCH PHÁN ĐOÁN VỀ SỰ ĐỜI

12. ĐẠO PHẬT Ở VIỆT NAM

13.TẢ CẢNH NÚI BÀ –THÁI PHONG

14.TRÍCH LỜI PHÊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP

15. T̀NH THẦY TR̉ CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ VÀ CÁC MÔN ĐỒ

16. VĂN CHƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN NGÀI BẢO SANH QUÂN LÊ VĂN HOẠCH

17. MỘT SỐ BÀI THI CỦA NGÀI BẢO VĂN PHÁP QUÂN CAO HUỲNH DIÊU

Top of Page

      HOME